THÁNG 3 : THÁNG KÍNH
THÁNH CẢ GIUSE
1.
TIN TỨC HỘI THÁNH CÔNG-GIÁO
2.
GIỚI THIỆU
a) T̀M HIỂU KINH THÁNH:
Đề 3 : THÁNH PHAOLÔ,
NHÀ TRUYỀN
GIÁO THỜI DANH CỦA GIÁO HỘI KITÔ TIÊN KHỞI
b) ĐỀ TÀI SUY
NIỆM.
MỘT LỀ LUẬT – HAI NGỌN NÚI
3.
CHIA SẺ :
THẾ GIỚI LÀ
PHẲNG (The World is flat)
PHÁI ĐOÀN TOÀ THÁNH THĂM VIỆT-NAM VÀ CÁC GIÁO
PHẬN.
Phái đoàn Ṭa Thánh ang
thăm và làm việc với Chính quyền Việt Nam từ
ngày 05 đến ngày 11.03.2007. Mỗi lần tới
Việt Nam, Phái đoàn đều dành thời gian đi
thăm một hai giáo phận. Lần này, Phái đoàn đến
thăm Giáo Phận Qui Nhơn từ ngày 07 đến sáng
ngày 08 và Giáo Phận Kontum từ chiều ngày 08 đến ngày
09 tháng 03. Phái đoàn gồm có Đức Ông Pietro Parolin,
Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao Ṭa Thánh; Đức
Ông Lui Mariano Montemayer, Cố vấn Sứ Thần Ṭa Thánh,
Đặc trách các nước Đông Nam Á và Đức Ông
Barnabê Nguyễn Văn Phương, Cộng tác viên của
Thánh Bộ Truyền Giảng Phúc Âm cho các Dân tộc.Ngày 9,phái
đoàn đáp máy bay từ Gialai
đi Đà-Nẵng và Hànội
(theo thông báo của Toà Giám
Mục Kontum)
ƠN
GỌI Ở IRAQ GIA TĂNG
(CWNews 01.03) Một giám mục Công giáo Can-đê
cho biết rằng ơn thiên triệu linh mục và đời
sống tu tŕ đang gia tăng ở Iraq, ngay cả khi có hàng
ngàn tín hữu chạy khỏi đất nước đang
bị chiến tranh xâu xé nầy. Đức Cha Shlemon
Warduni,giám mục phụ tá tại Toà thượng phụ
Can-đê ở Baghdad,nhận định rằng sự gia
tăng nầy là một tín hiệu hy vọng trong một đất
nước mà nhiều Kitô-hữu cảm thấy áp lực
phải di cư do bạo lực thường xuyên hằng
ngày và thỉnh thoảng lại có những vụ tấn công
nhằm đe doạ thiểu số Kitô-giáo. Rất nhiều
thánh đường Kitô-giáo ở Iraq vắng người.
Trong một số vùng trên đất nước Iraq,Phụng
Vụ Thánh không được ấn định trước
kể từ Lễ Giáng Sinh v́ lo sợ bị tấn công. Đức
Cha xin Kitô-hữu khắp trên thế giới cầu nguyện
cách đặc biệt cho Iraq trong Mùa Chay,trong tinh thần liên
đới với các tín hữu đang chịu đau khổ
ở đây và cho hoà b́nh, hoà giải trên đất nước.
HOẠT ĐÔNG TRUYỀN GIÁO VÀ HỘI
NHẬP VĂN HOÁ QUA VIỆC PHỔ BIẾN KINH THÁNH.
(FIDES 28.02) Nghiên cứu của Cha Giovanni
Rizzi,giáo sư Kinh Thánh ở Giáo Hoàng chủng viện Urbanô cho thấy:
-
Đến nay Kinh Thánh đă
được dịch toàn phần hay một số phần
sang 2.377 ngôn ngữ khác nhau,chưa kể đến những
phân biệt khả dĩ giữa các ngôn ngữ và thổ ngữ.
-
Thư Viện của
Viện đại học Urbanô có 1.291 ấn phẩm Kinh Thánh
xuất bản trong 160 ngôn ngữ, cho thấy hành tŕnh đa
dạng hội nhập văn hoá của đức tin.
-
Thư Viện của
trường có 104 pho liên quan đến các ấn phẩm
Kinh Thánh xuất bản bằng tiếng Hy Lạp; 208 bộ
bằng tiếng Do Thái cổ (kể cả một số
theo truyền thống giáo sĩ),tiếng Do Thái mới và tiếng
Yiddish (đọc là : i-đít, tiếng Đức cỗ của
người Do Thái vùng Trung Âu và Đông Âu.BTGH).
-
10 pho các văn bản
Kinh Thánh bằng tiếng Aramêen (tiếng thông dụng tại
xứ Palestine thời Chúa Giêsu. BTGH)
-
30 pho các ấn phẩm
phát hành đa ngôn ngữ,gồm chủ yếu các tiếng:
Do Thái, Samaritanô,Aramêem,Hy Lạp, Syri, Ả
Rập, Êthiôpi,Ba Tư cổ (Farsi)
và Latinh.
-
Châu Âu: 782 pho bằng 25
ngôn ngữ. Châu Á: 533 pho với 67 ngôn ngữ. Cận Đông
và Trung đông có 124 pho;Châu Đại Dương có 3 pho với
2 ngôn ngử.Châu Phi có 180 pho với 46 ngôn ngữ;Bắc Mỹ
có 50 pho với 10 ngôn ngữ;trong khi Nam Mỹ có 21 pho với
9 ngôn ngữ.
Đă từ lâu các ấn phẩm Kinh Thánh cho
thấy hoạt động truyền giáo của các Giáo
Hội có tuyên tí khác nhau: trong rất nhiều vùng truyền
giáo,các Giáo Hội Cải cách (Luther,PhúcÂm,Anh giáo,v.v…) đă
đi trước Giáo Hội Công giáo về in ấn kinh
thánh.Trong nhiều trường hợp khác nhau,xuất
bản Kinh Thánh từ các tuyên tín Kitô-giáo khác nhau một cách
tỏ tường về nhiều điểm,trong việc
đọc cũng như trong diễn giải Kinh Thánh. Trái
lại, gần đây xu hướng hợp tác giữa các
Giáo Hội Kitô-giáo đă mở ra,qua nhiều h́nh thức đồng
xuất bản đa dạng, kể cả là có phân
biệt.
[Cách
đây 500 năm, trên thế giới có khoảng 10 ngàn ngôn
ngữ khác nhau. Hiện nay chỉ c̣n khoảng 6 ngàn ngôn
ngữ. Mỗi năm thế giới mất đi 25
ngôn ngữ. BTGH]
BOLIVIA
CAM KẾT DUY TR̀ GIẢNG DẠY TÔN GIÁO TRONG TRƯỜNG HỌC.
(FIDES 01.03) Đại
diện của Bộ Giáo Dục Bôlivia (Bộ trưởng
và thứ trưởng)và Ủy Ban giám mục về Giáo Dục
của HĐGM (Đức tổng giám mục giáo phận
Cochabamba; Đức Cha Tito Solari và Chủ tịch HĐGM Bô,llivia,
Đức Cha Sainz
Hinojosa) đă phê chuẩn một hiệp định giữa
nhà nước và Giáo Hội Công-giáo và bảo đảm việc
giảng dạy tôn giáo trong hệ thống giáo dục của
quốc gia. Hiệp định được quy định
ở Cochabamba sau nhiều tháng tranh luận liên quan đến
chương tŕnh một Luật Chung mới về Giáo Dục
được giới thiệu với chính phủ, trong đó
đề nghị một nền giáo dục thế tục
và đa nguyên cho Bôlivia,loại trừ môn giáo lư nhằm chấm
dứt “độc quyền tôn giáo” của Giáo Hội. Hiệp
định cũng phê chuẩn giá trị pháp lư và hoạt động
của các đại học tư thục trong khuô khổ
luật pháp quốc gia. Ngoài ra hiệp định cũng
quy định rằng nhà nước,thông qua Bộ Giáo Dục
và Văn Hoá, tiếp tục phối hợp với Giáo Hội
Công giáo trong tất cả mọi khía cạnh nhằm cải
thiện các chương tŕnh giáo dục và y tế. Bộ
Giáo Dục cam kết duy tŕ đối thoại thường
xuyên với Giáo Hội bằng những cuộc tiếp xúc
định kỳ để trao đổi những kinh
nghiệm giáo dục, sao cho đa số được hưởng
lợi,nhất là những người ở vùng sâu vùng xa và
người nghèo.
VIỆN CỚ
TRẢ ĐẤT LẠI CHO CÁC BỘ TỘC ĐỂ
TỊCH THU ĐẤT GIÁO HỘI.
(AsiaNews 03.03) Một
chiền dịch chống lại Giáo Hội và các Kitô-hữu
ở Chhattisgarh diễn ra khi nhà cầm quyền nhắm vào
các đất đai do Giáo Hội nắm giữ. Giáo phận
Jaspur bị đeo đuổi. Các quan chức Bang bắt đầu
các thủ tục pháp lư tiếp quản vùng đất hiện
đang có một thánh đường được xây
cach nay 30 năm. Giám mục địa phương gọi
những hành vi nầy là sự ăn cướp hợp pháp
hoá và tố cáo chính quywền đă sử dụng luật
pháp để mưu lợi riêng ḿnh. Đức Cha Viktor
Bindo nói: “ nhà nguyện được xây trên miếng đất
được thân phụ một ling mục thuộc bộ
tộc,nay đă qua đời, tặng cho Giáo Hội. Nhà
nguyện không chỉ được dùng làm nơi thờ phượng, mà c̣n như một
đại sảnh cho dân chúng bộ tộc để họ
có thể gặp gỡ và tổ chức các sinh hoạt xă hội”.
Ngài cho rằng chính quyền Bang “đang lạm dụng luật
pháp” và chỉ huy những hành vi lừa đảo chiếm
đoạt.
LỜI CẢNH BÁO VỀ CHỦ
TRƯƠNG “DUY HIỆP NHẤT”
(CWNews 02.03) Đức hồng y Giacomo Biffi cảnh
báo Đức Thánh Cha Biể Đức XVI và các lănh đạo
Giáo Triều La mă rằng: Những thái quá về hiệp nhất
Kitô-giáo và một khuynh hướng hạ thấp vai tṛ Thánh
Giá Chúa Kitô phản ảnh tinh thần Phản Kitô. Trong một
bài suy niệm được giảng trong kỳ tĩnh tâm
Mùa Chay dành cho các lănh đạo tuần nầy, Đức
hồng y người Ư trích dẫn thị kiến của
triết gia Nga Vladimir Soloviev:”Tên Phản Kitô tự giới
thiệu ḿnh là một kẻ theo chủ nghĩa hoà b́nh,môi
trường và hiệp nhất”. Ngài công khai chỉ trích
khuynh hướng của một số tín hữu Công-giáo nhằm
thúc đầy những mục tiêu thiêng liêng rất mơ hồ,hơn
là nhấn mạnh tính chất trung tâm điểm của Hy
Lễ Chúa Kitô.Ngài nói:” Ngày nay chúng ta đang trải qua nguy cơ
có một Kitô-giáo đặt Chúa Giêsu,Thánh Giá và Sự Phục
Sinh sang một bên. Ngài cũng cảnh báo chống lại ư
tưởng biến niềm tin nơi Chúa Kitô trở thành “
một tập hợp nhỏ nhoi chẳng đáng kể các
giá trị”. Nhắc lại h́nh ảnh về Tên Phản Kitô
của Soloviev,Vị giảng pḥng nói rằng Tên Phản Kitô
hạ thấp các chân lư của đức tin, nhượng
bộ để thoả măn bất kỳ lợi ích nào để
mong được quần chúng mến mộ. Đức hồng
y nói:” Các đám đông đi theo hắn, ngoại trừ những
nhóm nhỏ người Công giáo,Chính Thống và tin Lành”.
