THỨ HAI 19.03: KÍNH THÁNH CẢ GIUSE
CẦU CHO CHÚNG
CON.
1.
TIN TỨC HỘI THÁNH CÔNG-GIÁO
2.
GIỚI THIỆU
a) HĂY ĐẾN VỚI THÁNH GIUSE
+ YÊU
MẾN CHA THÁNH GIUSE
+ Ư
NGHĨA CỦA ĐAU KHỔ
b) T̀M HIỂU KINH THÁNH:
+
ĐỀ 4 : CHIẾN
LƯỢC TRUYỀN GIÁO CỦA THÁNH PHAOLÔ
3.
CHIA SẺ :
+
CÔNG VIỆC TỐT NHẤT TRẦN ĐỜI
PHỤ LỤC : GỢI Ư SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT HẰNG TUẦN
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY Năm
C
SINH VIÊN CÔNG GIÁO VÀ CÔNG ÍCH:
XÂY DỰNG MỘT THẾ GIỚI TỐT ĐẸP HƠN
(ZENIT
08.03) Đó là đề tựa của một hội
thảo chuyên đề khởi xướng do Hội “Con
Đường Hoà B́nh” (Path to Peace), cơ quan của Phái
Đoàn Toà Thánh tại Liên Hiệp Quốc ở New York.
Hội thảo chuyên đề nầy sẽ bắt đầu từ ngày 20.05
đến ngày 25.05, với mục đích khuyến khích các
sinh viên phải nhạy bén hơn với Giáo huấn Giáo
Hội về xă hội và luân lư, để
có thể góp phần vào việc rèn luyện cho m2inh một
tinh thần và một ư thức gắn chặt vào các giá
trị và những điều xác tín vững chắc.
Như thế họ sẽ đưộc giúp đỡ
để biến đổi thế giới nầy nên
tốt đẹp hơn. Hội thảo sẽ tạo
dịp cộng tác cho các chuyên gia,nhà thần học,nhà xă
hội học và những cựu đại diện ở LHQ
và các đại sứ. Tổ chức “Con Đường
đến Hoà B́nh” được thành lập năm 1991
để hổ trợ các hoạt động trong các lănh
vực giáo dục,văn hoá,trợ giúp nhân
đạo,bổ sung cho hoạt động ngoại giao
của phái đoàn Toà Thánh tại LHQ,nhằm phổ
biến một thông điệp hoà b́nh,theo như câu của
Thánh Luca:”dẫn ta bước vào đường nẻo
b́nh an” (Lc 1,79)
CÔNG VIỆC MỤC VỤ CỦA
CỘNG ĐOÀN CÔNG GIÁO NHỎ BÉ Ở KAZAKHSTAN
(FIDES 07.03) Công việc
mục vụ tiến triển hềt sức mnau chíng
thuận lợi cho hai vị linh mục được
truyền chức sau khi đă hoàn tất học thần học
ở chủng viện Kazakhe ở Karaganda,chủng viện
Công giáo duy nhất ở Trung Á. Đại chủng viện
liên giáo phận “Đức Maria Mẹ Thiên Chúa” trong thành
phố và giáo phận Karaganda, đă được xây dựng xong
ngày 14.01.2005 do Thánh Bộ Phúc Âm hoá các dân tộc. Viện
trưởng là Cha Zygmunt Kwiecinski thuộc hàng giáo sĩ Ba
Lan và ngôi nhà hiện tại tiếp nhận 20 chủng sinh
địa phương. Cha Nicolai Mamajev, 28 tuổi, và Cha
Marius Kowalski,37 tuổi – hai tân linh mục thụ phong tháng
5.2006- đă đem lại cho việc mục vụ Giáo
hội địa phương một nhựa sống
mới và đă dấn thân với giới trẻ,các gia
đ́nh,bằng những hoạt động phụng
vụ và bác ái. Sau những năm bách hại Kitô-hữu,ngày
nay Kazakhstan mở ra cho đức tin nơi Chúa Kitô.Có
khoảng 300.000 tín hữu Công giáo (trên dân số 15 triệu)
và việc rao giảng PhúcÂm trong các thảo nguyên Trung Á
tiếp tục nhờ sự hiện diện của các
thừa sai,nhưng cũng nhờ có cả các giáo dân.
Năm 1991,chỉ có 9 linh mục trong cả nước,nay
con số đă là 80 và 100 nữ tu,70 giáo lư viên và thừa sai
giáo dân. Từ khi mở chủng viện Karaganda, ơn thiên
triệu tiếp tục triển nở
HỌP MẶT GIA Đ̀NH
LẦN ĐẦU TIÊN Ở Á-CĂN-Đ̀NH “ĐỂ TÁI
KHÁM PHÁ VẺ ĐẸP VÀ NIỀM VUI ĐƯỢC LÀ
MỘT GIA Đ̀NH”.
(FIDES 07.03) “Niềm vui
được là một gia đ́nh” là tựa đề
của thư mục vụ do Đức Cha Carlos Maria
Franzini, giám mục Giáo phận Rafaela, Á Căn Đ́nh,gửi
tất cả các tín hữu trong Mùa Chay nầy,trong đó
Ngài nhắc lại rằng “Mùa Chay là một cơ hội
tốt để tái khám phá vẻ đẹp và niềm vui
được là một gia đ́nh và để nh́n
nhận rằng ơn gọi trở thành một gia đ́nh
ở trong tâm trí mọi người, v́ Đấng Tạo
Hoá muốn chúng ta trở thành một gia đ́nh”.
Đức giám mục nhắc lại sự dấn thân
của giáo phận trong năm qua trong con đường
mới về mục vụ: “củng cố sự gặp
gỡ của chúng ta với Chúa Giêsu, nhờ vào một
đời sống bí tích mănh liệt, hầu chúng ta trở
nên nhân chứng và tôi tớ cho Chúa trong các thực tại
khác nhau của giáo phận chúng ta”. Trong các giáo
xứ,trường học và phong trào, các hoạt
động khác nhau đă được thực huện
trong năm để đạt được mục tiêu
nầy. Trong khuon khổ các cuộc dấn thân nầy, giáo
phận đă t́m một câu trả lời cho thách
đố về khủng hoảng gia đ́nh,”thể
chế căn bản của Giáo Hội và xă hội
hiện nay đang bị đe doạ nghiêm trọng” do các
nguyên nhân khác nhau: các mối liên hệ rất dễ vỡ;
những cam kết chóng tàn phai, t́nh h́nh kinh tế, các giá
trị truyền thống vốn nâg đỡ gia đ́nh
nay bị đặt vấn đề và người ta
muốn áp đặt những “h́nh mẫu gia đ́nh”mới
… Trong t́nh trạng nầy, Đức Cha Carlos Maria cảnh báo hiểm nguy rơi
vào chủ nghĩa hoài nghi và cho rằng chẳng ai có
thể làm ǵ hơ được. “Mặc cho những
tấn công và khó khăn, gia đ́nh tiếp tục là
điểm tham chiếu cần thiết cho đại
đa số người dân Á-Căn-Đ́nh”. V́ thế Mùa
Chay là một thời kỳ thuận lợi để
“chúng ta thẩm định lại giá trị của kinh
nghiệm gia đ́nh, hiểu rơ những ǵ tốt đẹp
mà chúng ta đón nhận từ gia đ́nh và phải góp
phần hết sức để cải thiện những
ǵ chưa tốt đẹp mà chúng ta đang sống”.
Để chứng tỏ dấu chỉ và ước ao
nâng đỡ mục vụ gia đ́nh, giáo phận
chuẩn bị tổ chức cuộc họp mặt gia
đ́nh đầu tiên, dự trù vào ngày 28.10.2007.
TRÍCH DẪN CÁC QUAN
ĐIỂM CỦA GIÁO HOÀNG THẾ KỶ THỨ NHẤT
VỀ GIÁO HỘI - QUỐC GIA
(CWNews 07.03) Trong buổi
triều yết thông lệ hằng tuần ngày 7.03, Đức Thánh Cha
Biển Đức XVI tiếp tục loạt bài nói
chuyện của Người về Giáo Hội thuở ban
đầu bằng việc gợi lại gương mặt
Thánh Clêmentê, vị giáo hoàng thứ ba kế vị Thánh Phêrô.
Ngỏ lời với khoảng 16.000 người trong
đại sảnh Phaolô VI, Đức Thánh Cha trích dẫn
những câu nói của Thánh Irênê thuật lại rằng
Thánh Clêmentê quen với các tông đồ đầu tiên và
“tai c̣n nghe tiếng các Ngài giảng dạy và như c̣n nh́n
thấy các Ngài trước mắt”. V́ thế, Vị giáo
hoàng thứ 4,người đă cai quản Giáo Hội cuối
thế kỷ thứ nhất, kéo dài kỷ nguyên các tông
đồ. Ngaỳ nay chúng ta biết rất ít về Thánh
Clêmentê, dù Giáo Hội đă xây dựng một thánh
đường nguy nga vào thế kỷ thứ tư ở
Roma, gần đấu trường Colisê, để tôn vinh Ngài. Nhưng
người ta biết đến Ngài do lá thư Ngài
viết gửi cho Giáo Hội ở Côrintô, trong đó Thánh
Clêmentê can thiệp để dàn xếp một cuộc
cải vă giữa các Kitô-hữu của thành phố. Theo
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, “đó là việc
thực thi lần đầu tiên quyền tối
thượng của Rôma sau khi Thánh Phêrô từ trần”.Lá
thư của thánh Clêmentê làm sáng tỏ bản chất
của Giáo Hội, như ” một cấu trúc có tổ
chức trong đó mỗi thành phần đảm trách
phần vụ theo ơn gọi của ḿnh”. Bức thư
nhấn mạnh rằng sứ mệnh của Giáo Hội
thuộc về Bí Tích hơn là mang tính chính trị và khích
lệ mọi tín hữu đáp trả lời mời
gọi của Thiên Chúa với “một hành tŕnh hoán cải
quảng đại và dũng cảm”. Qua thư nầy,
Tbánh Clêmentê cho thấy sự phân biệt rơ rệt giữa
vai tṛ của Giáo Hội và quốc gia. Vị giáo hoàng
thế kỷ thứ nhất cho thấy sự tôn trọng
đối với chính quyền, nhưng cũng nhấn
mạnh rằng một người cai trị phải hành
động công bằng và thận trọng và chính nhà cai
trị cũng phải tuân thủ đời sống luân lư
gương mẫu.Thánh Clêmentê nói rằng “ César không
phải là mọi thứ. Có một vương quyền
khác, nguồn gốc và bản chất của nó không
thuộc về thế gian nầy”.
