Text Box: BẢN TIN GIÁO HỘI
SỐ 16 (TUẦN TỪ 23.03 ĐẾN 30.03.2007)

 

 

 

 

 

THÁNG BA : KÍNH THÁNH CẢ GIUSE

 

CẦU CHO CHÚNG CON.

 

 

26.03 : LỄ TRUYỀN TIN

XIN CHIA VUI và HIỆP Ư TẠ ƠN VỚI QÚY NỮ TU

CÓ BỔN MẠNG LÀ LỄ MẸ MARIA ĐƯỢC TRUYỀN TIN

 

1.     TIN TỨC HỘI THÁNH CÔNG-GIÁO

 

2.     GIỚI THIỆU

a)   SUY TƯ THẦN HỌC:

      LUÂN HỒI - NIỀM TIN HẤP DẪN L̉NG NGƯỜI (1/2)

b)  T̀M HIỂU KINH THÁNH:

               + ĐỀ 5: THÁNH PHAOLÔ,

                            CON NGƯỜI CỦA TIN MỪNG

                                                  

3.     CHIA SẺ :

               MÓN HÀNG BỊ HỎNG

  

              PHỤ LỤC : GỢI Ư SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT  V MÙA CHAY Năm C

                                    “KHÔNG AI KẾT ÁN CHỊ Ư?”

 

 

 

Text Box: TIN TỨC HỘI THÁNH CÔNG GIÁO 

 

 


VATICAN YÊU CẦU BẢO VỆ QUYỀN LƯƠNG TÂM CỦA BÁC SĨ

(CWNews 20.03) Viện Hàn Lâm Giáo Hoàng v́ Sự Sống đă đ̣i hỏi một sự bổ sung cho Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của LHQ, phải có thêm “điều khoản lương tâm” về việc chăm sóc y tế cá nhân,mà không tham dự vào những thủ tục xúc phạm phẩm giá sự sống con người. Trong một tuyên bố ra ngày 16.03,tóm tắt kết quả của Hội nghị về quyền lương tâm và quyền sự sống, Viện Hàn Lâm Giáo Hoàng nói rằng LHQ phải “bổ sung” việc bảo vệ quyền con người mơới một tuyên bố “bảo đảm quyền được là người phản đối và bênh vực quyền nầy chống lại sự kỳ thị trong môi trường làm việc,giáo dục và phúc lợi của chính phủ”. Tuyên bố nầy ghi nhận rằng chăm sóc y tế cá nhân ngày nay thường đối diện với những xung đột nghiêm trọng về lương tâm với sự thừa nhận rộng răi hơn tính chất hợp pháp của nạo phá thai, triệt sản – đ́nh sản, an tử, nghiên cứu phôi thai và những thực hành khác không tương thích với sự kính trọng sự sống con người. Dưới những t́nh huồng nầy,Viện Hàn Lâm Giáo Hoàng V́  Sự Sống cho rằng nghề y trở thành một mảnh đất kiểm tra lương tâm Kitô-hữu.

VỊ GIẢNG THUYẾT CHO ĐỨC GIÁO HOÀNG CHỈ TRÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA NIETZSCHE

(CWNews 17.03) Cha Raniero Cantalamessa, vị giảng thuyết cho Phủ Giáo Hoàng., đă đối chiếu những điểm tương phản giữa quan điểm Kitô-giáo và tư duy của triết gia Friedrich Nietzsche trong loạt bài suy nhiệm Mùa Chay. Thuyết giảng cho Đức Thánh Cha Biển Đức XVI và các giới chức khác của Vatican, Cha tiếp tục những đề tài nói chuyện về Tám Mối Phúc Thật và kêu gọi chú ư đến sự đối kháng quyết liệt giữa “ư chí quyền lực” của Nietzsche và lời Chúa Kitô ca ngợi kẻ hiền lành và khiêm nhượng. Với sự đề cao sức mạnh riêng của con người và lên án Kitô-giáo như là một tôn giáo khuyến khích năo trạng nô lệ, Nietzsche mở lối cho Hitler. Những kết quả của cuộc thử nghiệm Quốc xă cho thấy những mối nguy nghiêm trọng của triết lư ngoại giáo nầy, trong khi những bước tiến đáng ca ngợi nhất của con người hiện đại đề cao các nhân đức của bác ái  và ḷng trắc ẩn Kitô-giáo đối với người khác.