Đức hồng y tấn công Tên Phản
Kitô: “Ngươi đă cho chúng ta mọi thứ,ngoại trừ
một điều mà chúng ta muốn: CHÚA GIÊSU KITÔ”.
CƠ HỘI THUẬN LỢI CHO CUỘC
GẶP THƯỢNG ĐỈNH GIỮA ĐỨC GIÁO
HOÀNG VÀ THƯỢNG PHỤ
(Cwnews 02.03) Một giáo sĩ cấp cao Chính Thống
Nga đă nói với các phóng viên rằng cuộc gặp gỡ
giữa Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI và Thương
Phụ Nga Alexei II có thể diễn ra năm nay. Đức
Giám mục Hilarion ở Vienne, đại
diện cho Toà thương phụ Mạc-Tư-Khoa tại
một cuộc họp nhằm đề ra kế hoạch
cho Uỷ ban hỗn hợp Công giáo-Chính Thống về đối
thoại thần học, cho biêt cuộc họp thượng
đỉnh có khả năng sẽ diễn ra ở một
chỗ “trung lập” hơn là ở Nga hoặc Ư. Ngài nói: ”Rất
khó cho tôi để nói khi nào th́ một cuộc gặp gỡ
như thế sẽ diễn ra. Tôi cho rằng sẽ sớm
thôi, có thể do cả hai bên đều ước ao gặp
nhau và đều mong muốn có sự cảm thôn chung về
các vấn đề căn bản”. Từ nhiều năm
nay,các giới chức Công giáo đă theo đuổi một
“cuộc họp thượng đỉnh” giữa Thượng
phụ và Giáo Hoàng. Mặc dù các kế hoạch cụ thể
đă được thảo luận trong nhiều dịp,
những cứ mỗi trường hợp như thế
Thượng Phụ Mạc-Tư-Khoa lại đột nhiên
ngưng các cuộc thảo luận, noí rằng một cuộc
gặp gỡ như vậy chẳng thể diễn ra cho đến
khi Vatican từ bỏ “việc cho gia nhập Đạo [Công
giáo]” trong các vùng đất xưa nay vẫn thuộc Chính
Thống như là Nga và Ucraina. Nhưng,theo lời Đức
Cha Hilarion, viễn cảnh một cuộc gặp gỡ nay
đă sáng sủa hơn nhiều.Ngài nói:” Đối thoại là tiến về phía trước.Chúng
ta đang đi đúng hướng”. Ngài nói Ngài không có cách nào
để biết liệu tổng thống Putin có mời Đức
Giáo Hoàng công du Mạc Tư Khoa chăng, khi ông viếng thăm
Rôma để gặp gỡ với Đức Giáo Hoàng Biển
Đức XVI vào ngày 13.03.
THÁNH
GIÁ NGÀY GIỚI TRẺ THẾ GIỚI ĐƯỢC MANG
TỚI KHU PHI QUÂN SỰ TRIỀU TIÊN
(CWNews 02.03) Trong một động thái
tượng trưng để bảy tỏ sự ủng
hộ đối với tái thống nhất bán đảo
Triều Tiên, giới trẻ Công-giáo Hàn Quốc đă vác Cây
Thánh Giá Ngày Giới Trẻ Thế Giới đê1n biên
giới chia cắt hai miền Nam Bắc Triều Tiên.
Khoảng 100 bạn trẻ vác Thánh Giá – quà tặng của
Đức Gioa Phaolô II cho giới trẻ thế giới –
tới khu phi quân sự, ở đó họ lần chuỗi
mân Côi cầu cho đất nước được
thống nhất. Thánh giá được mang đi khắp thế giới
các năm xen giữa các kỳ Đại Hội Giới
Trẻ Thế Giới. Thánh Giá đến Hàn Quốc tháng
nầy sau khi đi một ṿng qua Phi Châu.
THỜI GIAN ẤN ĐỊNH CHO CUỘC
VIẾNG THĂM CỦA CHỨC LĂNH TỤ HỒI GIÁO AI CẬP?
(CWNews 03.03) Lănh tụ Hồi giáo Mohammed Sayyed
Tantawi, viện trưởng Viện đại học Al
Azhar ở Cairô, sẽ thăm viếng Đức giáo hoàng tại
Vatican ngày 22 tháng 3,theo các nguồn tin ở Rôma. Đức hồng
y Paul Poupard, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về
Đối Thoại Liên Tôn đă gửi lời mời tới
vị lănh tụ Hồi giáo trong cuộc viếng thăm của
Ngài tới Cairô ngày 20 tháng 2. Các giới chức Vatican ngay lập
tức loan báo rằng vị lănh tụ Hồi giáo đă nhận
lời mời, nhưng sau đó Tantawi nói ông mới chỉ
suy nghĩ về cuộc thăm viếng, chứ chưa nhận
được lời mời chính thức từ Đức
Giáo hoàng Biển Đức. Lănh tụ Tantawi luôn là đối
tác đều đặn với Vatican trong đối thoại
liên đức tin. Dù vậy ông chỉ trích gay gắt Đức
Giáo Hoàng Biển Đức về bài diễn văm đọc
ở Regensburg, cho rằng Đức Giáo Tông sẽ không được
chào đón ở Al Azhar trừ khi Ngài rút lại hững tuyên
bố của Ngài về Hồi giáo.
RẤT ÍT TÍN HỮU CHÍNH THỐNG NGA GIỮ
CHAY NGHIÊM NHẶT TRONG MÙA CHAY.
(CWNews 03.03) Theo một cuộc khảo sát, chỉ
có 2% dân nước Nga giữ chay nghiêm nhặt như Giáo Hội
Chính thống Nga quy định trong Mùa Chay. Dịch vụ
thăm ḍ Lewada cho thấy 79% người Nga không tuân giữ
bất cứ h́nh thức chay tịnh Mùa Chay nào. 15% khác cho
biết thỉnh thoảng họ ăn chay,theo các thực hành
như là kiêng thịt và các thức uống có cồn. Việc
ăn chay do Giáo Hội Chính Thống Nga đ̣i buộc nghiêm
nhặt hơn nhiều, buộc phải kiêng thịt,trứng
và sản phẩm từ sữa trong suốt Mùa Chay. Được
phép ăn cá trong các ngày Chúa Nhật và ngày lễ nghỉ.
TỶ PHÚ CẢI ĐẠO ĐI THEO CON
ĐƯỜNG NGHÈO KHÓ PHAN-SINH
(CWNews 03.03) Fred Nassari,một nhà sản xuất
âm nhạc người Mỹ gốc Iran và cải đạo
theo Công giáo, đă gặp Đức
hồng y Quốc Vụ Khánh Ṭa Thánh Tarcisio Bertoe ngày 01 tháng
3. Ông lớn lên ở Iran nhưng di cư sang Mỹ,tạo
được một gia tài khổng lồ trong ngành thiết
kế mẫu quần áo và ngành kinh doanh sản âm nhạc đặt
căn cứ ở Las Vegas, trước khi xin theo đạo
Công giáo. Ông đă bỏ nhiều tháng chu du khắp thế
giới v́ “hoà b́nh” và bây giờ cho biết ông muốn bỏ
lại toàn bộ tài sản cho người nghèo để
trở thành tu sĩ Phan-sinh. Ông nói với Hồng y Quốx
Vụ Khanh:” Con mang đến Vatican một chứng từ
đức tin và ḷng sùng một đối với đời
sống Ḍng Phan sinh. Tất cả tài sản của con đều
dành hết cho người nghèo”.
GIÁO DÂN GIỮ VAI TR̉ CHỦ
ĐỘNG TRONG TRUYỀN GIÁO VÀ PHỤC VỤ GIÁO HỘI
CAM-BỐT
(FIDES
01.03) Giáo dân Công giáo dấn thân vào trong giáo dục giới
trẻ và trong các công tác xă hội và đóng vai tṛ ngày càng
quan trọng trong cộng đồng Công giáo Cam-bốt.Làm
chứng cho điều ấy là cuộc gặp gỡ
mới đây ở Nam Vang giữa các giáo dâ thừa sai
cộng tác với “Quỹ Trẻ Em Don Bosco”, một
chươg tŕnh trợ giúp cho Ḍng Salêdiêng lập ra năm
1992. Những người tham dự đến từ các
trung tâm Sihanoukville,Kep, Poipe, Battambang
và cả từ thủ đô Nam Vang và đă sống
mấy ngày đào tạo,tranh luận, đào sâu văn hoá
và tinh thần. Mục đích chính của cuộc gặp
mặt là để thăm ḍ những hành tŕnh mới và
những chiến lược mới để làm cho
chương tŕnh hiệu quả hơn và năng
động hơn. Chủ đề trung tâm của mấy
ngày họp mặt,là “Một sự trở về với
tinh thần Don Bosco t́nh thương đối với thanh
thiếu niên”. Hiện “Quỹ Trẻ Em Don Bosco” làm việc
trong 14 tỉnh và ba thành phố ở Cam-bốt và nhờ
vào sự đóng góp quảng đại của đại
gia đ́nh Salêdiêng,nên đă có thể lo cho khoảng 5.000 cháu
cô nhi, những thanh niên nghèo,các trẻ bụi đời
hoặc bị cô lập trong các vùng nông thôn. Đay cũng
là ưu tư và ưu tiên hàng đầu của Giáo Hội
Cam-bốt. Công tŕnh của các tu sĩ và giáo dân Công giáo trong
các lănh vực giáo dục được dân chúng Cam-bốt
đánh giá rất cao. Nhiều thanh thiếu niên các gia
đ́nh không Công giáo theo học tại các học viện
Công giáo và ngay các nhà chức trách cũng thừa nhận giá
trị của giáo tŕnh trong trường Công giáo. Con số
Công giáo là 30.000 trên tổng số 14 triệu dân.
UỶ BAN
GIÁO PHẬN VỀ MỤC VỤ THỢ THUYỀN KÊU
GỌI SỐNG MÙA CHAY NĂM GIA Đ̀NH.
(FIDES
01.03) Sống chỉ với 50 đôla Hồng Kông (khoảng
40.000 đồng) mỗi ngày từ ngày 24 tháng 3 cho đến
ngày 1 tháng 4, trong 7 ngày liên tục; đó là lời mời gọi
của Uỷ Ban Giáo Phận về mục vụ thợ
thuyền gửi đến tất cả các tín hữu nhân
dịp Mùa Chay trong khuôn khổ Năm Gia Đ́nh. Theo tờ
tuần báo phiên bản tiếng Hoa Kong Ko Bao, sáng kiến của
Uỷ Ban nhằm giúp hiểu biết,cảm thông và trải
nghiệm những khó khăn của các gia đ́nh kém may mắn.