CÁC LĂNH ĐẠO
ĐỨC, BA LAN NHẤT TRÍ: CÔNG NHẬN VAI TR̉ KITÔ-GIÁO
Ở CHÂU ÂU.
(CWNews 08.03) Những
người phát ngôn của Quốc Hội nước
Đức và Ba Lan nhất tŕ rằng các nguyên tắc
Kitô-giáo phải được kể ra trong Tuyên Bố
Berlin,một văn kiện sẽ được kư vào 25.03
để kỷ niệm 50 năm hiệp ước Rôma
vốn h́nh thành nền tảng cho Liên Minh Châu Âu ngày nay. Các
phát ngôn nhân nầy nói rằng đất nước họ
sẽ ủng hộ một sự công nhận rơ ràng vai tṛ
của Kitô-giáo trong việc h́nh thành cộng đồng Châu
Âu. Lời tuyên bố của họ lập lại một
lập luận đă được Đức giáo hoàng
Gioan-Phaolô II và Đức giáo hoàng Biển-Đức XVI sớm
đưa ra một cách hùng hồn. Cả hai vị giáo tông
đều nói rằng Kitô-giáo phải được nêu ra
trong phần mở đầu của Hiến Chương
Liên Minh Châu Âu. Lư chứng nầy bị bác bỏ khi
soạn bản thảo hiền chương lần
cuối cùng. Cả hai người phát ngôn của hai
Quốc Hội đều đồng ư rằng Tuyên Bố
Berlin phải nh́n nhận vai tṛ lịch sử của phong
trào Liên Kết và những nhóm chống đối khác ở
các quốc gia Trung Âu và Đông Âu,trong việc kết thúc
kỷ nguyên quyền lực cộng-sản và bảo
đảm tự do cho Châu Âu ngày nay.
CÁC
GIÁM MỤC ĐỨC GÂY RA PHẢN ỨNG VỚI
VIỆC CHỈ TRÍCH ISRAEL.
(CWNews 09.03) Các giám mục Công-giáo Đức
gây ra một cuộc tranh căi sôi nổi trong một cuộc
viếng thăm Israel kéo dài một tuần,với việc
chỉ trích cách người Israel đối xử với
người Palestine và so sánh điều đó với
chiến dịch Đức quốc xă chống dân Do Thái.
Đức Cha Gregor Maria Hanke giáo phận Eichstatt là
người đă đưa ra lời b́nh luận khiêu khích
nhất,sau khi đă viếng thăm Yad Vashem, đài
tưởng niệm cuộc Tàn Sát người Do Thái bên
ngoài Giêrusalem. Đức Cha Walter Mixa giáo phận Augsburg
cũng đưa ra những nhận xét tương tự
và nói rằng chính sách của Israel xem ra “gần như phân
biệt chủng tộc”. Đức hồng y Joachim Meisner
giáo phận Cologne giận dữ cho rằng việc xây
dựng bức tường an ninh của Israel qua vùng
đất Palestine là “một cái ǵ đó làm cho súc vật,chứ
không phải cho con người”. Các nhà lănh đạo Israel
đă phản ứng giận dữ đối với
những lời phê b́nh của các giám mục. Đức
hồng y Karl Lehmann,chủ tịch HĐGM Đức đă
ngỏ lời xin lỗi trong một bức thư gửi
chủ tịch Đài tưởng niệm Yad Vashem.”Tôi
dễ dàng hiểu được rằng những nhận
xét gây ra phiền toái và phản đối. Và Ngài nói thêm
rằng các đồng sự của Ngài đă sai khi so sánh
cách đối xử với người Palestine với
cách đối xử của Quốc xă với người
Do Thái.
ỨNG CỬ VIÊN PHÁP SẼ GẠT BỎ TÔN
GIÁO RA KHỎI ĐỜI SỐNG CÔNG CỘNG.
(CWNes 09.03) Ứng cử viên Đảng Xanh
trong cuộc chạy đua vào ghế tổng thống Pháp
đă tuyên bố thẳng thừng rằng tôn giáo không có
chỗ đứng trong đời sống công cộng.
Trong một cuộc phỏng vấn của tờ La Croix (Thánh Giá),Dominique Voynet
nói :” Trong nước Pháp ngày nay, tôn giáo chỉ có thể
hiện hữu ở
những nơi riêng tư”. Ông nói rằng ông cũng có
thể thấy một số trường hợp ngoại
lệ hiếm hoi, như là việc kể các đại
biểu tôn giáo vào Uỷ Ban Quốc Gia các Nhóm thiểu
số. Ứng cử viê Đảng Xanh chống lại
việc gây qũy công cộng để xây dựng nhà
thờ Hồi giáo. Thay vào đó ông đề nghị
rằng các nhà thờ Công giáo không sử dụng nữa
“vốn là tài sản của toàn quốc gia và không nên
chỉ dành phục vụ cho người Công giáo”, phải
được đem cho các nhóm tôn giáo khác.
LĂNH
TỤ THẦN HỌC GIẢI PHÓNG BỊ THI HÀNH KỶ
LUẬT?
(CWNews 10.03) Theo tờ thông tin tây Ban Nha El Mundo (Thế Giới) Một
nhà thần học Ḍng Tên vốn là một người tiêu
biểu lănh đạo thần học giải phóng sắp
bị Vatican thi hành kỷ luật. Cha Jon Sobrino sẽ
bị cấm không được giảng dạy trong các
trường Công giáo và được báo cho biết là không
được xuất bản các tác phẩm đă
viết. Tờ báo quả quyết rằng các biện pháp
kỷ luật sẽ được Thánh bộ Tín Lư
ĐứcTin thông báo nội trong hai tuần tới đây.
Nguồn tin Vatican nói: Tác phẩm của Cha Sobrioo
được nêu ra như là xuyên tạc vai tṛ của Chúa
Giêsu trong chương tŕnh cứu độ. Có tin là Thánh
Bộ Tín Lư Đức Tin nhận thấy các công tŕnh
thần học của Cha đă nhấn mạnh thái quá
đến gương mặt Chúa Giêsu như là một
diễn viên con người bị dây vào các việc xă
hội. bỏ qua Thiên Tính của Người và vai tṛ duy
nhất của Người trong Cứu Chuộc.
Cha
Sobrino,một linh mục người Basque, trở thành
một lănh tụ có ảnh hưởng lớn của
thần học giải phóng trong những năm Ngài
sống ở El Salvador. Ngài dạy ở đại học
Trung Mỹ, một cơ sở bị ngưng trong nội
chiến thập niên 1980,khi 6 tu sĩ Ḍng Tên và 2 thành viên nhân
sự bị giết do các đội tử thần cánh
hữu vào năm 1988.
HƠN 10 NGÀN TÍN HỮU CÔNG GIÁO TRUNG-QUỐC
RƯỚC KIỆU THÁNH THỂ.
(FIDES 09.03) Từ hơn 100 năm,nhà thờ
chính toà và toàn giáo phận Nam Giang,duy tŕ truyền thống
cử hành ba ngày Chầu Thánh Thể cũng như tổ
chức một cuộc rước kiệu nhân dịp
Năm Mới Âm Lịch. Năm nay cũng thế, từ
ngày 28 đến 28 tháng 02,hơn 10.000 tín hữu do 12 linh
mục và khoảng 50 nữ tu hướng dẫn đă
Chầu Thánh Thể ba ngày và sau đó là cuộc rước
kiệu Thánh Thể đồ sộ dài trên 2 cây số..
Trong thời gian rước kiệu, Phép Lành Thánh Thể
được ban ba lần. Tất cả mọi
người tham dự đều khẳng định
cảm thấy ḿnh được đổi mới tâm
hồn và nhiệt tâm truyền giáo. Địa phận Nam
Giang đón nhận Kitô-giáo vào năm 1791 nhờ các Cha Ḍng
Lazarist người Pháp. Năm 1870 vùng truyền giáo
được phê chuẩn với việc bổ nhiệm
Đức Cha Simeon Volontari làm Giám quả Tông Toà và
được nâng lên hàng giáo phận chính toà vào năm 1946,
năm thành lập Hàng Giáo Phẩm Trung Hoa. Hiện nay giáo
phận có 20.000 tín hữu, mấy chục linh mục,90
nữ tu và 13 nhà thờ được mở cho việc
thờ phượng,trong đó 6 nhà thờ có linh mục
cư ngụ. Nhà thờ chính toà được Đức
Cha Volontari xây năm 1875,hiện có 2.000 giáo dân.
HĂY
CỨU LẤY TÀI SẢN CỦA GIÁO HỘI KHỎI
BỊ CƯỚP BÓC
(AsiaNews 10.03) Trong lúc Quốc Hội đang
giới thiệu bản thảo Luật sỡ hữu
tư nhân, các thành viên của Đảng cùng với Hội
Công giáo Yêu nước đă chiếm lấy tài sản
của Giáo Hội. Ở Bắc Kinh, Bà Chen Maoju,một
cộng tác viên thân cận với giám mục yêu nước
Fu Tieshan c̣n thành lập cả một công ty đứng tên
bà.
Theo các số
liệu từ Trung Tâm Nghiên
Cứu Chúa Thánh Linh (Holy Spirit Study Center), th́ nguồn
lợi kiếm được một cách bất hợp
pháp từ các tài sản của Giáo Hội bị trưng
thu lên tới 130 tỷ nhân-dân tệ (khoảng 17 tỷ
USD). Những tài sản của Giáo Hội bị chính
phủ trưng thu trong thời Cách Mạng Văn Hoá đều được trả lại dưới
thời Đặng Tiểu B́nh. Theo luật pháp Trung
Quốc, tiếp theo sau việc tịch thu tạm thời
xảy ra trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hoá, các công
tŕnh xây cất của Giáo Hội,trường học,bệnh
viện, đại họ,thư viện,phải
được hoàn trả lại cho Giáo Hội Công giáo. Các
quy định về Tôn Giáo Vụ ra ngày 01.03.2005 tái
khẳng định nguyên tắc nầy. Quy định
số 30 viết:” Luật pháp bảo vệ đất
đai được sử dụng hợp pháp do các
cộng đồng tôn giáo và các nơi thờ phượng
của họ.Luật pháp bảo vệ quyền sở
hữu và quyền sử dụng hợp pháp nhà
cửa,cơ sở xây cất, các cấu trúc và tài sản
cũng như các nguồn lợi từ đó”.
PHỤ NỮ TRUNG QUỐC NGÀY CÀNG
GIỮ VAI TR̉ CHỦ CHỐT TRONG ĐỜI SỐNG GIÁO
HỘI
(FIDES 10.03) “Xin cám ơn các
Chị,các Mẹ và tất cả những người
phụ nữ có mặt hoặc vắng mặt. Xin cám
ơn v́ vai tṛ và đóng góp to lớn mà Quư Vị đă dâng
cho đời sống Giáo Hội và xă hội. Ngày nay Quư bà
,qúy chị ngày càng giữ vai tṛ chính yếu trong giáo
phận,trong các giáo xứ,trong các cộng đồng giáo
hội căn bản,nhất là trong các cộng đồng
ở trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn.