THỦ LĂNH HỒI GIÁO BỊ CHỈ TRÍCH V̀ CUỘC GẶP VỠ VỚI ĐỨC GIÁO HOÀNG

(CWNews 16.03) Một lănh tụ Hồi giáo phái Sunni đang bị chỉ trích thẳng mặt v́ các dự tính của Ông gặp gỡ Đức Giáo Hoàng Biển-Đức XVI vào cuối tháng nầy. Sheik Mohammed Sayyed Tantawi, người đứng đầu đại học Al Azhar ở Cairô đă lên chương tŕnh cho cuộc gặp với Đức Thánh Cha vào ngày 22 tháng 3.Nhưng cuộc thăm viếng kéo theo sự chống đối từ phía Mustafa al Fiqhi, chủ tịch Uỷ Ban Đối ngoại quốc hội Ai Cập. Fiqhi nói với tờ Al Ahran:”Tôi chống lại cuộc thăm viếng nầy”. Ông nói rằng ông chống lại thiện chí của nhà lănh đạo Hồi giáo nói chuyện với Đức giáo tông, v́ Đức giáo hoàng đă “xúc phạm Hồi giáo và tiên tri Mahammed” trong bài diễn văn đọc tại Regensburg năm vừa rồi.

CUỘC THĂM D̉ Ở NƯỚC CÔNG HOÀ SÉC CHO THẤY 50 % LÀ VÔ THẦN

(CWNews 16.03) Theo một cuộc điều tra mới, một nửa dân số nước Cộng hoà Séc không tin vào Thiên Chúa; 26% người tin và 24% c̣n lại thú nhận không chắc chắn. Theo những khám phá của cuộc điều tra, th́ phụ nữ sống đạo tích cực hơn nam giới. Ngoài ra điều tra c̣n cho thấy dưới 50% công chúng ủng hộ việc trao trả lại cho Giáo Hội các tài sản đă bị chế độ cộng sản trước đó tịch thu. Hơn 50% những người được hỏi cho rằng một Giáo Hội cơ cấu không cần thiết đối với con người hiện đại .

   Cuộc điều ta đă phỏng vấn 1.222 người trên 18 tuổi.

ƠN GỌI SỐNG ĐỜI TẬN HIẾN TRIỂN NỞ TRONG THẾ GIỚI TRUNG QUỐC.

(FIDES 15.03) Theo các nguồn tin do Hăng tin Fides thu thập được, có 13 nữ tu Ḍng Franciscaines Thừa Sai Đức Mẹ (FMM) thuộc cộng đoàn giáo phận San Yuan, đă khấn ḍng ngày 1 tháng 3. Bốn chị đă khấn tạm và 9 chị khấn trọn. Hơn 500 tín hữu đă tham dự nghi thức long trọng do Đức Cha Zong Hui De chủ tŕ. Hơn nữa, trong ngày lễ hôm ấy,hai tập sinh Ḍng Camille thuộc giáo phận Zhou Zhi chính thức gia nhập đời sống tận hiến. Ở Bắc kinh, đă hoàn tất moị việc chuẩn bị cho ngày lễ long trọng Chúa Nhật 18.03,trong đó 19 nữ tu thuộc Ḍng Thánh Giuse giáo phận Bắc Kinh khấn trọn. Cha mẹ các Chị đă đến trong khi các Chị c̣n đang tĩnh tâm để chuẩn bị cho ngày trọng đại ấy. Ở Hồng Kông và Đài Loan cũng thế, ơn gọi sinh hoa kết trái. Mới đây hai tu sĩ Ḍng Phan-Sinh,gốc Hồng Hồng, đă tuyên lời khấn sau nhà tập.Hơn hai mươi tu sĩ Ḍng Phan-Sinh đến từ Hồng Kông, Đài Loan, Ư,Phi Luật Tân, đă đồng tế với Cha giám tỉnh.

CÁC CHẶNG CÔNG DU BA-TÂY CỦA ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC XVI

(ZENIT 17.03) Trong chuyến công du của Ngài ở Ba- Tây, từ ngày 9 đến 14 tháng 5, Đức giáo Hoàng Biển Đức XVI sẽ khai mạc Đại Hội Các Toà Giám Mục Nam Mỹ và Vùng Caribê lần thứ V, ở Aparecida. Ngài cũng sẽ thăm viếng San Paolo,một trong các thành phố lớn nhất thế giới. Văn pḥng báo chí Ṭa Thánh đă chính thức xác nhận những mốc ngày tháng của cuộc công du nầy.

   Phi cơ chở Đức Giáo Hoàng sẽ rời Roma ngày 9.05 và sẽ hạ cánh cùng ngày tại Sao Paolô. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ lưu trú tại tu viện Ḍng Biển-Đức thuộc Đan Viện Đức Bà Mông Triệu. Ngài sẽ qua trọn ngày 10.05 thăm Sao Paolo. Hôm sau đó Ngài sẽ đến Aparecida,trụ sở Hội Nghị,cách Sao Paolô khoảng 170 cây số về phía Bắc. Ngày 12.05,Ngài sẽ đi thăm “Fazenda de Esperanca’,gần Guaratingueta, một trung tâm đón tiếp những người cai nghiện. Ngày 13.05 Đức giáo hoàng sẽ chính thức khai mạc Hội Nghị,rồi trở về lại Sao Paolô. Dự kiến Ngài sẽ trở về lại Rôma vào thứ hai,ngày 14 tháng 05.