Theo lời một thành viên của uỷ Ban:” Mùa Chay mời
gọi chúng ta suy tư về cuộc khổ nạn của
Chúa Kitô để nâng đức
tin của chúng ta lên. Qua lời mời gọi nầy chúng tôi
muốn sống nơi chính ḿnh cuộc khổ nạn của
Chúa Kitô,hiện diện trong cuộc đời của anh
chị em nghèo khổ của chúng tôi. Để giúp đỡ
người nghèo, tiền bạc thôi chưa đủ,mà cái
quan trọng là phải hiểu biết cả những nhu cầu
luân lư,tâm lư và đấu tranh để họ có được
công bằng”. Con số 50 đôla Hồng Kông là theo thống
kê nhà nước: đó là thu nhập b́nh quân của một
người lao động chung chung,không có chuyên môn. Và các
gia đ́nh Công giáo sẽ căn cứ vào đó mà sống trọn
7 ngày, ghi lại tỉ mỉ các chi tiêu,không được
vượt quá 50 $HK và mỗi ngày đều ghi lại những
suy tư của toàn gia đ́nh, đồng thời cam kết
đi tới các khu phố nghèo và tiếp cận với những
gia đ́nh thiều thốn nhất.
BỔ
NHIỆM BA CỐ VẤN CỦA THÁNH BỘ PHÚC ÂM HOÁ CÁC DÂN
TỘC
(FIDES 02.03) Đức Thánh Cha
Biển-Đức XVI đă bổ nhiệm làm cố
vấn của Thánh Bộ Phúc Âm Hoá Các Dân Tộc ba vị:
Đức Cha Giacomo Inciiti,thuộc hàng giáo sĩ Giáo
phận Frosinone-Veroli-Ferentino, giáo sư Giáo Luật ở
Giáo hoàng Chủng viện Urbanô và khoa trưởng Phân Khoa
linh mục các thừa sai thánh Barrômêô; Cha Luigi Sabbarese,C.S, phó viện
trưởng Giáo hoàng chủng việcn Urbanô, khoa
trưởng Khoa Giáo Luật và Don Andrea d’Auria, thuộc Huynh
Đoàn Linh Mục Thừa Sai Thánh Barromêô, giáo sư Giáo
Luật ở Giáo Hoàng Chủng Viện Urbanô.
BỔ NHIỆM
ĐỨC CHA NYCZ LÀM TỔNG GIÁM MỤC GIÁO PHẬN VARSOVIE.
(ZENIT
05.03) Chưa đầy hai tháng sau khi Đức Cha Stanislas
Wielgus xin từ chức, Đức giáo hoàng Biển
Đức XVI đă bổ nhiệm một tân Tổng giám
mục Varsovie, Đức Cha Kazimierz
Nycz. Đức Cha sinh năm 1950 tại Stara Wies thuộc
giáo phận Bielsko-Zywiec và thụ phong linh mục năm 1973
tại giáo phận Cracovie. Tiến sĩ thần học
ở đại học Lublin. 1987: phó viện trưởng
đại chủng viện Cracovie. 1988: được
bổ nhiệm làm giám mục phụ tá giáo phận Cracovie
và năm 2004 làm giám mục giáo phận Koszalin-Kolobrzeg.Năm
1999: chủ tịch uỷ ban Giáo dục Công giáo HĐGM Ba
Lan và từ 2004 là thành viên hội đồng thường
trực HĐGM Ba Lan.
GIA
NHẬP HỘI TAM ĐIỂM LÀ HÀNH VI SAI PHẠM NẶNG
NỀ
(CWNews 06.03) Những người Công giáo
trở gia nhập Hội Tam Điểm th́ phạm tội
nặng nề. Đó là khẳng định của một
giới chức Vatican. Đức Cha Gianfranco Girotti, Chánh Ṭa
Ân Xá Ṭa Thánh đă trả lời một phóng viên Đài Bá Âm
Vatican rằng việc gia nhập Hội Tam Điểm
không phải là khu vực bị phạt tuyệt
thông,nhưng đó là một việc làm nghiêm trọng.
Phản ứng trước câu chuyện Cha Rosario
Esposito,một tu sĩ Phaolô người Y vừa thông báo việc
ḿnh gia nhập Tam Điểm, Đức Cha Girooti nói
rằng một văn kiện năm 1983 từ Thánh Bộ
Tín Lư và Đức Tin vẫn c̣n hiệu lực ngày nay.
Văn kiện nầy do Đức Hồng Y bấy
giờ là Joseph Ratzinger kư, nói:
” Tín
hữu nào ghi tên ḿnh gia nhập tam Điểm th́ ở trong
một t́nh trạng tội trọng và không được
rước lễ”.
TÂN
SỨ THẦN TOÀ THÁNH TR̀NH UỶ NHIỆM THƯ Ở
ĐÔNG TIMOR
(FIDES 04.03) Chính phủ,Giáo Hội,Xă hội
sẽ chung lưng đấu cật để giải
phóng Đông Timor khỏi bạo lực”. Đó là lời kêu
gọi của tân sứ thần Toà Thánh ở Inđônêsia và
Đông Timor, Đức Cha Leopoldo Girelli,khi Ngài tŕnh ủy
nhiệm thư lên tổng thống nước Đông
Timor,Xanana Gusmao. Sứ thần đă hoàn việc kinh lư
quốc gia Châu Á nầy và đă kêu gọi cấp bách hoà
giải quốc gia,tiền đề cho một
tương lai phát triển xă hội và phúc lợi cho dân
chúng. Đức Cha đă gặp các nhà lănh đạo dân
sự cao nhất và các giám mục giáo phận Dili và
Baucau:”tôi mang theo ḿnh phép lành của Đức Thánh Cha
Biển-Đức XVI và lời cầu nguyện của
Ngài, mong cho Timor vượt lên khủng hoảng và bạo
lực càng nhanh càng tốt”. Trong cuộc gặp gỡ
với các cộng đoàn Giáo Hội,Ngài đă ca ngợi
vai tṛ của Giáo Hội Đông Timor và sự dấn thân
của Giáo Hội vào việc xây dựng đất
nước,nhất là trong lănh vực giáo dục và dịch
vụ xă hội. Đông Timor đang trải qua một giai
đoạn lịch sử tế nhị.
ĐỨC
THÁNH CHA TIẾP TỔNG GIÁM MỤC TIN LÀNH PHÁI LUTHER ANDERS
WEJRYD
(ZENIT 06.03) Tổng giám mục Andres Wejryd,năm
nay 69 tuổi, là trưởng hàng giáo phẩm Giáo hội Tin
Lành Thụy Điển. Tháp tùng Tổng giám mục có phu nhân
và một số nhân vật. Sự tách rời Giáo Hội và
Quốc gia Thụy Điển chỉ xảy ra vào năm
2.000. Cuộc bầu cử ngày 20 tháng 3 năm 2006 đánh dấu
sự đoạn tuyệt với quy chế cũ Giáo Hội
– Nhà Nước: cho tới lúc ấy, vị đứng đầu
Giáo Hội Tin Lành là do nhà vua bổ nhiệm. Giáo Hội TL. Luther
quy tụ khoảng 80% trong dân số 9 triệu người
Thuỵ Điển. Người Công-giáo có 158.000 (0,8%) trong
khi Hồi giáo là 276.000 (4,7%).[Cho đến nay,Tin Lành phái
Luther vẫn “gần gũi” Công giáo nhất. BTGH]
ĐÔI
NẾT VỀ ĐỨC HỒNG Y BATTISTA RE NHÂN MỪNG KIM
KHÁNH LINH MỤC
(Dẫn ZENIT 06.03) Hiện là Tổng trưởng
Thánh Bộ Giám Mục và chủ tịch Uỷ Ban Giáo Hoàng v́
Nam Mỹ.
Sinh :
1934. Thụ phong linh mục:
1957 (23 tuổi),thuộc giáo
phận Brescia.
Thực
thi thừa tác vụ trước hết ở Panama và sau đó
làm công sứ (dưới cấp đại sứ) của
Giáo Hoàng ở Iran.
Được Đức Gioan-Phaolô bổ
nhiệm làm giám mục năm 1987 và nhận mũ hồng y
năm 2001 (cùng với
Đức Cố Hồng y Phanxicô Xaviê
Nguyễn-Văn-Thuận.BTGH)
Ngày 03.03 là ngày mừng Kim Khánh Linh Mục của
Ngài. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đă gửi
một bức thư bằng tiếng latinh, để chúc mừng Ngài và ca ngợi công lao
đóng góp của Ngài cho Giáo Hội.
VĂN
KIỆN GIÁO HOÀNG VỀ THÁNH THỂ ĐƯỢC BAN NGÀY 13
THÁNG BA.
(CWNews 07.03) Lời hiệu triệu của
Đức Giáo Hoàng Biển Đức về Thánh Thể
sẽ được ban hành vào thứ Ba ngày 13 tháng 3.
Văn kiện mới của Đức Giáo Hoàng có tựa
đề Sacramentum Caritatis (Bí
Tích Đức Ái) tóm tắt và kết luận những
những suy nghĩ của Các Giám mục Thượng
Hội Đồng trong kỳ hội nghị tháng 10 năm
2005 để thảo luận về Thánh thể. Lời
hiệu triệu sẽ được giới thiệu
trong một hướng dẫn do Đức hồng y
Angelo Scola giáo phận Venitia, và Đức Tổng giám
mục Nikola Eterovic,tổng thư kư Thượng Hội
Đồng Giám Mục. Thượng Hội Đồng
Giám Mục tháng 10.2005 đă thảo luận chủ
đề :”Thánh Thể: Bánh Hằng Sống cho Hoà B́nh trên
Thế Giới”, với sự hiện diện của 256
giám mục đến từ 118 quốc gia. Thông
thường các đề xuất, suy tư của
thượng HĐ được giữ kín và chỉ có
Đức Giáo Hoàng sử dụng để soạn
thảo lời hiệu triệu của
Người,nhưng Đức giáo hoàng Biển Đức
lại phê chuẩn việc công bố các kết luận
của hội nghị. Trong thông báo việc công bố Sacramentum Caritatis, văn pḥng
báo chí Ṭa thánh không đề cập ǵ đến văn
kiện mà mọi người đang trông đợi,
tức là sắc lệnh (motu proprio) về việc sử
dụng rộng răi hơn phụng vụ tiền
Công-đồng.
TRẺ
CHƯA SINH RA LÀ MỘT CON NGƯỜI CÓ SỰ SỐNG
(CWNews 07.03) Theo tin của tờ Thời Báo Ấn Độ số
ra ngày 06.03.2007,trong một mệnh lệnh chưa từng
thấy, Toà Án tối cao ở Mumbai Tây Ấn đă quy
định rằng ”trẻ chưa
sinh ra là một con người có sự sống”.
Gạt bỏ quyết định của một công ty
bảo hiểm không chịu
bồi thường cho một phụ nữ mang thai 7
tháng cùng với người chồng trong một tai nạn
giao thông, Toà Án Bang Maharashtra phán quyết rằng gia đ́nh
các nạn nhân phải nhận được tiền
bồi thường cả cho em bé chưa được
sinh ra nữa. Từ ngữ “phôi thai người”hàm ư rằng
sinh vật sống động và tăng trưởng. V́ thế,một
đứa trẻ đang ở trong bụng mẹ chưa
sinh ra cũng có sự sống và được hưởng
quyền làm người.