Giáo lư viên đầu tiên của tôi là một phụ
nữ,mẹ tôi”. Đó là lời một linh mục dân thánh
lễ trong giáo xứ Đấng Thánh Cứu Độ
ở Bắc Kinh vào ngày Quốc Tế Phụ Nữ. Ngài
nói:” cá nhân tôi không thể tưổng tượng cộng
đoàn của chúng tôi mà thiếu vắng các nữ tu. Làm
sao tôi có thể thu hái hoa trái rao giảng Phúc Âm? Các Chị
tích cực trong việc giảng dạy giáo lư,trong việc
từ thiện bác ái. Các bà đạo đức nhất
trong giáo xứ th́ tổ chức một nhóm truyền
giáo,một nhóm bác ái,một nhóm cầu nguyện. Họ
đi thăm người nghèo, nói chuyện với giới
trẻ, với thanh thiếu niên, phụ trách Trường
Chúa Nhật, dạy giáo lư trong mùa nghỉ hè…H́nh ảnh
của người phụ nữ từ nay thâm nhập vào
đời sống Giáo Hội. Thông thường họ luôn
là những người đáp ứng đầu tiên bất cứ nhu cầu nào
của Giáo Hội, động viên mọi người
họ quen biết cùng đóng góp…”.Ngài kết luận: trong
suốt chiều dài lịch sử tử v́ đạo
ở Trung Quốc, có rất nhiều phụ nữ đă
dâng hiến mạng sống v́ đức tin. Chỉ trong
thế kỷ XX thôi,cũng đă có hàng chục phụ
nữ tử v́ đạo”.
THỤY-ĐIỂN CÓ
THỂ THÀNH “THIÊN ĐƯỜNG CHO NẠO PHÁ THAI”
(ZENIT
12.03) Phản ứng với một đề xuất
của chính phủ nhằm cho phép các phụ nữ
ngoại quốc đi đến Thụy Điển
để nạo phá thai, vượt quá số tuần[
tuổi thai] giới hạn, các nhà hữu trách Kitô-giáo
đă yêu cầu Thụy Điển không trở thành “thiên
đường cho nạo phá thai”.Trước
sự kiện nầy, Đức Cha Anders
Arborelius,giám mục Công-giáo giáo phận Stockholm và Lănh
đạo Giáo Hội [Tin Lành] Ngũ Tuần
Sten-Gunnar Hedin, đă biểu thị
sự phản đối của các Ngài bằng việc
viết một lá thư trên một trong các nhật báo
đông người đọc nhất Thuỵ
Điển. Ông Goran Hagglund thuộc Đảng Dân
chủ Thiên Chúa Giáo,bênh vực đề nghị mở
những cơ sở y tế cho những phụ nữ
bị đặt dưới một luật lệ
giới hạn về việc nạo phá thai ở xứ
sở của họ.”Chúng tôi thấy ḿnh phải nhắn
nhủ các cử tri của chúng tôi không bỏ phiếu cho
Khối Liên Minh trong lần bầu cử năm 2010.
Bổn phận của chúng tôi, với tư cách là
Kitô-hữu,là bảo vệ tính chất bất khả xâm
phạm của sự sống con người”. Hai Ngài nói
thêm:”Với tư cách là Kitô-hữu,chúng tôi hết sức lo
âu nh́n thấy chính phủ đang soạn thảo một
dự luật như thế”.
CUỘC
GẶP GỠ GIỮA ĐỨC GIÁO HOÀNG BIỂN
ĐỨC XVI VÀ TỔNG THỐNG NGA PUTIN
(ZENIT 14.03) Một thông tư của văn ph́ng báo
chí Toà Thánh nhấn mạnh: Cuộc gặp gỡ diễn
ra ngày 13.03 tại Vatican trong một bầu khí “rất tích
cực”. Thông báo cũng chú ư đặc biệt đến
tương quan giữa Giáo Hội Công-giáo và Giáo Hội
Chính Thống. Toà Thánh và Liên Bang Nga không có quan hệ
ngoại giao cấp đại sứ và toà khâm sứ,
nhưng Toà Thánh duy tŕ ở Nga một phái đoàn
đặc mệnh được giao cho sứ thần Toà
Thánh Antonio Mennini. Đức giáo hoàng đă đón tiếp
tổng thống Liên Bang Nga ở Vatican. Ông Putin cũng
đă gặp gỡ hồng y Quốc Vụ Khanh Toà Thánh
Tarcisio Bertone và thư kư phụ trách Liên Hệ với các
Quốc Gia, Đức
Cha Dominique Mamberti, có sự hiện diện của Bộ
trưởng Ngoại giao Nga,Ngài Sergei Lavrov và các thành viên
khác của đoàn. Cả hai bên đều nêu ra “các vấn
đề của chủ nghĩa cực đoan và bất
bao dung, tạo nên những đe doạ nghiêm trọng
chống lại sự đồng tồn tại giữa
các nước,với việc nhấn mạnh sự
cần thiết phải ǵn giữ bảo vệ hoà b́nh và
tạo thuận lợi cho một giải pháp
được thương thuyết và mang tính hoà b́nh cho
các cuộc xung đột”.
Kết thúc cuộc
viếng thăm,tổng thống Nga đă dâng tặng
Đức Giaó Hoàng một bức tượng Thánh Nicolas
ở Myre (270 – 350), được hoạ theo trường
phái Palech.
CÔNG GIÁO HÀN QUỐC TĂNG TRONG CÁC
CỘNG ĐỒNG SỐNG XA XỨ (diaspora)
(FIDES 14.03) Con số tín hữu Công-giáo các
cộng đồng Hàn Quốc hiện diện trên toàn
thế giới đang tăng: theo thống kê do Uỷ Ban
giám mục về chăm sóc di dân và người lưu
động ngày 31.12.2006, con số tín hữu Công giáo Hàn
quốc đang sống và thực hành đạo ở ngoài
nước là hơn 150.000 (chiếm 2,5% trong tổng số
6,6 triệu người Hàn quốc sinh sống và làm
việc ở nước ngoài) với số tăng 8% so
với năm ngoái, với 4.5000 người mới
được rửa tội và hơn 2.000 dự ṭng.
Việc gia tăng nầy đă làm phát sinh nhu cầu,từ
phiá các giáo phận Hàn Quốc, phải gửi các linh
mục và tu sĩ để hỗ trợ tinh thần cho
các cộng đoàn. Giáo phận Pusan hiện có 27 linh mục
tản mác trong 8 quốc gia và các nữ tu Ḍng Các Chân
Phước Tử V́ Đạo Hàn quốc có tất
cả 27 chị ở ba quốc gia, trong khi rất đông
giáo dân thừa sai phục vụ ở khắp năm châu.
KHẲNG ĐỊNH KỶ LUẬT
ĐỐI VỚI SOBRINO (bổ sung tin
trên đây)
(CWNews 14.03) Cả Vatican lẫn Ḍng Tên đă
tái khẳng định rằng các biện pháp kỹ
luật đối với Cha Jon Sobrino, một người
tiêu biểu cầm đầu của thần học
giải phóng,sẽ được công bố vào thứ
năm ngày 15.03. Thông tri kỹ luật do Thánh Bỗ Tín Lư
Đức Tin ban hành sẽ nêu lên sự thiếu sót
khẳng định Thiên Tính của Đức Kitô. Thánh
Bộ đă xác định,sau một cuộc đối
thoại lâu giờ với vị linh mục Ḍng Tên sinh
ở Tây Ban Nha, rằng công tŕnh được xuất
bản của Sobrino không tương thích với Giáo
Huần Giáo Hội. Tin về việc thi hành kỹ luật
đối với Cha Sobrino được tờ thông tin
Tạy Ban Nha El Mundo (Thế
Giới) tung ra đầu tiên tuần trước. Cha
Sobrino trở thành nỗi tiếng v́ tác phẩm của Ngài
trong môi trường thần học giải phóng khi Ngài
giảng dạy ở San Salvador, tại đại học
Trung Mỹ. Thông tri cho biết Cha Sobriono phải ngưng
ngay việc phát hành các công tŕnh thần học và không
thể dạy ở đại học Công-giáo nếu
vẫn duy tŕ lập trường mà Vatican xem như mâu
thuẩn với tín lư Công-giáo. Cha Peter Hans Kolvenbach, Bề
Trên Tổng Quyền Ḍng Tên và Cha Federico Lombardi, giám
đốc văn pḥng báo chí Vatican, thông báo cho các phóng viên
rằng việc công bố sẽ đến trong tuần
nầy.
LINH MỤC BẢO VỆ SỰ SỐNG MÂU
THUẪN VỚI PHÁT THANH VIÊN HĂNG TIN FOX.
(CWNews 14.03) Một linh mục rất nỗi
tiếng về Bảo Vệ Sự Sống đă công khai
đụng chạm với người phát thanh
chương tŕnh đối thoại truyền h́nh v́
người nầy đă ủng hộ ngừa thai. Cha
Thomas Euteneuer,chủ tịch Sự Sống Con Người
Quốc Tế chỉ trích mạnh mẽ cá nhân Sean Hannity
của Hăng Tin Fox v́ sự tán thành việc kiểm soát sinh
đẻ. Đáp lại,Hannity mời vị linh mục xuất
hiện trong chương tŕnh truyền h́nh của ông,
chất vấn v́ sao Cha Euteneuer có quyền chỉ trích ông
ta. Kết thúc đoạn truyền h́nh,Cha Euteneuer nói
rằng bao lâu Hannity vẫn giữ lập trường công
khai ủng hộ việc ngừa thai, ông ta sẽ không
được rước lễ.
GIÁM MỤC TÔ-CÁCH-LAN BÁC BỎ ĐẠO
ĐỨC CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG
(CWNews 14.03) Đức Cha Joseph Divine giáo
phận Motherwell, ở Tô Cách Lan, đă nói rằng Ngài
sẽ không bỏ phiếu cho các ứng cử viên
Đảng Lao Động. Vị giám mục nói Ngài đă
tiết lộ các kế hoạch bỏ phiếu của
Ngài lần đầu tiên. Ngài sẽ không bảo các tín
hữu của Ngài phải bỏ phiếu thế nào,
nhưng nếu người Công-giáo lựa chọn theo
gương của Ngài, th́ như thế là đủ.