BA NỮ TU NGƯỜI VIỆT ĐẦU
TIÊN D̉NG TIỂU MUỘI KHẤN TRỌNG Ở ĐÀI-LOAN
(FIDES 07.03) Ba nữ tu người Việt Nam
đầu tiên thuộc Ḍng Tiểu Muội Thánh Têrêxa Hài Đồng
Giêsu,do Cha Vincent Lebbe (sinh
19.08.1877 và qua đời: 24.06.1940)sáng lập, đă khấn
trọng trong giáo phận Hsin Chu ở Đài Loan. Đức
Cha Jean Baptiste Lee, giám mục giáo phận, đă chủ tŕ nghi thức long trọng.Cùng đồng
tế có Đức Cha Li Xia Tang,giáo mục hưu, Đức Cha Liu Dan Gui và Đức Cha Hong
Shan Chun. Hiện diện trong lễ khấn có cả cha mẹ
của các nữ tu vừa đến từ Việt-Nam. Đó
là các Soeurs Nguyễn-Thị Uyên-Thanh,sinh
ở Cần Thơ ngày 29.08.1975;Soeur Vũ Hồng Thị
Thiên kim,sinh ngày 20.08.1971 tại Tp Hồ Chí Minh và Soeur Đỗ-Hoàng
Anh-Linh,sinh ngày 22.01.1974.
◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘◘
T̀M HIỂU KINH THÁNH
Đề 3
THÁNH PHAOLÔ,
NHÀ TRUYỀN GIÁO THỜI
DANH CỦA GIÁO HỘI KITÔ TIÊN KHỞI
LM
Linh-Tiền-Khải
Kho tàng tư tưởng thần học sâu
sắc trong các thư của thánh Phaolô có thể khiến
cho nhiều người tưởng lầm thánh nhân là
một nhà trí thức chuyên nghiệp hay một tư
tưởng gia cổ điển. Thực ra không phải
như vậy. Trước tiên Phaolô đă là một
người hoạt động. Dĩ nhiên, thánh nhân đă
viết nhiều và soạn thảo ra cả một thiên chú
giải sâu sắc về ḷng tin Kitô. Nhưng sinh hoạt
thư tín của ngài đi liền với cuộc
đời truyền bá Tin Mừng cho các cộng đoàn
tại Tiểu Á và châu Âu, bôn ba nay đây mai đó. Nói cách
khác Phaolô là một nhà truyền giáo đă dùng thư từ
của ḿnh như phương tiện thông truyền, phổ
biến và củng cố ḷng tin. Ngoài ra cũng nên ghi
nhận sự kiện thánh nhân không phải là nhà truyền
giáo duy nhất của Giáo Hội thời khai sinh. V́ c̣n có
nhiều vị khác nữa như Phêrô và Barnabê. Tuy nhiên, chúng
ta có thể coi Phaolô như là tông đồ đă sáng
suốt bảo vệ lập trường rộng mở
Giáo Hội cho thế giới ngoài Do thái giáo.
Có
thể chia sinh hoạt truyền giáo của Phaolô thành ba giai
đoạn chính. Giai đoạn thứ nhất khá tối
tăm, bắt đầu từ lúc hoán cải cho tới
lúc gia nhập cộng đoàn Antiokia bên Siri. Giai đoạn
thứ hai bao gồm các hoạt động rao giảng Tin
Mừng tại Antiokia, cứ điểm truyền giáo
đầu tiên, nơi Phaolô đă trở thành nhân vật
nổi bật, và sau đó được cộng đoàn
đề cử đem Tin Mừng tới cho các anh chị
em ngoài Do thái giáo. Giai đoạn thứ ba là giai
đoạn truyền giáo độc lập. Phaolô bôn ba ngang
dọc giảng đạo trong vùng Tiểu Á và bên Hy
lạp, thành lập nhiều cộng đoàn Kitô đia
phương. Đặc biệt trong giai đoạn này
Phaolô trở thành một nhân vật rất có uy tín trong các
giáo đoàn nói tiếng Hy lạp, và hoàn toàn độc
lập đối với truyền thống văn hóa và tôn
giáo Do Thái.
Chúng ta
có ít tin tức liên quan tới giai đoạn truyền giáo
thứ nhất. Chương 9 sách Tông Đồ Công Vụ
cho biết sau cuộc gặp gỡ đổi đời
với Chúa Kitô phục sinh trên đường tới
Damasco, Phaolô bị mù mắt và được các
người đồng hành dẫn vào thành. Chúa Kitô sai Anania
một Kitô hữu của cộng đoàn Kitô Damasco tới
gặp Phaolô để đặt tay cho ông sáng mắt.
Phaolô được tràn đầy Chúa Thánh Thần và lănh
nhận phép Rửa tội, rồi lưu lại với các
kitô hữu Damasco vài ngày. Sau đó Phaolô bắt đầu
công khai rao giảng Chúa Kitô phục sinh trong các hội
đường do thái tại Damasco và vùng đông nam Damasco
(Gal 1,17). Phaolô trưng dẫn các lư chứng vững vàng cho
thấy Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế,
khiến cho người Do thái tức giận lập
mưu hạ sát ông. Họ cho người canh giữ
cửa thành nghiêm ngặt. Nhưng đang đêm các Kitô
hữu có nhà xây trên tường thành giúp Phaolô trốn thoát,
bằng cách bỏ Phaolô vào thúng và tḥng xuống bên ngoài
tường thành. Sau này thánh nhân cũng nhắc lại các
chống đối gặp phải và lần chết
hụt thứ nhất này trong chương 11,32-33 thư
thứ hai gửi tín hữu Côrintô.
Từ
Damasco Phaolô về Giêrusalem và lưu lại đây một
thời gian ngắn để làm quen với Kêpha, tức
Phêrô, rồi sau đó sang Siri và Cilicia, miền nam Thổ
Nhĩ Kỳ ngày nay, như thánh nhân viết trong thư
gửi tín hữu Galát chương 1,21. Vài nét chấm phá
ấy tóm gọn các sinh hoạt của 15 năm trời
kể từ biến cố ngă ngựa trên đường
đi Damasco. Sách Tông đồ Công Vụ cũng không thêm chi
tiết nào mới mẻ. Tuy nhiên, cả hai tài liệu
đều cho biết Phaolô đă gặp khó khăn trong
cố gắng làm quen và sát nhập vào cộng đoàn. Kitô
hữu Giêrusalem chẳng những không quen biết Phaolô mà
c̣n tỏ ra nghi ngờ đối với ông (Gl 1,22; Cv
9,26-30). Qua đó chúng ta có thể kết luận rằng
Phaolô đă không gặt hái nhiều thành công trong thời gian
hoạt động này.
Giai
đoạn truyền giáo thứ hai có nhiều tin tức
hơn. Chương 11 sách Công Vụ cho biết Barnabê, là
nhân vật nổi bật của Kitô giáo thời khai sinh,
đă giới thiệu Phaolô với giáo đoàn Antiokia bên
Siri (Cv 11,25). Antiokia là thủ phủ của vùng này và là thành
phố lớn vào hàng thứ ba của đế quốc
Roma thời đó; nghĩa là chỉ sau Roma và Alexandria bên Ai
Cập. Trong lịch sử Giáo Hội và lịch sử
truyền giáo, Antiokia có đia vị quan trọng và ư
nghĩa, v́ là cứ điểm truyền giáo rộng
lớn đầu tiên, nơi các môn đệ chọn làm
bản doanh cho công tác rao truyền Tin Mừng cho dân
ngoại (Cv 11,19 tt.) và cũng là nơi lần đầu
tiên các môn đệ Chúa Giêsu được gọi là kitô
hữu (Cv 11,26). Giáo đoàn Antiokia là giáo đoàn hỗn
hợp gồm các kitô hữu gốc do thái và không do thái.
Phaolô đă hoạt động tại đây trong ṿng
một năm (Cv 11,26), và được giáo đoàn sai phái
cùng với Barnabê đi truyền giáo tại đảo
Chypre và các vùng đông nam của Tiểu Á, như tŕnh
thuật trong hai chương 13-14 sách Công Vụ. Qua
chương 2 thư gửi tín hữu Galát chúng ta biết
được rằng Phaolô cộng tác với Barnabê, là
thành phần của cộng đoàn Kitô Antiokia và gặt hái
thành qủa tốt trong công tác rao truyền Tin Mừng cho
các anh chị em ngoài Do thái giáo.
Tuy nhiên,
chẳng bao lâu sau, nảy sinh ra một vấn nạn
trầm trọng liên qaun tới việc gia nhập
đạo của các người ngoài Do thái giáo. Để
trở thành Kitô hữu họ phải theo các điều
kiện nào: chấp nhận tin vào Chúa Giêsu và Tin Mừng
của Ngài là đủ, hay phải tuân giữ luật
cắt b́ của Do thái giáo nữa? Phaolô không phải là
người đầu tiên khai mào công tác truyền giáo trong
thế giới không do thái. Trước ông đă có một
nhóm các kitô hữu gốc do thái nói tiếng Hy lạp rao
giảng Tin Mừng và thành lập cộng đoàn Antiokia.
Nhưng khi từ một thói quen mục vụ truyền
giáo bước sang việc thảo luận trên b́nh diện
thần học, tức liên quan tới nguyên tắc do nhóm
bảo thủ gồm các kitô hữu gốc do thái,
đặt ra, Phaolô đă tỏ ra là người có hành
động sáng suốt và trung thực nhất theo tinh
thần Tin Mừng giải phóng của Chúa Kitô. Phaolô bênh
vực sự tự do của các anh chị em ngoài do thái
đối với luật lệ của Do thái giáo, mà các
Kitô hữu gốc do thái vẫn tuân giữ. Cuộc tranh
luận đă sôi nổi tới độ giới lănh
đạo Giáo Hội đă phải triệu tập
hội nghị tại Giêrusalem để thảo luận
và nghiên cứu vấn đề, như tŕnh thuật trong
chương 15 sách Công Vụ, và trong chương 2 thư
gửi tín hữu Galát. Hội nghị Giêrusalem đă là Công
Đồng Chung đầu tiên trong lịch sử Kitô giáo.
Barnabê và Phaolô cùng với hai nhân vật khác của giáo
đoàn Antiokia đại diện cho phe cởi mở
của cộng đoàn này tham dự Công Đồng. Sau khi
nghe Barnabê và Phaolô tŕnh bày và thảo luận phải trái trong
Công Đồng, giới lănh đạo Giáo Hội Kitô tiên
khởi đă chấp nhận nguyên tắc tự do của
các Kitô hữu ngoài do thái giáo. Hàng lănh đạo cộng
đoàn kitô Giêrusalem thỏa thuận với phái đoàn
đại diện giáo đoàn Antiokia, và phân chia công tác
truyền giáo. Trong chương 2,9 thư gửi tín hữu
Galát, thánh Phaolô viết: ”...sau khi thừa nhận
đặc sủng mà Thiên Chúa đă trao phó cho tôi, Giacôbê,
Kêpha và Gioan đă giơ tay phải bắt tay tôi tỏ t́nh
liên đới để chúng tôi đi truyền giáo cho dân
ngoại, c̣n họ đi truyền giáo cho các anh chị em
được cắt b́”, tức tín hữu Do thái. Trong
thư thánh Phaolô nêu bật rằng Công Đồng đă
không áp đặt trên thánh nhân một điều lệ
hạn chế nào. Trong khi tŕnh thuật sách Công Vụ
lại gắn liền với Công Đồng Giêrusalem
việc ban bố một sắc lệnh liên quan tới
việc hạn chế sự tự do của tín hữu
không phải gốc do thái, như kiêng thịt đă cúng
tế cho các thần linh, kiêng máu, kiêng thịt của các súc
vật bị chết ngạt và xa lánh tà dâm (Cv 15,29).