Đức Cha Divine nói rằng Đảng Lao Động -
đảng lớn nhất ở quốc hội Tô-Cách-Lan –
đă đưa ra một “hệ thống đạo
đức” không có các nguyên tắc Kitô-giáo”.Ngài nêu ra sự
ủng hộ của đảng lao Động đối
với hôn phối đồng tính và việc người
đồng tính nhận con nuôi.
ĐỨC GIÁO HOÀNG GẶP TỔNG
THỐNG BUSH
(CWNews 13.03) Tổng
thống Mỹ George W.Bush sẽ triều yết
Đức Giáo Hoàng Biển-Đức tại Vatican vào
đầu tháng sáu. Trong một dịp công du Châu Âu
để tham dự cuộc họp thượng
đỉnh G.8 diễn ra ở Đức từ ngày 5 – 8
tháng sáu, ông sẽ dừng lại ở Rôma để
triều yết Đức Thánh Cha và gặp thủ
tướng Romano Prodi. Vị nguyên thủ nước
Mỹ sẽ gặp Đức Giáo Hoàng Biển Đức
XVI lần đầu kể từ ngày Đức giáo tông
được bầu lên vào tháng 4.2005. Tổng thống
Bush (và phu nhân cùng ngoại trưởng Condoleeza Rice.BTGH)
đă dự lễ an táng Đức Cố Giáo Hoàng
Gioan-Phaolô II, nhưng không tham dự lễ đăng quang
của Đức Giáo Hoàng Biển Đức vào cuối
tháng đó, mà ông cử phó tổng thống Dick Cheney và
thống đốc Bang Florida Jeb Bush,em ông,dẫn
đầu phái đoàn đến Vatican tham dự.
HOA KỲ TRAO CHO ĐẠI DIỆN
VATICAN Ở LIÊN HIỆP QUỐC CÁC ĐẶC QUYỀN.
(AP; Herald Tribune 12.03)
Lần đầu tiên, các nhà ngoại giao Vatican đến
làm việc tại Liên Hiệp Quốc vào ngày thứ Năm
dưới các điều kiện tương tự và
những đặc quyền giống như các nhà ngoại
giao khác ở đó.
Tổng thống Bush đă kư một sắc
lệnh có tính pháp lư vào thứ Hai mở rộng cho phái
bộ quan sát viên thường trực của Vatican tại
Liên Hiệp Quốc ở New York “đặc quyền và
miễn trừ vốn dành cho các phái đoàn ngoại giao
của các quốc gia thành viên LHQ”. Cho tới nay,Vatican
vẫn duy tŕ quy chế quan sát biên thường trực,
được tham dự thảo luận và tranh luận,cũng
như tham luận về mọi vấn đề, nhưng
không bỏ phiếu.
KẾT THÚC
ĐIỀU TRA CẤP GIÁO PHẬN VỀ ĐỜI
SỐNG,NHÂN ĐỨC VÀ DANH TIẾNG THÁNH THIỆN CỦA
ĐỨC CỐ GIÁO HOÀNG GIOAN-PHAOLÔ II TẠI VƯƠNG
CUNG THÁNH ĐƯỜNG THÁNH GIOAN LATÊRANÔ VÀO THỨ HAI,NGÀY
02.04. đă khởi đầu tại chính nơi nầy vào
ngày 28.06.2005.
HĂY ĐẾN
VỚI THÁNH GIUSE
Xưa nay chưa
có ai chạy đến với Thánh Giuse,mà Người
từ chối không nhận lời.
Trong “mục
lục” địa phận Quinhơn, kinh kính Thánh Giuse có
câu:”…Người có thần
thế trước mặt Đức Chúa Trời, đến
nỗi người ta có thể nói: trên trời
Người ra lệnh hơn là van xin..”. Những ư,lời tung hô Thánh Cả Giuse nầy hết
sức ư nghĩa và nói lên tâm t́nh yêu mến,tin cậy
của tín hữu Việt-Nam nơi Đấng Quan Thầy
mà Giáo Hội Việt-Nam đă chọn ngay từ
đầu. V́ thế, để thêm ḷng mộ mến Cha Thánh, kính
xin giới thiệu hai bài viết của Linh mục Giuse
Hoàng Minh Thắng và Châu Thủy.
ĐẾN VỚI
THÁNH CẢ GIUSE
YÊU
MẾN CHA THÁNH GIUSE VÀ NHỜ NGƯỜI
TRỞ
NÊN MỘT GIÊSU KHÁC CHO MẸ MARIA
Càng hiểu biết quyền năng và
thế đứng của Cha Thánh Giuse trong cuộc sống
ḷng tin Kitô, chúng ta lại càng nhận ra rằng yêu mến
Cha Thánh Giuse là một ơn đặc biệt. Và mọi
ơn cần thiết cho ơn gọi kitô hay cho cuộc
sống, chúng ta đều có thể cầu xin nơi Ngài.
Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse cũng
chỉ chờ có thế. V́ vậy cứ cầu xin và
năn nỉ, chúng ta sẽ được các ơn cần
thiết đẹp ư Chúa. Nhưng muốn xin ơn ǵ chúng
ta không được hoài nghi. Hoài nghi là chúng ta sẽ làm
nhục cho Chúa Giêsu, Mẹ Maria nhiều lắm đấy!
V́ không lẽ Chúa Giêsu và Mẹ Maria lại không muốn chúng
ta yêu kính Cha Thánh Giuse sao?
Thật
thế, Thiên Chúa và Mẹ Maria rất thích thấy Cha Thánh
Giuse được mọi người yêu mến, cậy
tin, sùng ái. Người ta phụng sự, yêu mến, tôn kính
và tỏ ḷng vâng phục Thiên Chúa trong việc kính yêu, sùng
mến Cha Thánh Giuse. Đức Trinh Thê Maria Vô Nhiễm
cũng vô cùng thỏa ḷng sung sướng, v́ Đức Phu
Quân của Người được trọng v́, mến
chuộng, qúy yêu. Người cảm thấy hạnh phúc
trào tràn như chính Người được yêu kính,
cậy tin, chuộng ái vậy. H́nh ảnh Cha Thánh Giuse
bồng Chúa Giêsu Hài Nhi tuy đơn bạch, tầm
thường và giản phác, khiêm hạ, nhưng nó nói lên
một t́nh yêu sâu xa thánh thiện vô biên của Thiên Chúa Toàn
Năng Vĩnh Cửu. V́ Cha Thánh đă là một dụng
cụ tốt đẹp, mềm dẻo, ngoan ngùy, sẵn
sàng để Thiên Chúa tự do sử dụng mà kiện
toàn công việc T́nh Yêu vĩ đại của Ngài. Và Thiên
Chúa muốn từng người trong chúng ta tiếp tục
sứ mệnh cao cả của Cha Thánh Giuse bằng tất
cả kho thiện chí, nguồn tự do và biển t́nh yêu hiếu
kính, hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa.
Vậy, theo gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria chúng ta
hăy cậy tin vững vàng kính yêu Cha Thánh Giuse hết sức,
hăy tôn trọng và vâng lời Ngài...Nhất là hăy bắt
chước Ngài hoàn toàn tuyệt đối phó thác ḿnh cùng
với những người thân yêu cho thánh ư quan pḥng yêu
thương đời đời của Thiên Chúa; luôn luôn
kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, và quyết
chí tận lực họa lại hết những tâm t́nh kính
ái đầy hiếu thảo của Ngài với Ba Ngôi Thiên
Chúa cho thật đúng hết sức có thể, và nhờ
Cha Thánh Giuse chỉ bảo, chúng ta sẽ trở nên cho
Mẹ một Giêsu khác.
Để
mọi công việc khó khăn nặng nề của chúng ta
đáng được Chúa chúc phúc và đổ xuống tràn
trề ơn lành, chúng ta hăy khiêm tốn chạy đến
nương tựa vào quyền thế vô song của Thánh
Giuse, theo gương Mẹ và Chúa Giêsu Thơ ấu tại
Nagiarét, cũng như hăy noi gương vị Cha Chung
của Giáo Hội nhất là Đức Thánh Cha Piô IX
Đấng đă đặt Cha Thánh làm Quan Thầy, làm
Đấng Bảo Hộ toàn thể Giáo Hội. Hăy cố
gắng tiến sâu vào sự che chở của Cha Thánh Giuse
bằng tấm ḷng tin tưởng ngây thơ, chúng ta sẽ
nghiệm thấy cánh tay Ngài nâng đỡ. Đặc
biệt nếu các bạn là những người mới
bước vào đời sống thánh hiến, hăy ư
thức được thân phận mỏng gịn bé bỏng
của ḿnh. V́ các bạn c̣n mới mẻ lắm, ngây
khờ qúa, non nớt nhiều trong đường t́nh, trên
bàn thờ tế hiến và trong sứ mệnh làm cha làm
mẹ thiêng liêng. V́ thế nên hăy ch́m sâu trong ḷng
thương xót của Mẹ Maria, đặc biệt
được thể hiện trong trong sự ngoan thảo
nương theo bàn tay hướng dẫn đầy
dịu ngọt yêu thương và khôn ngoan của các vị
có trách nhiệm. Nhưng nhất là bởi v́ con
đường t́nh yêu sát tế của các bạn sẽ
c̣n gặp nhiều chông gai trắc trở và đầy
kẻ thù độc ác...nên hăy đặc biệt tín thác
nơi Cha Thánh Giuse. Hăy noi gương sống của Cha
Thánh: khiêm tốn, nhịn nhục, trong trắng, vâng
phục, ưa ẩn khuất và chăm chỉ làm việc,
và hăy tỏ ra nhanh nhẹn giúp đáp Cha Thánh trong sứ
mệnh T́nh Yêu Cứu Rỗi. Càng nh́n thấy nơi các
bạn h́nh ảnh của Cha Thánh Giuse, Chúa Giêsu và Mẹ
Maria càng hài ḷng sung sướng và càng yêu các bạn tha thiết,
càng sẵn sàng tuôn đổ trên cuộc sống của các
bạn và những người thân yêu muôn vàn ân phúc.
Ôi,
phải chi các bạn biết khi mạnh mẽ sùng kính,
cậy tin nơi Cha Thánh Giuse, cuộc đời thánh
hiến của các bạn sẽ được Cha Thánh canh
giữ cẩn mật và đầy cương quyết
khôn ngoan như thế nào! Hăy quay hướng đài hoa trinh
khiết bé bỏng cuộc đời thánh hiến của
các bạn về ”Mặt Trời Riêng”, để hấng
lấy ánh sáng êm dịu ấm áp, và dành trọn hương
thơm t́nh ái của các bạn cho Giêsu, Đức Vua Yêu
Thơ Bé.