Tuy nhiên,
sắc lệnh hay bức thư do một phái đoàn
được giới lănh đạo Giáo Hội Giêrusalem
cử đem sang cho tín hữu Antiokia nói trên, là một
dữ kiện gây tranh luận trong giới học giả
Kinh Thánh. Sắc lệnh đă là một giàn xếp
đạt được trong Công Đồng Chung Giêrusalem
giữa hai phe tự do và bảo thủ, hay là một tài
liệu có nguồn gốc khác, không liên quan ǵ tới
quyết định của Công Đồng? Nếu là
quyết nghị của Công Đồng, tại sao thánh
Phaolô đă lại không bao giờ nói tới trong các thư
khi tŕnh thuật biến cố quan trọng này của Giáo
Hội Kitô tiên khởi? Thánh nhân đă không biết tới
tài liệu này, hay đă phản đối không chấp
nhận nó? Rất tiếc là chúng ta không có các dữ
kiện giúp đưa ra câu trả lời chắc chắn
cho khúc mắc này. Dẫu thế nào đi nữa, Công
Đồng Chung triệu tập tại Giêrusalem giữa các
năm 48-49 đă đánh dấu một khúc rẽ quan
trọng trong lịch sử Kitô giáo. Một đàng, nó
phản ánh vấn đề mục vụ truyền giáo
liên quan tới việc hội nhập văn hóa, mà Giáo
hội phải can đảm thảo luận và giải
quyết; đàng khác, nó đánh dấu biến cố Kitô
giáo hoàn toàn được giải thoát khỏi t́nh
trạng bị ràng buộc và điều kiện hóa
bởi gia tài văn hóa và tôn giáo do thái. Nhưng câu chuyện
đă không kết thúc một cách đơn sơ như
vậy. Thật thế, phe bảo thủ qúa khích trong Giáo
Hội Kitô tiên khởi đă không chấp nhận quyết
nghị của Công đồng. Ngoài ra, c̣n có một vài khía
cạnh vẫn chưa được giải quyết
như: làm thế nào để duy tŕ sự sống chung ḥa
b́nh giữa các Kitô hữu gốc Do Thái và các kitô hữu
không phải gốc Do Thái trong cùng một cộng đoàn,
như cộng đoàn Antiokia?. Và qủa vậy, chẳng
bao lâu sau lại xảy ra tranh luận và căng thẳng
trong cộng đoàn Antiokia. Lần này Phaolô công khai xung
đột với Phêrô, như thánh nhân kể lại trong
chương 2 thư gửi tín hữu Galát. Trong lần
tới thăm cộng đoàn Antiokia cùng với một vài
Kitô hữu bảo thủ Giêrusalem do Giacôbê phái đi, Phêrô
đă sống phản chứng. Ban đầu ông lui tới
thăm viếng và ăn uống rất tự nhiên với
các Kitô hữu không phải gốc Do thái trong cộng
đoàn. Nhưng sau bị nhóm bảo thủ Giêrusalem nói trên
gây áp lưc, Phêrô tránh không gặp và ăn uống với
các Kitô hữu không Do Thái nữa. Barnabê và các Kitô hữu
gốc do thái khác cũng lây thái độ phản chứng
này của Phêrô. Và Phaolô đă không ngần ngại công khai
nặng lời quở trách Phêrô giữa toàn cộng
đoàn. Phaolô tố cáo Phêrô là đă phản lại
quyết nghị của Công Đồng và đặt
lại vấn đề nguyên tắc tự do của các anh
chị em không do thái theo Kitô giáo. Thư gửi tín hữu
Galát không cho chúng ta biết câu chuyện đă kết thúc ra
sao. Nhưng khi so sánh với giọng kể chiến
thắng của tŕnh thuật Công Đồng Giêrusalem, chúng
ta có thể đoán được rằng lần này
tại Antiokia,Phaolô đă không thắng thế trong cuộc
tranh luận. Có điều chắc hắn là sau vụ xung
đột công khai ấy, Phaolô tách rời, không đi truyền
giáo với Barnabê nữa, mà hoạt động một cách
độc lập với giáo đoàn Antiokia. Phaolô trở
thành tông đồ của Chúa Kitô và không phải
tường tŕnh với ai về công tác truyền giáo
của ḿnh, như thánh nhân viết trong chương 4,4
thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô.
|
TRONG SỐ 15.C : T̀M HIỂU KINH THÁNH
ĐỀ 4 : CHIẾN LƯỢC
TRUYỀN GIÁO CỦA THÁNH PHAOLÔ
|
Núi Sinai,nơi Mosê nhận
được Mười Điều Răn Thiên Chúa ban
cho Dân Israel và Núi Gogotha, nơi Chúa Giêsu chịu chết trên
thập tự giá để đóng dấu vào Lề
Luật mà Người để lại cho Giáo Hội – và
giao cho Giáo Hội sứ mệnh rao giảng và đem nó
đến với hết mọi người – là HAI
NGỌN NÚI ghi lại biểu lộ của Thiên Chúa
đối với nhân loại: T̀NH YÊU. Và ở cả hai
nơi – hai ngọn núi – T́nh Yêu ấy trở thành LUẬT,
có nghĩa là buộc mọi người phải tuân
giữ, nếu không muốn mang tội với Đấng
đă ban hành luật – Thiên Chúa – và với anh em - đối
tượng thứ hai, nhưng liên kết chặt chẽ
với “đối tượng thứ nhất đến
nỗi trở thành điều kiện sine qua non”.Và chính trên Núi Golgotha,ta hiểu
được Lời Chúa Giêsu phán: ”Thầy ban cho anh em
một điều răn mới”, “MỚI” v́ Luật
được ban trên Núi Sinai nay được hoàn
thiện và đóng dấu bằng Máu Thánh Chúa Kitô. Trong ư
tưởng đó,xin giới thiệu bài viết của
Alden Thompson:
MỘT LỀ
LUẬT
HAI NGỌN NÚI
Đối với
Kitô-hữu,Golgotha là một viên kim cương nhiều
mặt.Nh́n từ một khía cạnh,th́ đó là sự phán
xét tối hậu của Thiên Chúa trên tội lỗi; nh́n
từ một khía cạnh khác,đó là lời Chúa loan báo
sự giải thoát cho các tội nhân trong đó chính Chúa
trả thay cho tội chúng ta và tuyên bố chiến thắng
trong trận giao tranh chống lại sự dữ.
Nhưng
ngọn núi đơn độc ấy có một khía
cạnh khác,một viễn cảnh cho phép chúng ta thấy nó
trong tương quan độc nhất với Sinai. Khung
cảnh là cuộc tranh luận lớn giữa Đức
Kitô và Satan,và trọng tâm của chú ư là Luật của Thiên
Chúa,Luật Yêu Thương. Chính trong bối cảnh ấy
mà chúng ta nghe được những lời của Ellen
White:”Ở cây thập giá Can-vê, t́nh yêu và ḷng ích kỷ
đối diện với nhau. Đó là biểu hiện hoàn
hảo của chúng”. (The desires of Ages,trg 57). Mục đích
của satan là tiêu diệt Luật và Đức Kitô là
hiện thân của Luật ấy. Nhưng ư định
của Thiên Chúa là thiết lập Luật măi măi,để
làm trọn nó - nghĩa là làm
cho nó đầy ư nghĩa mà Luật T́nh Yêu sẽ
được bảo vệ đến muôn đời.
Việc hoàn
thiện luật T́nh Yêu là điều mà chúng ta thấy trong
hiến tế của Đức Kitô v́ chúng ta. Món quà Ngài
tặng là biểu hiện tối cao của nguyên lư T́nh yêu
tự hiến. Không phải chỉ có thánh ư Chúa Cha muốn
ban Con của người (Ga 3: 16),mà chính Người Con
đă tự ư bỏ vinh quang trên trời của Ngài
để sống trên trái đất và chết đi
để cho nhân loại được sống (Pl 2: 5 –
8). Không thể có t́nh yêu nào lớn lao hơn và đó là
điều chúng ta thấy ở Golgotha.
Khi chúng ta
chỉ suy nghĩ về Luật Thiên Chúa trong h́nh thức
mệnh lệnh,h́nh thức mà qua đó Thiên Chúa đă ban
Luật ở Sinai,th́ khi ấy sự hiểu biết
của chúng ta về cả Sinai lẫn Golgotha có lẽ
bị bóp méo. Người nào đó thậm chí có thể
đi xa tới mức nghĩ về Golgotha như là
phản đề triệt để của Sinai, như là
kết thúc của Luật. Để chắc ăn,Golgotha
báo hiệu kết thúc Luật như căn bản của
ơn cứu rỗi (Rm 10: 4),và kết thúc của Luật
như bậc thầy kết án,nhưng đó chỉ đơn
thuần là những bóp méo Luật
từ con người trong bất cứ sự
kiện nào. Không,Golgotha không bao giờ là sự kết thúc
của Luật,mà là sự hoàn thiện.
Những
tương phản gay gắt hiện hữu giữa Sinai
và Golgotha,nhưng hiểu biết luật như là nguyên lư
của t́nh yêu tự hiến cho phép chúng ta nh́n thấy
ngọn núi thứ hai như là sự nối tiếp
của ngọn núi thứ nhất,sự nhập thể
hiện tại của điều mà Thiên Chúa đă nói
ở Snai. Một cái nh́n như thế sẽ cho phép chúng ta
nói về một Luật duy nhất ở cả hai
ngọn núi và duy tŕ tính liên-tục của hoạt
động cứu độ của Thiên Chúa trong khi
nhận thức rơ ràng sự tương phản giữa
sợ hăi và t́nh yêu,mệnh lệnh và mời gọi.
Nhưng làm sao
mà Golgotha lại có thể được mô tả như là
Luật của Thiên Chúa dưới h́nh thức lời
mời gọi? Việc Sinai tŕnh bày Luật dưới h́nh
thức mệnh lệnh th́ đă đủ rơ rồi.
Nhưng làm sao Golgotha lại là một lời mời
gọi?
Lời
mời gọi không nói ra lời và như vậy căn
bản của lời kêu gọi khác triệt để
với lời kêu gọi của Sinai. Ở Sinai,sự
hiện diện của Thiên Chúa là hữu h́nh và có thể
nghe thấy.Nhưng ở Golgotha người quan sát bất
chợt sẽ khó ḷng mà nhận ra sự hiện diện
của Thiên Chúa,càng khó nhận ra cảnh tượng
hấp hối nầy là lời mời gọi tối
hậu với nhân loại. Nhưng đó đă và đang là
một lời mời gọi,trước hết để
đón nhận chiến thắng của t́nh yêu trên sự
ích kỷ,và sau đó là bước theo chân của
Đức Giêsu Nazareth ấy và sống Luật yêu
thương. Lời mời gọi không nghe
được bằng thính
giác, nhưng cảm nhận được bằng con tim.
V́ thế,sức mạnh của nó có một cách phát
triển và sâu rộng cho tới khi nó ôm chặt
được kẻ đón nhận đến nỗi
người nầy sẵn sàng chết để cho
luật t́nh yêu được sống.
Do bản tính
tối cao của mặc khải Golgotha,có một nhận
thức sai lạc rằng mặc khải Sinai đă
lỗi thời,v́ hai ngọn núi tượng trưng cho hai
cách khác nhau triệt để vươn tới dân chúng
với tin vui về T́nh yêu của Thiên Chúa.Và mặc dù
mặc khải của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô là
mặc khải cao cả nhất,th́ bổn phận
đến với dân chúng không bao giờ kết thúc.
Tội lỗi quả mạnh mẽ hơn bao giờ
hết và những yếu tố đă làm cho Sinai nên cần
thiết,th́ hằng ở với chúng ta. Ngay cả sau khi
chúng ta đă nếm cảm được niềm vui
rực rỡ của lời mời gọi Golgotha,th́
tội lỗi vẫn có thể kéo lê ta ra xa.Do vậy có
thể một nét của Sinai là cách duy nhất để
đem chúng ta đến giác quan của chúng ta và đến
đời sống.