V́
thế, bất cứ khi gặp một khó khăn nào,
mỗi người trong chúng ta hăy nũng nịu chạy
đến níu kéo Cha Thánh Giuse, cầu cứu Cha Thánh giúp
đỡ. Lời cầu và ḷng tín nhiệm của chúng ta
sẽ không vô ích đâu! Chúng ta an ủi Cha Thánh thật
nhiều, khi chúng ta tin yêu phó thác tuyệt đối,
mặc cho sự định đoạt yêu thương
của Thiên Chúa Quan Pḥng. Tuy nhiên, để khỏi sa vào ḍ
lưới của kẻ thù, hăy luôn tỉnh thức,
cầu nguyện và kính yêu tận t́nh tín thác, nương
nhờ cách vô điều kiện vào Cha Thánh Giuse. Nhờ
sự đơn thành thơ ngây yêu kính đối với
Ngài, Thiên Chúa sẽ ưu ái tiếp cứu chúng ta kịp
thời trong những cơn nguy khốn, quẫn bách
bất ngờ, bởi v́ Thiên Chúa đă đặt Cha Thánh
Giuse làm sứ thần bênh đỡ các tâm hồn thơ bé
trên con đường ”Thơ Ấu Thiêng Liêng”.
Đúng
thế, xưa kia bên máng cỏ Chúa Giêsu Hài Nhi Thơ Bé, cùng
với Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đầy phúc
đức và Thánh Thần Ngôi Ba Thiên Chúa, cùng toàn thể
Chư Thần Thánh, Cha Thánh Giuse đă kính cẩn cung kính
thờ lậy Thượng Ư Quyền Năng thánh hảo
nhiệm mầu, ngập tràn yêu thương của Ba Ngôi
Thiên Chúa. Cha Thánh là tôi tớ khiêm hèn tín trung của T́nh Yêu
Nhân Hậu Vĩnh cửu của Thiên Chúa Ba Ngôi, nên Ngài
đă lệnh truyền đặc phái Người lên
đường hướng dẫn yêu thương,
bảo bọc cho các ”Bé Thơ măng non” của Thiên
Đàng, cũng như xưa khi Chúa Giêsu Thơ Bé bắt
đầu đời sống trên trần gian đă
phải đương đầu với bao nghịch
cảnh đau thương, đầy gai góc cheo leo, th́
đă có Cha Thánh là Thần Sứ bênh đỡ, bảo
vệ Người, nhất là trong cuộc lẩn trốn
qua Ai Cập. Ngày nay, Cha Thánh cũng được Chúa Ba
Ngôi và Mẹ Maria Chí Thánh của Ngôi Lời Nhập Thể,
đặc phái đến để bênh đỡ các tâm
hồn nhỏ xíu trên đường Thơ ấu Thiêng
Liêng, cho khỏi sự nguy hiểm đầy đe
dọa, bách hại, khủng khiếp và vô cùng ác hại
của thần tối tăm đang dốc toàn lực vây
hăm, lùng kiếm để vồ bắt, cấu xé các linh
hồn tận hiến, cùng ǵn giữ các tâm hồn ngây
thơ trong trắng của họ khỏi làn khí tanh hôi
đầy xú uế dơ bẩn ám độc.
Để có thể tiến nhanh trên con
đường Thơ Ấu Thiêng Liêng, chúng ta phải
thật ngoan hiền để cho Cha Thánh Giuse đặt chúng
ta lên chiếc xà cao vạn năng kỳ diệu là ”Giêsu Hài
Đồng Ấu Thơ Vĩnh Cửu”, để tất
cả chúng ta sẽ được nâng nhẹ và tung bay theo
suối nguồn Ơn Thánh mănh liệt của Đấng
vô biên bất tận. Chiếc đà cao đó
được coi như lưng cao ráo, êm ái và vững
chắc của con lừa đă nâng đỡ Mẹ Chúa
Trời và Chúa Giêsu Ấu Thơ trên đường lánh
nạn. Và suối nguồn Ơn Thánh mănh liệt ám chỉ
sức mạnh phi thường của Chúa Thánh Thần. Khi
chúng ta nằm trên cánh tay và trong cung ḷng dịu hiền
của Mẹ Chúa Trời, th́ luôn có Cha Thánh Giuse bên cạnh.
Cha Thánh cầm tay nựng yêu, nhẹ tay đỡ nâng, ôm
gh́, xiết chặt chúng ta trong ṿng tay mạnh mẽ,
nhiệt nồng và âu yếm, để tất cả chúng
ta được an toàn trong đêm tối, mưa gào, gío
mạnh...nhất là để ngăn ngừa, chặn
giữ chúng ta khỏi nhiều tai họa bất thần
ập tới trên đường dẫn về Nhà Cha
Cả. Điều này không có nghĩa là Cha Thánh Giuse tận
diệt mọi đau khổ, khó khăn, cực mệt và
bi thiết....trong đời sống, nhưng có nghĩa là
nếu chúng ta thực tâm muốn trở nên một ”Ấu
Nhi Măng Non” của Nước Trời Vĩnh Cửu,
th́ chúng ta sẽ được một cuộc sống
đầy an b́nh nội tâm, an vui thỏa thoải mái trong
ơn thánh tràn đầy...sẽ chạy nhanh mà không run
rẩy, sẽ đi mà không bao giờ ngă qụy...sẽ
được sự phù trợ vô biên kịp thời và múc
được nghị lực tại suối nguồn vô
tận.
Trong
Thiên Chúa, Cha Thánh Giuse được nh́n thấy tất
cả những trở ngại, những hoàn cảnh,
thời gian, địa thế, nhân vật, tính t́nh, sở
thích, ân sủng, thành công, thất bại vv...của
từng người, và như thế Ngài sẽ đến
đúng thời đă được linh ứng, để
can thiệp, tăng gia mức độ yêu mến, cậy
trông tín thác thơ thảo của chúng ta, để
hướng đưa chúng ta đi đúng con
đường phải theo như ư Chúa đă yêu
thương ước định và đ̣i buộc chúng ta
từ ngàn đời. Cha Thánh Giuse hằng ấp ủ ôm
ẵm chúng ta trong cánh tay hiền phụ của Ngài. Nếu
chúng ta trung thành và đơn sơ bé nhỏ tin tưởng
nơi Cha Thánh, mà các vị hữu trách là đại
điện, th́ chúng ta sẽ được Cha Thánh
bồng ẵm và êm đặt chúng ta vào sâu tít trong nội
cung yêu thương dịu ngọt của Đức Maria,
Trinh Nữ Vô Nhiễm, bạn rất yêu dấu của Cha
Thánh. Sau cùng, nếu muốn cho t́nh yêu Chúa Giêsu
được tăng triển, chúng ta phải cố
gắng yêu hai Đấng, mà Chúa yêu tha thiết, là chính Cha
Thánh Giuse và Mẹ Maria. V́ làm đẹp ḷng Người Chúa
yêu, th́ Chúa c̣n thích hơn là làm cho chính Chúa.
Linh Mục
Giuse Hoàng-Minh-Thắng.
Ngày 23.03.2005,25
năm sau ngày ĐGM OSCAR ARNULFO ROMERO bị ám sát,hồ
sơ phong chân phước của Đức Tổng GM
San Salvador có bước ngoặt tích cực: đó là
lời tuyên bố của ĐGM Vincenzo Paglia,GM Terni, thụ
lư án phong thánh nầy,với báo giới. Tin tức nầy
đă được hănh thông tấn thừa sai Ư Misna
khẳng định,từ những nguồn của Công
Đồng Thánh Egidio. Hồ sơ được dâng
năm 1997 ở Vatican, chịu sự kiểm tra thần
học của Bộ Tín Lư Đức Tin và đang
bước vào giai đoạn cuối. ĐGM Paglia nói:”
ĐGM Romero không phải là một giám mục cách mạng,
mà là một Người của Giáo Hội, của Phúc Âm
và như vậy, là Giám Mục của những
người nghèo”.
Để tưởng nhớ Vị GM đă bị
đội hành quyết giết hại khi đang dâng Thánh
Lễ,người ta sẽ tổ chức những
hội nghị trong hầm mộ nhà thờ, nơi
ĐGM Romero được mai táng, đồng thời
một hội nghị thần học quốc tế
tại Đại Học Công-giáo Châu Mỹ. Ngày 2/4/2005,
một đài kỷ niệm bằng đồng, tác
phẩm của Paolo Borghi, được làm phép và
đặt trên mộ Ngài. |
Ư NGHĨA CỦA
ĐAU KHỔ.
Trong các môi trường Kitô-giáo,những
học thuyết đẹp đẽ về “ư nghĩa”
của đau khổ được đưa ra có
phần hơi dễ dăi. Những người đang
chịu đau khổ không thể chấp nhận những
bài diễn văn nầy. Nếu muốn nói về đau
khổ - Maurice Bellet của
báo Croire Aujourd’hui giải thích – th́ phải nói “với
một ḷng kính trọng vô cùng”.
Có một hành
vi trơ trẻn khi bàn luận về đau khổ không
thể chấp nhận được. Sự trơ
trẻn nầy, đáng buồn thay, người ta gặp
thấy nơi cả các Kitô-hữu,khi họ cho rằng
trong đức tin của ḿnh họ có những ǵ
đủ để “trả lời” cho vấn nạn
nầy. Nhưng đau khổ không phải là một
vấn nạn. Sự đau khổ đang chịu
đựng.Và những người trong cuộc, tôi tin
rằng điều đầu tiên họ trông đợi là
được người ta giúp làm nhẹ,chứ không
phải là t́m giải thích cắt nghĩa. Chúa Giêsu,khi
gặp các bệnh nhân,liền chữa lành họ;
Người không thao thao bất tuyệt về ư nghĩa
của bệnh tật với họ. Vậy nếu
người ta dám nói về đau khổ,th́ phải nói
với hết ḷng tôn kính. Người ta chỉ có thể
được cảm thông, nếu trong những ǵ
người ta nói,có thể giúp cho một ai đó thấy
được nâng đỡ. Nhưng như vậy là quá
kỳ vọng.
Sự đau
khổ là một khía cạnh của đời sống con
người gắn bó với chính sự sống. Bệnh
tật,chết chóc, đói khát, bất hoà,hấp hối…và
càng được dấu diếm,th́ càng tàn nhẫn.
Sự cô đơn. Thiếu t́nh yêu thương. Cảm
tưởng bế tắc. Sự chán nản khủng
khiếp. Những đau đớn liên miên đáng buồn.
Và dù vậy., có thay đổI, ít là trong cách thế mà nó
được nh́n nhận ngày nay. Tôi nh́n thấy hai
điểm trong việc nầy.
Trước
hết sự đau khổ hết c̣n câm nín nữa.
Điều tự nó đ̣i buộc và phổ biến ngày
một hơn, đó là khả năng được trao
cho người đang chịu đau khổ nói lên
được đau khổ của họ,nghĩa là không
bị nhốt kín như trong bốn bức tường
trong nó. Vai tṛ chủ yếu của lắng nghe.
Không c̣n nghi
ngờ nữa,việc lắng nghe phải có
được sự cảm thông, song không phải là
thương hại: nó nh́n nhận tha nhân, dù đau đớn, qué
quặt,bất lực,dị dạng đến đâu,
như là chủ thể. Nó đem cho tha nhân cái phẩm giá
đầu tiên nầy cho phép tha nhân đối diện
vớI khổ đau của họ, thay v́ ch́m ngập bên
trong.
PHẢI
ĐẤU TRANH CHỐNG LẠI ĐAU KHỔ
Chúng ta nối kết
với chủ đề thứ hai: đau khổ
cần phải
được đấu tranh chống lại, một cách
tuyệt đối. Có một quyết tâm chăm sóc và
quyết tâm chăm sóc để chữa trị, song cũng
có một ư chí,ngày càng tỏ ra có hiệu quả, đó là
loại bỏ đau khổ: bây giờ có những thầy
thuốc chuyên chữa đau đớn và người ta
biết rơ sự phát triển của các săn sóc chữa
trị giảm đau.
Vấn đề đă vượt quá lĩnh vực
y tế. Người ta muốn chấm dứt các đau
khổ của chiến tranh, của sự làm nhục, và
tất nhiên của nạn đói, của lao động quá
nặng nề…hoặc của nạn thất nghiệp. Chiến tranh chống lại
đau khổ dưới tất cả mọi h́nh thức
của nó.
Nhưng điều cũng
bị loại trừ,là mọi ngôn ngữ (hoặc
thực hành) tỏ ra như là sự chấp nhận
đau khổ. Đă hẳn, phải biết chấp
nhận những ǵ người ta không cởi bỏ đi
được; nhưng thái độ chấp nhận
tức th́ tỏ ra đáng chê trách và bất công. Ví dụ,
đặc biệt là nơi các Kitô-hữu, chủ
đề sự đau khổ cứu chuộc, sự
đồng hoá đau khổ với Đấng Cứu Thế,
vác thập giá ḿnh,v…v... Ngôn ngữ ấy có thể đi
đến chỗ lấy làm vui sướng về đau
khổ, nh́n thấy ở đau khổ dấu hiệu
của việc Chúa đặc biệt yêu thương - bởi v́ Thiên Chúa đă dẫn
Con Một Người đến thập giá. “Và người ta tự
nhủ:”Chúa phải yêu thương ta lắm th́ mới
thử thách ta nhiều nhường ấy”.
Đó là một ngôn ngữ “không
thể thông qua được nữa’, hoặc là khó
cảm thông, kể cả nơi các Kitô-hữu.
Người ta muốn đau khổ phải chấm
dứt và nếu Thiên Chúa cho , như người ta vẫn
nói, điều ấy không chấm dứt chút nào, th́ đó
không c̣n phải là một lời an ủi hoặc chí ít
một lư do để đầu hàng, mà đúng hơn
đó là nguyên do của một sự khó khăn về
tương quan với Thiên Chúa.
PHẦN
BÓNG TỐI CỦA NHỮNG G̀ ĐANG SỐNG .
Dù vậy, đau khổ vẫn
làm một phần trong đời sống con người.
Việc bàn luận về ư nghĩa của đau khổ
càng nghi ngờ bao nhiêu, càng thấy là sự từ chối
đau khổ đơn thuần và có hệ thống
chắc chắn dẫn tới ngơ cụt bấy nhiêu. Không
thể có hiện hữu con người mà không có sự hy
sinh từ bỏ, kể cả sự “cắt xén” đau
đớn, như lời của Francoise Dolto, khi gợi lên
những đoạn nầy rằng cái nhỏ mọn
của con người phải làm để đến
được với chính nó.
Và ai có thể không biết
rằng không có công tŕnh, không có sáng tạo đích thức
nào mà không có đau đớn cưu mang? Người
phụ nữ có thể sinh con không đau. Nhưng
người mẹ nào, phụ huynh nào đă có thể nuôi
dạy những đứa con mà chẳng có những lúc
những đứa con nầy nên đau khổ cho họ? Không có tương quan con
nguời, kể cả tương quan t́nh thương yêu,
- nhất là t́nh yêu- mà có
thể tránh được những căng thẳng,
những ngộ nhận và cả những tan nát tâm can.
Trong xă hội chúng ta, quả là
có một khuynh hướng loại bỏ chính điều
đó. Nhưng, một cách nhgịch lư, tất cả
những ai cật lực chống lại đau khổ, -
những người chăm sóc, những người
điều trị, những người dấn thân trong
cuộc chiến đấu chống lại bất công,
chiến tranh,v..v.. đều biết sự hiện
diện của những đau khổ nầy. Và trong chính
cuộc đời của họ.
Khởi đầu là đau khổ v́ không thể làm
ǵ hơn [ trong cuộc đấu tranh chống đau
khổ]. Nhưng, nếu tôi có thể nói, th́ đó là
những đau khổ ở ngay bên trong cuộc sống;
chúng như một BÓNG TỐI không thể tránh thoát
được của những ǵ có sự sống. Vậy
mà có những đau khổ thuộc bản chất khác,
chỉ nhằm hủy diệt, chỉ là những thất
bại quy mô, chỉ tàn phá đời sống. Tôi mô tả chúng là những
thứ không thể giải quyết được:
bởi v́ không có lốI thoát, bởI v́ người ta
bị lún sâu trong cái khôn thể đạt được,
trong cái không thể tránh né được.
NHỮNG
VÙNG MÀ LỜI NÓI ĐĂ CHẾT.
Không phải chỉ có cái nầy
hoặc cái nọ, v́ luôn trong tương quan với kẻ
nhào nặn t́nh cách con người, lịch sử, sự
tin chắc hoặc cảnh khốn cùng nội tâm của nó
: cũng sự thất bại ấy đối với
người nầy là một giai đoạn, c̣n có thể
là một cái làm đà nhún, th́ đối với
người khác lại là một sự lao xuống trong
bóng tối không đáy.
Kẻ nào có chút kinh nghiệm,
sẽ biết “nhà trị liệu” có thể bất lực
đến độ nào: việc của mỗi
người là ra được khỏi vực sâu, nếu
bị rơi vào đó và không ai có thể phán xét hoặc
quyết định thay cho người khác ở
đây. Hơn nữa, có những t́nh huống đầy tính
bạo lực (giết chóc, những nỗi kinh hoàng
nội chiến, tra tấn, nạm đói,…) đến
nỗi người ta tự hỏi tại sao có những
con người có thể “chịu đựng, cầm
cự’” với những điều ấy. Họ đáng
để chúng ta thán phục. Nhưng những người
khác th́ sao? Tất cả nhữ ngườI, ngay cả khi
được lôi ra khỏI đó, vẫn giữ măi
một vết thương sâu thẳm đến mức
cuối cùng bóng tối đă chiến thắng, như là
ngườI tu sĩ Bra-xin nọ, bị tra tấn trong
xứ sở ḿnh, tỵ nạn tại Pháp giữa các huynh
đệ trong Ḍng - và tự
sát? Ai dám nói một lời nào
về ông ta? Ai có thể nói bất cứ điều ǵ
về các trại hủy diệt?
Đó là vùng của sự im lặng, của sự im
lặng bao la. Ở đây, lời nói đă chết.
Chính v́ vậy việc cho
rằng cái phần c̣n lại có sức kháng cự với
đau khổ - mà sự
chăm lo và đấu tranh để có công bằng không
với tớI được – có thể là chỗ mà
cuối cùng ta nghe được một lời dám nói ra ư
nghĩa của điều mà chúng ta chẳng có quyền
lực trên nó. Ư tưởng ấy có nguy cơ tỏ ra
đặc biệt không thể chịu đựng nỗi
đối với những người đương
thời với chúng ta.
ĐỨC
TIN, NƠI BỊ THỬ THÁCH.
Và nếu bây giờ với
tư cách là Kitô-hữu, là ngườI có đức tin, tôi
tự đặt ḿnh vào trong đó, th́ tôi sẽ nói ǵ? Tôi
sẽ làm ǵ? Bất luận thế nào cũng có một
điều ǵ đó tôi không nên làm: đó là nói và hành
động như thể chúng ta không hề ở đó,
như thể việc lập lại ngôn ngữ Kitô-giáo
đă được coi là kinh điển (có thật
vậy không?) sẽ miễn cho chúng ta khỏi phải
cảm nhận những ǵ mà người thời nay
cảm nhận. NgườI ta sẽ nói đó là mở ra
một viễn cảnh cam go, v́ đức tin, thay v́ ngay
tức khắc là niềm an ủi, th́ lạI trở thành
chỗ bị thử thách. Nhưng có ai đă nói đức
tin không chịu khổ đau chứ?
(BTGH chuyển
ngữ)
T́m hiểu Kinh
Thánh
ĐỀ 4
CHIẾN
LƯỢC TRUYỀN GIÁO CỦA THÁNH PHAOLÔ
Khi đọc các thư của thánh Phaolô và
sách Tông Đồ Công Vụ chúng ta có thể thu thập
một số dữ kiện cho phép phác họa ra chiến
thuật truyền giáo của thánh Phaolô.
Trước hết công tác rao truyền Tin
Mừng đă chỉ được thực hiện trong
các thành phố. Thật ra, các vị truyền giáo cũng
không thể làm khác, v́ thời đó hệ thống
đường lộ của đế quốc Roma
chỉ nối liền các thành phố của đế
quốc với nhau. Từ thủ đô Roma của
đế quốc, phát xuất các con lộ chính ngang dọc
nước Italia chạy sang cho tới Gallia tức
nước Pháp, Germania tức nước Đức,
rồi Macedonia bên Hy lạp, ṿng sang vùng Tiểu Á, Siri,
Libăng rồi xuống Palestine, và Ai Cập. Ngoài hệ
thống đường bộ là hệ thống
đường biển. Các tầu chiến và tầu buôn
của đế quốc đi lại quanh năm ngang
dọc Địa Trung Hải, chỉ ngoại trừ
mấy tháng mùa đông là không thể dùng đường
biển, v́ có mưa băo. Ngoài ra các vị truyền giáo
chỉ có thể rao giảng bằng tiếng Hy lạp là
ngôn ngữ thông dụng trong các thành phố của
đế quốc hồi đó. V́ thế chúng ta thấy thánh
Phaolô rao truyền Tin Mừng tại Damasco, Tarse, Antiokia bên
Siri và các thành phố đông nam vùng Tiểu Á, tức Thổ
Nhĩ Kỳ ngày nay, cũng như tại các thành phố
trung bắc vùng Galazia. Bên châu Âu thánh Phaolô rao truyền Tin
Mừng tại các thành phố Hy lạp như Philiphê,
Thêxalônica, Bêrêa, Athènes, Côrintô và sau cùng là tại Êphêxô
thuộc tỉnh hạt Á châu của đế quốc. Thánh
Phaolô chọn một thành phố lớn làm cứ
điểm chính, rồi từ đó rao truyền Tin
Mừng cho các vùng chung quanh. Điển h́nh là trường
hợp Côrintô, nơi thánh nhân đă lưu lại truyền
giáo từ năm 49 tới 52, và đặc biệt là Êphêxô
trong chuyến truyền giáo thứ hai giữa các năm 53
tới 57.