LỜI MỜI GỌI ĐƯỢC
ƯA CHUỘNG HƠN
Tính chất
phức tạp của thân phận con người tội
lỗi nơi chúng ta có nghĩa là chúng ta phải hết
sức cảnh giác về những mối hiểm nguy mà
chúng ta có thể áp dụng sai nguyên lư Sinai – đến-
Golgotha. Khi chúng ta với tư cách cá thể nấp
dưới quyền của một ai khác,th́ chúng ta tỏ
cho thấy một sự thích thú mạnh mẽ đối
với lời mời gọi hơn là mệnh lệnh.
Trong dịp tôi hỏi các thành viên nhà thờ để
họ chỉ ra những điều họ thích và không thích
từ danh sách sau đây bao phủ h́nh ảnh Sinai – Golgotha :
việc cấm đoán,mệnh lệnh.sự cho
phép,nhắn nhủ và mời gọi. Mời Gọi đă
là kẻ chiến thắng rơ rệt mọi lúc. Điều ít được ưa
chuộng nhất là sự cấm đoán và tiếp ngay sau
nó là mệnh lệnh.
Một cách thú
vị,10 Điều Răn -
lần ban ở Sinai của Luật Thiên Chúa - đến với chúng ta như
là những điều cấm đoán và mệnh lệnh,hai
h́nh thức ít được ưa chộng nhất
của h́nh ảnh Sinai – Golgotha. Cho dù bây giờ một
Kitô-hữu tận tụy có thể h́nh dung mỗi mệnh
lệnh như là một lời mời gọi,th́ những
trạng huống con người của chúng ta sẽ c̣n
làm cho nó trở nên khó khăn
đối với chúng ta để có thể đánh giá cao
các mệnh lệnh, bởi v́ các người thế
thực hiện quyền bính có khuynh hướng lạm
dụng các mệnh lệnh và những cấm đoán và
cả dùng sai chúng cho các mục đích ích kỷ của
họ. V́ vậy chúng ta có huynh hướng trong tiềm
thức nh́n mọi mệnh lệnh như chuyên quyền
độc đoán và không được hoan nghênh. Chúng ta
cưỡng lại,tar1nh né hoặc lờ chúng đi. Bao
nhiêu người trong chúng ta đă mù tịt về những
dấu hiệu “không được đậu xe” và
hạn chế tốc độ đơn thuần chỉ
v́ chúng ta đă khá chắc chắn là ḿnh sẽ không bị
bắt quả tang? Chúng ta dễ dàng quên rằng chúng ta
đang bất chấp những quyền của
người khác và c̣n gây nguy hiểm cho chính cuộc
đời. Nhưng nếu chúng ta đứng bên cạnh
thi thể của một em bé vô tội,bị một
chiếc xe chạy ẩu giết chết,th́ chúng ta ư
thức rằng các mệnh lệnh có ở đó
để cứu cuộc đời.
Các mệnh
lệnh rơ ràng là cần thiết,nhưng cũng nguy
hiểm,v́ chúng ta có khuynh huớng nh́n chúng như độc
đoán và do vậy mà có thể bị phá hủy.
Về
mặt mối quan hệ của chúng ta với Thiên
Chúa,một mối nguy và nó trầm trọng hơn ẩn
nấp trong khi tiếp cận Sinai,cụ thể là cảm
giác rằng sự thừa nhận là kết quả của
sự vâng phục. Đôi lúc các trẻ em thấy
điều đó khó khăn để tin rằng cha mẹ
chúng trừng phạt chúng không c̣n t́nh thương. Trên
thực tế,trong lúc xă ra hành vi trừng
phạt,thường có một cuộc đấu tranh cho
các trẻ em để tin rằng cha mẹ vẫn yêu
thương chúng. V́ vậy khuynh hướng đáng
tiếc trong các hoàn cảnh con người để
nghĩ về t́nh yêu thương như kết quả
của vâng phục:”Cha mẹ tôi yêu thương tôi khi tôi
ngoan ngoăn,nhưng không yêu tôi khi tôi hư đốn”.
Khi chúng ta
chuyển lối suy nghĩ nầy sang quan hệ của
chúng ta với Thiên Chúa,th́ chúng ta tưởng tượng
một cách bi thảm,rằng Thiên Chúa chỉ yêu chúng ta khi
chúng ta vâng phục. Cuộc sống Kitô-hữu v́ thế
trở thành một cuộc đấu tranh vô vọng
để chiến thắng sự thừa nhận và
để giành được t́nh yêu thương của
Thiên Chúa. Rất ít Kitô-hữu ngày nay c̣n diễn tả
thần học của họ theo cách nầy,nhưng
bước tiếp cận Sinai,nếu nó không dẫn
tới Golgotha,thí chắc chắn sẽ mang lại thứ
kinh nghiệm nặng triũ nầy trong đó tội nhân
đấu tranh để có được ơn cứu
rỗi qua sự vâng phục.
Bây
giờ,nếu chúng ta hồi tưởng lại những
mặc khải của cả Sinai lẫn Golgotha,th́ chúng ta
sẽ khám phá ra rằng Thiên Chúa đă chỉ cho chúng ta
thầy một h́nh ảnh hoàn toàn khác. Chẳng những
không phải là một Thiên Chúa đ̣i hỏi vâng phục
như là căn bản cho hoạt động cứu
rỗi của Người,Thiên Chúa c̣n mặc khải chính
Người như là một Thiên Chúa yêu thương chúng ta
ngay cả khi chúng ta không xứng đáng. Khi Thiên Chúa
giải thoát Israel ra khỏi Ai Cập,chắc chắn không
phải v́ Israel vâng phục.
Đối với Israel,sự giải thoát ở Biển
Đỏ đến trước Sinai,do vậy làm sáng
tỏ một nguyên lư quan trọng: ân sủng ĐẾN
TRƯỚC luật, hoặc nói cách khác,Thiên Chúa cứu
thoát trước khi Người ban lệnh truyền.
Trong Tân
Ước,nguyên lư “ÂN SỦNG TRƯỚC LỀ LUẬT”
nầy được Thánh Phaolô miêu tả sinh động
: Trong khi chúng ta c̣n là “tội nhân” và “thù
nghịch”,Đức Kitô đă chết cho chúng ta (Rm 5: 8 –10)
. Khi chúng ta nếm trải ân sủng như vậy,th́
sự vâng phục tuôn chảy từ bên trong như sự
đáp trả t́nh yêu đối với ḷng từ bi của
Thiên Chúa.
Theo truyền
thống chúng ta có khuynh hướng nh́n luật lệ
như là có trước ân sủng.
Có nghĩa là chúng ta đă quen nh́n luật lệ đi
vào kinh nghiệm của chúng ta trước hết với
mục đích kết án. An sủng sau đó mới đi
theo để đem ơn giải thoát cho chúng ta khỏi án
phạt. Nhưng chỉ nh́n ân sủng đơn thuần
như sự giải thoát khỏi án phạt , th́ chỉ là
phần của câu chuyện. Khi chúng ta thưà nhận
rằng ḷng từ bi của Thiên Chúa đi trước
mệnh lệnh Người ban truyền,th́ khi ấy chúng
ta thoáng thấy t́nh yêu của Thiên Chúa bất cứ khi nào
Người nói - ngay cả
khi Người ban lệnh truyền. Đôi khi chúng ta có
thể khó chịu,ngay cả sợ hăi,do lệnh truyền
của Thiên Chúa,chúng ta vẫn nhận ra t́nh yêu của
Người.
Hiểu
được nguyên lư “ân sủng đi trước
luật lệ”như là căn bản của cách
đối xử của Thiên Chúa với chúng ta,cũng
sẽ cung cấp cho chúng ta gương để chúng ta làm
thế nào liên hệ với người khác: chúng ta
được kêu gọi để yêu thương không
phải chỉ kẻ lành,mà cả những người
xấu. Chúng ta yêu mến họ như là những con cái
của Thiên Chúa sao cho họ
sẽ ước ao sống như là những con cái của
Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta không phải là lên
án,mà là dâng quà tặng sự sống.
Bởi v́ chúng
ta nhắm áp dụng nguyên lư Sinai – Golgotha trong gia đ́nh
chúng ta và trong gia đ́nh giáo hội,chúng ta cũng cần
phải có ư thức về những nguy hiểm khi chỉ
làm nỗi bật một phần của h́nh ảnh,tức
là hoặc chỉ làm nổi bật lời mời gôi
hoặc chỉ làm nổi bật các mệnh lệnh.
Một mặt nếu chúng ta chọn sử dụng lời
mời gọi mà thôi v́ chúng vùa ư dễ chịu
hơn,thường kết quả sẽ là điều mà
Ellen White mô tả như là một
”sự tử tế độc ác” (Testimonies,tập
3,trg 141). Trong sự yếu đuối của ḿnh,thỉnh
thoảng chúng ta cần một bàn tay cứng rắn; lỏng
lẽo khi đáng ra chúng ta cần vững chải,có
thể tai hoạ. Mặt khác,khi chúng ta lấy Sinai thay v́
Golgotha làm cốt lơi cho
mối liên-hệ của Thiên Chúa với con người,
th́ chúng ta sẽ có khuynh hướng sử dụng các
mệnh lệnh ngay cả khi một lời mời gọi
sẽ hiệu quả hơn. Như vậy chúng ta có nguy
cơ miêu tả chính chúng ta và Thiên Chúa của chúng ta như
là độc đoán. Điều đó cũng có thể
dẫn tới những kết quả bi thảm. Như
Ellen White đă một lần nhận xét,”những lời
nói và hành động độc đoán khêu gợi những
đam mê xấu nhất trong tim con người”(sách đă
dẫn,tập 6,trg 134).
MỐI QUAN HỆ PHÁT XUẤT TỪ T̀NH YÊU
Khi Thiên Chúa
nhắm dẫn dân Người từ Sinai tới
Golgotha,Người đă nhắm tới việc dẫn
họ đến sự sống và tới một mối
quan hệ với Người phát xuất từ t́nh yêu.
Người se MỜI GỌI,nhưng Người cũng
sẽ TRUYỀN LỆNH. Và khi khiển trách,Người
sẽ làm như vậy mà giọng nói tràn nước
mắt, v́ Người yêu thương con cái của
Người ngay cả khi họ bất tuân.
Khi Thiên Chúa nói
ở Sinai,sấm sét đầm đ́a nước mắt
trong giọng nói của Người;nhưng trong sự
thinh lặng đáng kinh hoàng trên Golgotha, người quan sát
tôn kính không thể mất nước mắt.Chính v́ thế
mà Tân Ước thường nghe có vẻ khác với
Cựu Ước. Sự khác biệt ấy trong sự
nhấn mạnh không đơn thuần là một sự
khác biệt hiện hữu giữa Cựu và Tân
Ước. Mỗi tác giả trong Kinh Thánh cho một giọng khác nhau,tùy thuộc vào
nhu cầu của thời ấy và sự tiến triển
của cuộc hành hương riêng người ấy
dọc theo lộ tŕnh Sinai – Golgotha. Ellen White ghi nhận
rằng các tác giả Kinh Thánh “khác nhau một cách sâu xa” trong
“khả năng trí tuệ và tinh thần”,một sự đa dạng được
phản ảnh trong các sách họ viết.
Nguyên lư đa
dạng và nguyên lư tăng triển dọc theo lộ tŕnh
Sinai – Golgotha là hai nguyên lư chủ yếu không chỉ cho
sự hiểu biết Kinh Thánh của chúng ta,mà c̣n
để hiểu di sản quang lâm cũng như kinh nghiệm
của Ellen White.Như phần c̣n lại của chuỗi
nầy sẽ chứng minh, sự tăng trưởng
từ Sinai đến Golgotha,từ MỆNH LỆNH
đến LỜI MỜI GỌI, từ sợ hăi
đến t́nh yêu,là một mô h́nh Kinh Thánh (phần 3)
cũng được phản ánh trong kinh nghiệm và
thần học của Ellem White.
Nhưng không
quan tâm đến việc một kẻ tin hoặc một
tiên tri đứng ở vị trí nào trên lộ tŕnh tới
Golgotha,Thiên Chúa không khi nào thoả hiệp các đ̣i hỏi
đạo đức của người.Luật lệ
của Thiên Chúa, luật của t́nh yêu tự hiến, vẫn
bất biến. Nó hiện ra trong sự đa dạng
về h́nh thức,nhưng mục đích của nó luôn là
kinh nghiệm vốn t́m được niềm vui cao
nhất trong sự tuân phục Chúa Vũ Trụ.
(BTGH chuyển ngữ)
CHIA SẺ |
THẾ
GIỚI LÀ PHẲNG
Trong mục
“Hội Nhập”, phát vào Chúa nhật 12.11.2006, kênh VTV1 Đài
truyền h́nh Việt-Nam lấy tiêu đề “thế
giới phẳng”- ,theo đề tựa và nội dung
của một cuốn sách do tác giả Thomas Friedman viết
- để đào sâu việc hội nhập của
Việt-Nam khi đă gia nhập WTO.
Sau khi giới thiệu bài trả lời phỏng
vấn của Cha Giuseppe Lorizio,về “THUYẾT TƯƠNG
ĐỐI CÓ THỂ THÂM NHẬP VÀO THẤN HỌC”, BTGH
muốn cùng luận-bàn về một cuốn sách
được xếp vào hàng
“best-seller” của Thomas L. Friedman, về đề tài mà Ông
rất ưa chuộng,là T̉AN CẦU HOÁ. Trong cuốn sách
nầy, Thomas Friedman đă cho thấy cái nh́n của Ông
về toàn-cầu-hóa và những kết quả nó mang
lại, nhưng lại tránh né những hậu quả và
hệ lụy của toàn-cầu-hóa. V́ chỉ muốn
đề cập đến khía cạnh đă nêu lên: thuyết tương đối
có thể thâm nhập vào Thần Học, cho nên xin
mạn phép luận bàn về ảnh hưởng mà toàn
cầu hoá mang lại cho các
nền văn hóa nói chung , cách riêng các tôn giáo và sâu xa
hơn nữa là Thần học,cuối cùng là ảnh hưởng
đến các vấn đề liên quan đến
đức tin Công-giáo: các Mầu Nhiệm, các Tín
Điều, Giáo Huấn Giáo Hội.
Cách đây mấy năm, người ta đă háo hức đón mua cuốn “Chiếc xe Lexus và cây ô-liu”của ông, th́ đầu năm 2005 –chính xác là tháng 4 năm 2005, Thomas L. Friedman cho phát hành cuốn “THẾ GIỚI LÀ PHẲNG” (The World is flat), trong đó ông nhấn mạnh cơ hội phát triển đồng đều cho mọi quốc gia, mọi công ty và mọi cá nhân trong thế giới toàn cầu hoá ngày nay. “Phẳng” với ư nghĩa quá tŕnh toàn cầu hóa kinh tế kéo theo quá tŕnh toàn cầu hóa mọi mặt đời sống xă hội loài người trên hành tinh này đi vào “luật chơi chung”. Tác giả - nhà báo, nhà văn nỗi tiếng của tờ New York Times - đặt đề phụ cho cuốn sách là “a brief history of the twenty-first century”(một câu chuyện ngắn của thế kỷ XXI). Những quan sát và nhận định của Thomas Friedman khá tỉ mỉ và tinh tế cho thấy ông là người đi nhiều, thấy nhiều và phân tích và tổng hợp khá nhuần nhuyễn những dữ kiện kinh tế - xă hội – chính trị và không thể chối căi hy vọng nhen nhúm trong ông được nh́n thấy sự kích thích mà những trang sách của ông sẽ mang lại được, nhất là cho những người dân trong các quốc gia đang phát triển: cơ hội đồng đều, trong một thế giới nay đă được làm cho “phẳng”!
Nhưng ngoài
cái nh́n rất phiếm diện và vật chất, Thomas
Friedman quên rằng: con người không phải là những
rô-bốt và cơ hội đồng đều chỉ là
một cách nói rất thiếu trách nhiệm, mị dân,
thiếu căn cứ thực tiễn, bởi lẽ
tất cả mọi con người không phải đi từ
một xuất phát điểm trong cuộc toàn cầu hoá
nầy cả về thời gian,không gian và cơ hội ,
nôm na là “vốn liếng” tinh thần và vật chất: Ở
vạch xuất phát nầy, người nông dân một
nước nghèo đói có thể cạnh tranh với nông dân
có đủ máy móc, phương tiện, tiền bạc,
sức khoẻ và...cơ hội chăng? Một
người học vấn có tŕnh độ tương
đương ở hai quốc gia có GDP cách xa nhau, cũng
có cơ hội như nhau ư? Lấy một ví dụ;
Việt-Nam ư thức rằng ḿnh không thể đứng
ngoài cuộc chơi, thậm chí không được phép
chậm chân thêm nữa để gia nhập WTO và dù
miệng vẫn tuyên bố “không gia nhập WTO bằng
bất cứ giá nào”, th́ Việt-Nam cũng đă phải
chấp nhận những o ép kiểu “ma cũ bắt
nạt ma mới” để chấm dứt cuộc đàm
phán kéo dài 11 năm. Tất nhiên Việt-Nam cũng sẽ
được hưởng khá nhiều từ việc trở
thành thành viên cỉa WTO, nhưng những “cái giá” th́ vẫn
phải trả! Và không rẻ chút nào: điều nầy thí
nhiều người đă nhận thấy, cảm nghiệm.
Cách nh́n
thế giới được “phẳng-hoá” của Thomas
Friedman mau chóng tiến tới điểm cực đoan,
suy nghĩ lạnh lùng và cho rằng thực tế trong
“thế giới phẳng” nầy cũng sẽ tàn
nhẫn,khắc nghiệt như thế, nếu không xoay
xở đ ể cùng theo kịp đà phát triển. Theo ông, trên thế giới từ lâu
đă xuất hiện, đang h́nh thành, đang phát triển
nhiều giá trị chung, văn hóa chung - trong thế
giới “phẳng” hôm nay càng như vậy. Ḥa đồng vào cái “chung” này
để đi lên hay biệt lập, cũng chẳng khác
sự lựa trọn đi với tương lai hay ở
lại sống chung với quá khứ là bao. Có thể
bị nuốt chửng, bị “ḥa tan” trong cái chung này? -
Nếu bản lĩnh chỉ có đến mức vậy
th́ cũng xứng đáng nhận số phận như
vậy, chẳng có sự thỏa hiệp nào cả.
...Nhưng cái sai lầm, nguy hiểm nhất
trong lập luận của Thomas Friedman, là “cào bằng”
mọi giá trị, sau khi muốn cào bằng mọi
khoảng cách và cách biệt. Ông
muốn cào bằng cả vấn đề đạo đức, - mà theo suy
nghĩ rất duy vật của ông, - có thể
được nuôi dưỡng trong giàu có và khôn ngoan
của trí tuệ (khó ḷng bảo vệ được trong
cái nghèo và lạc hậu). Xuất hiện trong suy nghĩ và
lập luận của Thomas Friedman “thuyết tương
đối luân lư” (relativisme moral) sau khi “nhẹ nhàng”
khẳng định thuyềt tương đối
văn hoá (relativisme culturel)
Để
trả lời cho lập luận”tương đối
hoá” mọi giá trị tinh thần và luân lư hết sức
nguy hiểm nầy, xin giới thiệu bài trao đổi
của Đức Giám Mục Giuseppe Lorizio, giáo sư
thần học Giáo Hoàng Chủng Viện Latran. Xin tạm
lấy tựa đề “Thuyết tương
đối có thể thâm nhập vào trong thần học”.
Đă 10
năm kể từ ngày Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công
bố Tông thư “Veritatis Splendor” (Chân Lư Rạng Ngời)
để “cho thấy sự rạng ngời của Chân Lư
phải vươn tới ngay những cấu trúc của
hành động luân lư của con người và thâm nhập
nó” (ĐGM Giuseppe Lorizio). Những chủ đề về
“Thiện, Mỹ”nằm trong chân trời chân lư và hiện
thực nầy, trong một phạm vi của chân lư tự
trao ban và chiếu toả trong công cuộc tạo dựng và trong con
người. Trong phạm vi giảng dạy luân lư, ta có
thể nói rằng “Veritatis Splendor”là một văn kiện
thần học luân lư căn bản quan trọng. Trong
nền văn hoá theo chủ nghĩa tương đối
và hoài nghi, Tông thư “Veritatis Splendor” đề xuất
một cái nh́n khách quan về chân lư và luân lư: đó là tâm
của truyền thống giáo hội. Một sự chủ
quan mà không thể đón nhận chân lư khách quan,th́ sẽ làm
mồi cho những lệch lạc kết cục với
việc huỷ diệt ngay chính con người và những
ǵ mà con người có đặc trưng và riêng biệt
nhất. Tông thư đề xuất một định
hướng,trong đó Mạc Khải Kitô-giáo
được tŕnh bày một cách sáng sủa, qua h́nh
ảnh xinh đẹp của tinh tú. Bối cảnh mất
phương hướng vốn là đặc trưng
của văn hoá và lịch sử ngày nay cần đến
một thông điệp khả dĩ định
hướng con người trên đường đi và
trong các ứng xử của nó.
Ân sủng và
luân lư luôn được nối kết chặt chẽ
với nhau,v́ lư trí và ư chí con người vốn mỏng
ḍn,không chỉ v́ chúng được tạo nên và v́ thế
mà bị giới hạn,nhưng c̣n v́ tội lỗi
ngụ trong chúng và chúng bị tội lỗi làm tổn
thương. Ân sủng đến cứu giúp ư chí và lư
trí,bằng cách ban cho chúng năng lực và mở chúng ra
để cho luân lư đúng thực đi vào hành
động. Ân sủng không hủy diệt tự nhiên. Ân
sủng làm cho tự nhiên nên trọn vẹn và bảo
đảm cho nó được cứu rỗi.
Mối nguy là
cái năo trạng theo thuyết tương đối thâm
nhập vào trong thần học Công giáo hơn là trong Giáo
Hội. Các chỉ dẫn ở chương hai của
bức tông-thư xác định rằng nhà thần học
Công-giáo được kêu gọi tiếp nhận những
lời dạy của Huấn Quyền và rằng nếu
người đó ước mong tiếp tục là nhà
thần học Công-giáo,th́ ông ta không thể loại bỏ
chúng giữa những quan niệm ít nhiều đáng tin
cậy. Những chỉ dẫn ấy, theo chiều
hướng nầy, là đúng lúc và qúy giá.