Việc len lỏi và hội nhập vào
cuộc sống tại các thành phố này đă
được dễ dàng chính là nhờ có các cộng
đoàn do thái sinh sống tại đây. Nghĩa là thánh
Phaolô đă sống giữa các người đồng
hương trong cộng đoàn do thái hải ngoại, và
rao giảng Tin Mừng cho họ trước tiên. Trong các
hội đường do thái thánh Phaolô đă gặp
rất nhiều người ngoại giáo có thiện
cảm hay tân tín đồ Do thái và họ đă là những
người đầu tiên theo Kitô giáo. Trái lại, các
người đồng hương tức các tín hữu do
thái càng ngày càng thù nghịch thánh Phaolô. Họ tố cáo Phaolô
là người phản bội Do thái giáo, rao giảng ngày cáo
chung của Do thái giáo và của các truyền thống do thái.
Thái độ thù nghịch của các người
đồng hương khiến cho sứ mệnh
truyền giáo của thánh Phaolô ngày càng mang đường
nét rơ ràng: rời bỏ hội đường do thái
để dấn thân rao giảng Tin Mừng cứu
độ cho các anh chị em không do thái. Trong sách Công Vụ
chương 19,8-10 thánh sử Luca cho chúng ta biết tại
Êphêxô sau khi giảng dậy trong hội đường do
thái ba tháng, thánh Phaolô đă chọn trường học
của ông Tirannos làm nơi giảng dậy. Trong hai năm
liên tiếp thánh nhân đă dùng pḥng ốc trường
học này để rao truyền Tin Mừng cho các anh
chị em ngoại giáo, từ giờ thứ 5 tới
giờ thứ 10, tức từ 11 giờ sáng cho tới 16
giờ chiều, là giờ trường ốc rảnh
rỗi, v́ dân chúng ăn trưa và nghỉ trưa. Trong sách
Công Vụ thánh Luca lập đi lập lại là Phaolô rao
giảng cho dân do thái trước, nhưng sau khi gặp
sự khước từ và chống đối của
họ, thánh nhân quay ra rao giảng cho người ngoài do thái
giáo. Tuy đây là một lược đồ thần
học nhằm chứng minh cho thấy nếu người
do thái đă không tin nhận Tin Mừng là do lỗi của
họ, chứ không phải do lỗi của thánh Phaolô,
khẳng định này phản ánh sự thật lịch
sử.
Nét đặc thù thứ ba trong chiến
thuật truyền giáo của thánh Phaolô là thường
chọn các nơi chưa có ai tới rao truyền Tin
Mừng trước đó. Thánh Phaolô và các cộng sự
viên theo nguyên tắc không tới rao giảng tại những
nơi đă có người rao truyền Chúa Giêsu rồi,
để không qúa hănh diện v́ kết qủa đă do
người khác nhọc công gieo văi. Chính Phaolô cho chúng ta
biết trong chương 15,20 thư gửi tín hữu Roma
và trong thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô
chương 10,12-18. Thật thế, thánh nhân cảm
thấy ḿnh được Chúa gọi loan báo Tin Mừng cho
những ngừơi chưa bao giờ biết Chúa, thành
lập các cộng đoàn Kitô mới và mở rộng biên
giới Kitô giáo tới tận cùng bờ cơi trái đất.
Mọi dân tộc không do thái phải được nghe loan
báo Tin Mừng của Chúa Kitô. Đó là chương tŕnh Thiên
Chúa muốn và thánh Phaolô xác tín rằng Thiên Chúa đă
chọn ngài như dụng cụ cho công tác này, như thánh
nhân khẳng định với tín hữu Roma trong các
chương 1,14-15 và 15,15-19.24-28.
Tuy nhu cầu loan báo Tin Mừng Nước
Trời khắp nơi cấp bách, thánh Phaolô đă không
vội vă bỏ nơi này sang nơi khác. Trái lại, ngài
dừng lại lâu trong thành phố này hay thành phố
nọ, để củng cố cộng đoàn Kitô đă
thành lập được và giúp cộng đoàn
trưởng thành và tự lập chừng nào có thể. Và
đây là nét đặc thù thứ bốn trong chiến
thuật truyền giáo của thánh nhân. Ṇng cốt Tin
Mừng liên quan tới cái chết và sự sống lại
của Chúa Giêsu Kitô (1 Cr 15,3-5), liên quan tới biến
cố Ngài sẽ quang lâm phán xét vũ trụ và loài
người trong thời cánh chung và khai mào Vương
quốc của Thiên Chúa ( 1 Ts 1.9-10; 4,13-5,11) là vốn
liếng giáo lư quan trọng của ḷng tin, nhưng vẫn
chưa đủ. C̣n cần phải giảng giải cho
tín hữu hiểu biết sâu rộng giáo lư và luân lư Kitô
nữa. Đây là lư do giải thích tại sao thánh Phaolô
dừng lại một thời gian lâu trong các cộng
đoàn để giảng dậy, và sau khi từ giă
cộng đoàn ngài vẫn tiếp tục giảng dậy
khuyên nhủ qua thư tín.
Công tác rao truyền Tin Mừng chắc
chắn đă tốn kém không ít, v́ thánh Phaolô phải thanh
toán chi phí di chuyển, thuê pḥng ốc để giảng
dậy và tụ tập các tín hữu, cũng như cung
cấp phương tiện sống cho chính ḿnh và các
cộng sự viên. Ai là người tài trợ các chi phí
đó? Ở đây thánh Phaolô theo nguyên tắc ”tay làm hàm
nhai”. Đây là nét đặc thú thứ năm trong chiến
lược truyền giáo. Mặc dù đă có thể kêu
gọi hay đ̣i buộc tín hữu đóng góp trợ giúp
cho các phí tổn như thói quen thời đó, thánh Phaolô và
các cộng sự viên của ngài đă thích làm một
nghề riêng để có phương tiện sinh sống,
để không trở thành gánh nặng cho cộng đoàn,
như thánh nhân viết trong thư thứ nhất gửi
tín hữu Thêxalônica chương 2,9, hay trong thư thứ
nhất gửi tín hữu Côrintô chương 9,18. Ngoài
những giờ giảng dậy và công tác tông đồ
mục vụ, các vị đă phải làm việc ngày
đêm để có phương tiện chi dùng cho cuộc
sống thường ngày. Tin Mừng các vị rao giảng
là món qùa nhưng không thánh Phaolô và các cộng sự viên trao
tặng cho tín hữu. Không ai có thể mua bán Lời Chúa và
ơn thánh được.
Tuy nhiên thánh nhân cũng công nhận là tín
hữu các giáo đoàn vùng Maxêđônia đă trợ giúp
phương tiện tài chánh để ngài dành trọn
thời giờ cho việc loan báo Tin Mừng tại Côrintô.
Và trong suốt các năm lưu lại Côrintô, thánh nhân đă
luôn luôn chú ư để không trở thành gánh nặng cho
bất cứ tín hữu nào trong cộng đoàn, như ngài
nhắc cho họ biết trong chương 11,9-10 thư
thứ hai. Trong chương 4,10-20 thư gửi tín hữu
Philiphê, thánh nhân cũng sung sướng tỏ ḷng biết
ơn họ v́ đă gửi tiền giúp ngài trong thời
gian truyền giáo tại Maxêđônia. Một đôi lần
thánh nhân có xin các tín hữu trợ giúp để ngài có phương
tiện di chuyển trong hành tŕnh truyền giáo (1 Cr 16,6) hay
để sang Tây Ban Nha như ngài xin với tín hữu Roma
trong chương 15,24 thư gửi cho họ. Ngoài ra thánh
nhân cũng không quên các tín hữu đă quảng đại
tiếp đón ngài và các cộng sự viên tới ở
trong nhà họ như ông Gaius (Rm 16,23), ông Philêmôn (Plm 22), hay
các thợ làm lều da (Cv 18,3).
Nét đặc thù thứ sáu trong chiến
lược truyền giáo của thánh Phaolô đó là có các
cộng sự viên và làm việc theo nhóm. Trong số các
cộng sự viên đắc lực và thân tín nhất phải
kể tới Sila hay Silvanô, Timôtêô và Titô. Dĩ nhiên thánh
Phaolô luôn là người lănh đạo và phối trí công tác
truyền giảng Tin Mừng, nhưng thánh nhân rất trân
trọng và qúy mến các cộng sự viên của ḿnh.
Đó là lư do giải thích tại sao khi kể lại cho tín
hữu nghe công tác truyền giáo thánh Phaolô dùng từ ”chúng
tôi” số nhiều (1 Ts; 2 Cr 1,19). Trong các liên hệ khó
khăn giữa thánh nhân và tín hữu cộng đoàn Côrintô
Timôtêô (1 Cr 4,17; 16,10-11) và nhất là Titô (” Cr 2,13; 7,6 tt.;
16,10-11) đă đóng vai trung gian qúy báu và hữu hiệu.
Thánh Phaolô gọi Timôtêô là ”người con rất yêu dấu
và trung tín trong Chúa” (1 Cr 4,17), là ”người anh em và cộng
sự viên của Thiên Chúa trong công tác rao giảng Tin
Mừng của Chúa Kitô” (1 Ts 3,2). Timôtêô đă như là
”người con sát cánh bên cha ḿnh, trong việc phục
vụ Tin Mừng” (Pl 2,22). C̣n Titô th́ được thánh
Phaolô gọi là ”người bạn đồng hành và
cộng sự viên” của ngài v́ các tín hữu (2 Cr 8,23).