Thông
điệp về chân lư và điều thiện hảo không
phải là độc quyền của những kẻ tin: nó
có trong bản tính tự nhiên của con người. Kẻ
tin và người không tin có thể làm việc cùng nhau trong
chiều hướng nầy và trên con đường
nầy, để khám phá một nền đạo
đức có nền tảng nhân nhân loại
học,nghĩa là có một nhăn quan về con người
cho thấy được nhận dạng đích
thực,nguồn gốc thật và cứu cánh thật
sự của con người. Vào một thời kỳ mà
các khuynh hướng hậu-chủ nghĩa nhân văn tràn
ngập, chúng ta tin rằng sẽ lư thú cho những kẻ
không tin xây dựng lại nền luân lư của họ
một cách theo nhân loại học. Giáo Hội đề
xuất làm bạn đồng hành của tất cả
những ai t́m kiếm Chân-Thiện-Mỹ với một tâm
hồn chân thành.
Trở lại với Thomas Friedman. Cũng như nội dung cuốn sách nầy, cuốn Chiếc Lexus và Cây Ô liu (Lexus là loại Toyota hạng de luxe do Nhật sản xuất.) chỉ để trả lời câu hỏi (cũng là đề phụ của cuốn sách nầy): TOÀN CẦU HOÁ LÀ G̀. Hăy đọc một đoạn trong một chương của cuốn sách nầy, khi tác giả đi thăm nhà máy Toyota: “Điều tôi chợt nghĩ lúc đó là chiếc Lexus và cây Ô liu tượng trưng khá hay cho thời Hậu Chiến tranh Lạnh: một nửa thế giới ra khỏi cuộc chiến, cố gắng sản xuất và cải tiến cho chiếc xe Lexus sang trọng, giành hết sức cho hiện đại hóa, tinh giản và tư nhân hóa nền kinh tế của họ để tiến bộ trong thời toàn cầu hóa. C̣n nửa kia của thế giới – nhiều khi là phân nửa của một đất nước, hay là phân nửa của một cá nhân – vẫn tiếp tục tranh giành xem ai là người chủ của một cây Ô liu nào đó”. Ông đă để cho trí tưởng tượng đi khá xa - quá xa- khi cho rằng “Cuộc đấu giữa chiếc xe Lexus và cây Ô liu thực ra là phiên bản hiện đại của một câu chuyện cổ xưa, có thể nói là một trong những câu chuyện xưa nhất – V́ sao Cain giết Abel. Kinh thánh Do Thái có viết trong sách Cựu ước: “Cain nói với em là Abel; Và khi họ ra đồng, Cain bước tới và giết Abel, người em của ḿnh. Khi Chúa hỏi Cain, “Em Abel của con đâu?” Cain đáp, “Con không biết. Con có phải là người canh giữ em con đâu?” Và đức Chúa nói, “Con đă làm điều ǵ vậy? Tiếng của máu huyết trong người em con trên đất đang vang vọng đến ta.”, Và từ giải thích của một vị giáo sĩ,giáo sư thần học của ông, ông đă chấp nhận ư nghĩa đó:” Vị Giáo sĩ của tôi kết luận tất cả các khía cạnh cơ bản của động lực nhân loại sau này đă được bao gồm trong một câu chuyện nhỏ đó: nhu cầu riêng tư t́nh dục, [hai anh em giết nhau để tranh giành lấy người Mẹ là Evà,người phụ nữ duy nhất lúc ấy. Đă nhiễm hơi hướng Phân-tâm-học LIBIDO của Sigmund Freud] nhu cầu phát triển vật chất và nhu cầu h́nh thành và duy tŕ bản sắc và tính cộng đồng. Tôi xin giành phần nói về t́nh dục cho một tác giả khác phân tích, trong cuốn sách này, tôi xin nói về hai phần sau của câu chuyện [ tranh chấp quyền lợi phát triển kinh tế và đời sống vật chất và tranh chấp về vấn đề bản sắc và ai sẽ là người giữ giềng mối gia đ́nh.].
Cuối
cùng,chính Friedman lại mâu thuẫn với chính ḿnh,khi
viết “Ḷng tin là điều cốt tử đối
với một thế giới phẳng”: “Không có ḷng tin th́
không có xă hội mở, bởi v́ không có đủ cảnh
sát để trông coi tất cả những chỗ đă
được mở ra trong xă hội này. Không có ḷng tin th́
cũng chẳng có thế giới phẳng, bởi v́ chính
ḷng tin cho phép chúng ta phá bỏ những bức tường,
dỡ bỏ những hàng rào và loại bỏ những va
chạm ở biên giới..."
"Ḷng tin là điều cốt tử
đối với một thế giới phẳng, nơi
hệ thống cung cấp có sự tham gia của hàng
chục, hàng trăm hoặc thậm chí hàng ngàn
người, phần lớn trong số đó chưa bao
giờ gặp mặt nhau”. Đă có nhà kinh-tế
chính-trị nào trong cái được goị là “thế
giới phẳng”mà dám đặt niềm tin người
khác, ngay cả với các đối tác đă quan hệ
nhiều mặt và lâu năm, chứ chưa nói đến
tầm mức quốc gia,chưa? Chắc chắn là không!
Ḷng tin chỉ có ở thời xa xưa, khi con người
chưa dùng các loại tiền để giao thương,mà
dùng hiện vật đổi lấy hiện vật,ví
dụ: dùng heo ḅ,gà vịt để đồi gạo thóc,
rượu, thậm chí là những thứ rất khó
hiểu đối với người thời nay,như
đem vàng bạc để đổi…vỏ
ṣ,muối,v..v.. v́ đối với họ,những cư
dân cả đời không nh́n thấy biển, không có khái
niệm về biển, vế muối từ nước
biển, th́ các sản vật ấy qúy hơn vàng bạc
vốn dễ dàng khai thác ở xứ sở của họ.
Chỉ có ở những môi trường đó th́ Friedman
mới có quyền nói về “ḷng tin”, khi mà chữ “tín” là cao
nhất, khi mà mất chữ “tín”, th́ con người sẽ
bị khinh chê,xa lánh và chẳng c̣n có thể làm điều
ǵ với ai. C̣n ở xă hội ngày nay, nhất là thế
kỷ XX và những năm đầu thập niên thế
kỷ XXI nầy, “chữ tín’ chỉ dựa trên “ chữ
kư”, nghĩa là các hợp đồng được kư
kết, theo kiểu “bút sa gà chết”: không có ḷng tin cũng
không xong, v́ tính chặt chẽ của các văn bản và
điều khoản hợp đồng ngày càng cao, nhất
là khi được các chuyên gia, ê-kíp
rành luật soạn thảo và rà soát để không c̣n
bất cứ một kẻ hở dù nhỏ nào, để đối tác – cũng có thể
hiểu đó là đối phương và đối
thủ - có thể lợi dụng hoặc chiếm thế
thượng phong. Ở một xă hội mà thứ hợp
đồng “căn bản’ nhất, dựa trên cả t́nh
lẫn lư, được đặt vào đó “ḷng tin” cao nhất, chính là HÔN NHÂN, th́
sự thật thế nào? Ly dị tràn lan, ly dị dễ
dàng, có phải v́ ḷng tin đặt không đúng chỗ?
Freidman tự mâu thuẫn, v́ cố gắng nhập hai
phạm trù có tính khoa học chính xác cao (những con số
kinh tế) và thuộc lănh vực tâm linh, dễ dàng thay
đổi tuỳ mức độ đạo đức
luận lư của cá nhân,xă hội mà con người sinh
sống. Thế giới,v́ thế, chỉ ước mơ
sao cho “phẳng”, để mọi người cùng có may
mắn có được những dịp may đồng đều
và được hưởng lợi tương xứng.
Nhưng thế giới,chính là con người và làm sao
thế giới có thể “là phẳng” khi chính con
người không “phẳng” mà không bao giờ muốn
nó”phẳng”? Nhưng nếu xét về “hậu ư” của
Friedman, trong hai cuốn sách của Ông,”Xe Lexus và Cây Ô-liu”,
đặc biệt là cuốn “Thế
giới là phẳng”, th́ Friedman muốn vượt qua
giới hạn kinh-tế-học và xă-hội-học,
để đưa vào trong hành-tŕnh nghiên cứu và các
lập luận của ông thuyết tương-đối
(relativism). Friedman dường như đă thấy cái
thiếu sót, cái nghịch lư và cả mâu thuẫn trong
“học thuyết” của ông,nên đă vôi đưa ra “phiên
bản cập nhật và bổ sung” (updating and supplementing
version),trong đó ông nh́n nhận: ” Thứ nhất, những
nhân tố làm phẳng thế giới vẫn không ngừng
biến đổi kể từ khi cuốn sách này
được xuất bản vào tháng 4/2005. Thứ hai, tôi
muốn t́m trả lời một trong những câu hỏi
được đặt ra nhiều nhất trong quăng
thời gian giới thiệu cuốn sách này ở Mỹ:
“Vâng, thưa ông Friedman, cảm ơn ông đă cho chúng tôi
biết Thế giới này là Phẳng – Vậy tôi sẽ
nói với các con tôi như thế nào đây?” Quư vị
độc giả sẽ t́m thấy nhiều thông tin bổ
ích về chủ đề giáo dục và về Thế
Giới Phẳng trong phiên bản mới này. Lư do cuối
cùng là, sau khi đọc cuốn sách (xuất bản vào
4/2005), nhiều độc giả cũng như một
số nhà phê b́nh đă đóng góp ư kiến thật sâu
sắc và bổ ích, thôi thúc tôi nhanh chóng cập nhật
bổ sung ngay những ư kiến đóng góp đó vào nội
dung cuốn sách. Tôi sẽ tạm thời không ngừng
viết về cuốn sách này. Tôi muốn nhân cơ
hội này chia sẻ với các bạn những ǵ tôi
học được và rất may là nhờ có quá tŕnh làm
phẳng thế giới nên mong muốn này của tôi được
thực hiện dễ dàng hơn bao giờ hết”
(Friedman,Washington D.C,Tháng 1.2006). Thẳng thắn mà nói: Friedman
c̣n phải cho ra thường xuyên những “phiên bản
cập nhất và bỏ sung” như thế hằng
năm,thậm chí là hằng tháng! Không thể khác
được: hằng số không có,trong khi biến
số lại chủ yếu và gặp thấy ở
mỗi hành vi làm nên cái mà Friedman
một hai khẳng định “Thế giới là
phẳng”.
Để
kết luận, có lẽ chúng ta chỉ cần trích một
câu trong sách của Friedman để thấy sự thiếu
nhất quán trong tư tưởng và lư luận, sự
bối rối và cả
sự mâu thuẫn của Ông :” Có thể ai đó sẽ hỏi: Thế c̣n
đạo đức nằm ở đâu? Xin mọi
người tự t́m câu trả lời. Riêng tôi xin thưa
cho phần ḿnh: Đạo đức có thể
được nuôi dưỡng trong giàu có và khôn ngoan
của trí tuệ… và h́nh như khó bảo vệ được trong cái nghèo và
lạc hậu”.
Thomas L. Friedman là một trong những nhà b́nh
luận hàng đầu của nước Mỹ về quan
hệ quốc tế. Sinh năm 1953 tại Minneapolis, Ông
đă học tại Đại học Brandeis và Trường
St. Anthony, Đại học Oxford. Cuốn sách đầu
tay của Ông “Từ Beirut đến Jerusalem” đoạt
giải National Book Award năm 1988. Friedman cũng
đoạt hai giải thưởng Pulitzer trong thời gian
làm Trưởng phân xă tờ The New York Times tại Beirut và
Jerusalem. Ông hiện sống ở Bethesda, Maryland, cùng vợ
và hai con gái.