Điểm sau cùng cần ghi nhận trong
chiến lược truyền giáo của thánh Phaolô, đó
là tinh thần liêm chính và sự thẳng thắn đối
với các tín hữu. Hiện tượng các trường
phái triết học và các tôn giáo gửi đồ
đệ đi thuyết giảng và chiêu mộ tín
đồ là một sự kiện rất thịnh hành
thời đó. Các người này cũng thường dùng triết
thuyết và tôn giáo làm bậc tiến thân. Nhưng đó
không phải là thái độ của Phaolô và của các
cộng sự viên của thánh nhân. Trái lại, Phaolô và các
cộng sự viên của ngài thường lột trần
mặt nạ lừa ảo, giả dối mị dân
của các thừa sai giả này, như viết trong thư
thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônica chương
2,3.5-6. C̣n hơn thế nữa trong chương 2 và
chương 4 thư thứ hai gửi tín hữu Côritnô Phaolô
đă mạnh mẽ chỉ trích thái độ giả h́nh,
lắt léo và thiếu liêm chính của các thừa sai kitô
gốc do thái có khuynh hướng qúa khích. Họ chủ
trương bắt các anh chị em không do thái phải tuân
giữ luật lệ do thái, và nói xấu nói hành thánh Phaolô
trước tín hữu Côrintô, nhưng đă bị thánh
Phaolô sửa mắng thẳng mặt.
LM Linh-Tiền-Khải
|
TRONG BTGH SỐ
16: đề 5
THÁNH PHAOLÔ,CON NGƯỜI CỦA TIN MỪNG
CHIA SẺ |
CÔNG-VIỆC
TỐT NHẤT TRẦN ĐỜI.
Chăm nom những đứa em trai có những nhu
cầu đặc biệt,tôi đă học được
rằng Thiên Chúa chúc lành cho mọi người chúng ta theo
nhiều cách thức khác nhau.
Dorothy Givens
Nhiều năm về
trước,mẹ tôi đem về nhà một bé trai kháu
khỉnh và lập tức tôi trở thành chị cả. Tôi
rất xúc động,v́ như thế là từ nay tôi có
một em trai để khoe khoang và có người chơi
với. Ít năm sau,một em gái đến;giờ đây
tôi đă có một người để cùng chơi búp-bế
và chia sẻ các điều thầm kín. Thế rồi
một em trai và một em gái khác đến nữa. Bây
giờ tôi trở thành một cô giữ trẻ gắn bó,
một người để cho bọn nhỏ hành hạ
hoặc tôi nghĩ là
đại loại như vậy. Mọi việc
lại không xuôi chèo mát mái như thế.
Hai em trai tôi có một
vị trí đặc biệt trong tim tôi.Một đứa
sống sót sau cuộc phẩu-thuật mở tim khi mới
lên bốn,vào thời buổi mà việc phẩu thuật tim
mới bắt đầu. Mặc dù cuộc phẩu
thuật tiến hành tốt đẹp, nhưng sự
thiếu dưỡng khí cho năo trong thời gian ấy,
đă khiến em trở nên chậm chạp hơn các
trẻ đồng trang lứa: em không thể ăn bất
kỳ thực phẩm nào trừ khi tôi có ở đó
với em để tạo ra tṛ chơi vớ thức
ăn ấy - chúng tiôi
đặc biệt thích chơi “máy bay”,trong đó cái thià
đầy thức ăn của tôi sẽ đáp vào trong miệng
của em.
Tôi đă trải qua
hàng giờ bên cạnh em, để đọc sách cho em nghe
và để chơi các tṛ chơi với em. Em bị
khuyết tật,nhưng việc đọc sách trở
thành tṛ tiêu khiển được ưa chuộng từ
khi em không thể ra ngoài chạy nhảy nô đùa. Chỉ
cần một tṛ chơi đơn sơ nhất cũng
đủ làm cho em mỉm cười.
Đứa em trai kia
của tôi là một đứa bé dễ thương
đến nỗi không ai nhận ra điều ǵ không
ổn với nó,cho đến khi nhận ra th́ đă quá
trễ. Cái thóp đóng mau hơn mức cần thiết và
năo của em không phát triển được. Em không bao
giờ có thể giữ được một công việc
theo giờ hành chính và cũng không đạt mức
tuổi tâm lư của những em bé trên 9 đến 10
tuổi.
Các Bạn có thể
hỏi tôi làm sao hai đưqa em trai của tôi - một đứa học
tập hết sức chậm chạp c̣n đứa kia
với trí khôn của một đứa bé - lại có
thể làm cho tôi cảm thấy được Chúa chúc lành.
Thật hết sức đơn giản:
Kể từ khi cha
mẹ chúng tôi qua đời,cả hai đứa em trai
sống chung với vợ chồng tôi. Cả hai
đều có công việc. Đứa em bị mổ tim làm
việc cả ngày;c̣n đứa em kia làm việc vào
những ngày cuối tuần và quyên góp Phúc Lợi Xă
Hội. Giữa sự đóng góp của hai đứa vào
việc nhà và công việc của chồng tôi, tôi
được chúc phúc v́ có thể ở nhà và cống
hiến thời giờ chăm sóc những đứa khác.
Các em trai tôi có
những đức tính đặc biệt mà không ai c̣n nghi
ngờ được. Mỗi khi tôi cần nhớ lại
cái ǵ từ kho hàng,tôi chỉ cần nói với đứa
em trai “tật nguyền” của tôi cái tôi cần. Nó không bao
giờ quên. Đứa em trai kia say mê thiềt kế các xe
hơi mẫu và đồ gỗ,quả là một món quà
đặc biệt Chúa ban cho. Việc em chăm chú vào các
tiểu tiết luôn gây cho tôi ngạc nhiên thích thú và em
hết sức kiên nhẫn khi tập trung vào các dự án.
Người ta có khuynh
hướng nh́n chăm chăm vào những người khác
biệt với họ - chính tôi cũng đă từng làm
điều sai quấy đó. Trước khi các em trai tôi
đi vào cuộc đời tôi đă nhiều năm
đến thế,tôi đă từng nh́n cḥng chọc vào
những kẻ phải ngồi xe lăn hoặc bị
một khuyết tật thân thể nào khác. Bây giờ tôi
nhận ra rằng những người nầy rất
được Thiên Chúa chúc phúc. Thay vỉ nh́n họ cḥng
chọc,tôi mỉm cười với họ và ôm hôn họ
một cái để cho họ thấy rằng họ
rất đặc biệt trên thế giới nầy.
Bất cứ khi nào
thấy ḿnh tầm thường nhỏ mọn,tôi nhớ
lại Thiên Chúa chúc lành biết mấy cho mỗi
người chúng ta theo nhiều cách thế khác nhau và trong
nhiều h́nh thức khác biệt. Những cách thế mà Chúa
dùng để ban phúc lành cho tôi là khi tôi trở thành
người chị cả. Hăy đếm những hạnh
phúc nay lành bạn nhận được ngày hôm nay – Tôi
đang đếm và vẫn c̣n đếm đây!
|
GỢI Ư SUY
NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT HẰNG TUẦN.
Kể
từ số nầy,BTGH sẽ cố gắng chuyển
ngữ bài chia sẻ TIN MỪNG CHÚA NHẬT hằng
tuần của Cha Bernard Lafrenière,C.S.C, để Quư Vị
có thêm gợi ư cho suy niệm.
CHÚA NHẬT IV MÙA
CHAY Năm C
NGƯỜI CHA NHÂN
TỪ và HAI ĐỨA CON TRAI
(Luc 15, 1-3.11-32)
Đây là
một trong các bài tường thuật lôi cuốn nhất
của Phúc Âm, có lẽ cũng là một trong các h́nh ảnh
đẹp đẽ nhất về Thiên Chúa.”Một
người có hai con trai”,hai đứa con không có chút ǵ
giống nhau hết, nhưng ông yêu thương cả hai
đến điên cuồng.
Chúa Giêsu
trả lời cho các kư lục và Biệt phái khi họ trách
cứ người tiếp đón những người
tội lỗi và ngồi ăn với chúng. Đối
với Thánh Luca,ḷng thương xót và sự cảm thông là
những dấu biểu hiện dành riêng cho Thiên Chúa. Trong
câu trả lời của Người, Chúa Giêsu kể
trước hết các dụ ngôn về một con chiên và
một đồng bạc thất lạc sau đó lại
được t́m thấy. Ngài thêm một dụ ngôn
thứ ba,mà người ta không biết làm sao đặt tên
cho thật chỉnh: dụ ngôn người Cha xót
thương, dụ ngôn đứa con hoang đàng, đứa con
t́m lại được,dụ ngôn hai đứa con
trai. Có những người nói tới người cha hào
phóng.
Dụ ngôn
nầy vốn thường được đọc trong
các nghi thức tha tội, dường như không mô tả
một sự sám hối ăn năn thật sự. Đứa con út là một người ích
kỷ: nếu nó trở về, th́ chẳng qua là v́ khuynh
hướng thu lợi cho bản thân, để có
được nơi ăn chốn ở như là tôi
tớ. Nó sẵn sàng tự
hạ thấp ḿnh tận cùng.
Bây giờ
chúng ta hướng tập trung về người cha,
kẻ đóng vai tṛ chủ chốt. Khuôn mặt
người đàn ông cảm xúc chan chứa,mănh
liệt,tràn trề t́nh thương, ở trong Kinh Thánh
vốn là h́nh ảnh thường gặp nhất của
Thiên Chúa. Tuy vậy, nếu trong Israel từ lâu người
ta đă biết rằng Thiên Chúa tha thứ cho những
người tội lỗi, th́ người cha hào phóng vượt trên những
ǵ người ta có thể tưởng tượng về
Thiên Chúa. Từ tận xa mắt có thể nhận con trai
ḿnh, ông chạy đến gặp nó. Ông không cần nghe
những ǵ đứa con thưa. Điên dại v́ yêu,
ông chỉ c̣n nghĩ tới việc hân
hoan và mở tiệc mừng con ḿnh trở về.
Trong
đoạn ba của câu chuyện cảm động
nầy, là một người con trai đùng đùng giận
dữ không chịu chia sẻ niềm vui của cha ḿnh.
Người cha cho tới lúc đó đang đầy
phấn khích vui sướng, chịu đựng những
lời trách móc của người con cả. Anh nầy hoàn
toàn ngược với đứa con hoang đàng: đó là
một gă vững vàng, có tinh thần trách nhiệm,nghiêm túc
và chịu thương chịu khó.
Dụ ngôn
để dỡ dang và chính chúng ta phải tưởng
tượng phần tiếp theo. Người con cả
sẽ bị người cha thuyết phục mà vào dự
tiệc chăng? Những người biệt phái hẳn
là thích nghe câu trả lời để t́m cách chống
đối. Dường như đối với họ
Thiên Chúa măi làm cho họ bối rối và không thể
nắm bắt được, do t́nh yêu thương
của Chúa tràn trề đến vậy.
Bernard
Lafrenière, c.s.c.