GIẢI NOBEL NGƯỜI ISRAEL ĐƯỢC BỔ NHIỆM VÀO VIỆN HÀN LÂM GIÁO HOÀNG

(CWNews 16.03) Đức giáo hoàng Biển-Đức XVI đă bổ nhiệm một người đoạt giải Nobel năm 2004 về hoá học, người Israel, Aaron Ciechanover,giáo sư sinh học ở Viện Công Nghệ Israel ở Haifa  làm thành viên Viện Hàn Lâm Khoa Học giáo hoàng.

GIẢI THƯỞNG BÁO CHÍ CÔNG GIÁO THẾ GIỚI TRAO CHO MỘT TỜ TẠP CHÍ IRAQ

(ZENIT 17.03) Tờ tuần báo Uraq “Al-Fikr Al-Masahi” (Tư Tưởng Kitô-giáo) đă đoạt Huy Chương Vàng 2007 của Hiệp Hội Báo Chí Công Giáo Quốc Tế (UCIP) trao ba năm một lần. UCIP giải thích trong thông tư: ”Tờ “Tư Tưởng Kitô-giáo” phát hành bằng tiếng Ả-Rập, đă sống sót qua những khủng hoảng tồi tệ nhất của lịch sử Iraq. Tờ tập san nầy ngày nay đă trở thành một điểm tham chiếu cho mọi dân tộc - Hồi giáo,Kitô-giáo và các tôn giáo khác – và cho tất cả những nhóm thiểu số và nhóm ngôn ngữ, đụng chạm tới tất cả mọi tầng lớp xă hội, không tùy thuộc ǵ đến thu nhập, quy chế hoặc tuổi tác. Tờ báo nầy do các Kitô-hưũ điều hành, - chỉ 3% dân số cả nước – là một ví dụ về tự do báo chí, một tiếng nói hoà b́nh và hoà hợp giữa các dân tộc, xúc tiến các giá trị nhân bản”. Tờ báo được thành lập năm 1964, từ lâu vốn là tập san Kitô-giáo duy nhất ở Iraq,nhằm đạt được các mục tiêu của ḿnh bằng việc lồng ghép vào đều đặn trong các trang báo một loạt những khảo luận, phân tích,tin tức và các bài phóng sự đến từ mọi nơi trên thế giới và xuất phát từ những kinh nghiệm sống. Huy Chương được trao ba năm một lần cho cá nhân,tập thể hoặc một cơ quan đă biết bảo vệ tự do ngôn luận.

BỔ NHIỆM MỚI ĐỐI VỚI THƯ KƯ BỘ GIÁO SĨ.

(CWNews 17.03) Đức tổng giám mục Csaba Ternyak, giữ chức thư kư Bộ Giáo Sĩ từ năm 1997, đă được bổ nhiệm là Tổng giám mục giáo phận Eger,Hungary. Việc tái bổ nhiệm đối với Vị Tổng giám mục người Hungary đến năm tháng sau khi Đức thánh Cha Biển-Đức XVI đă chỉ định Đức hồng y Claudio Hummes làm Tổng trưởng Bộ Giáo Sĩ. Vatican không thông báo người thay thế Đức tổng giám mục Ternyak như là giới chứn hàng hai trong  bộ ngành nầy. Trong chức vụ mới, Đức tổng giám mục Ternyak sẽ thay thế Đức tổng giám mục Istvan Seregely, 76 tuổi, xin nghỉ hưu theo quy định của Giáo luật.

NGÔI THÁNH ĐƯỜNG CÔNG-GIÁO ĐẦU TIÊN CHO TỈNH KAMCHATKA,NƯỚC NGA.

(CWNews 17.03)  Trên bán đảo Kamvhatka thuộc Nga, khởi đầu công tŕnh sẽ là nơi của thánh đường Công giáo đầu tiên trong vùng. Giáo xứ Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, hiện hữu nơi đây từ 1989, trải rộng một diện tích gấp ba lần Ba Lan. Giáo xứ nằm trong Giáo phận Thánh Giuse ở Irkustk, bao gồm một vùng rộng hơn cả lục địa Châu Âu. Trong khoảng 500.00 dân sống trong ranh giới của giáo xứ, chỉ có 50 tín hữu Công giáo. Ngôi thánh đường sẽ được xây dựng trên vùng đất núi lửa, đủ chổ cho 100 người và chi phí hơn 500.000 euro (10 tỷ VN đồng).Tổ chức từ thiện Công-giáo Hỗ Trợ Giáo Hội Thiếu Thốn, vốn đă tài trợ cho việc nâng cấp sửa chữa địa điểm mà giáo xứ đang cử hành Thánh Lễ, - một ngôi nhà gỗ nhỏ - cũng sẽ tài trợ việc xây cất ngôi thánh đường mới.

BỆNH VIỆN DÀNH CHO DÂN LAO ĐỘNG NHẬP CƯ Ở ĐÀI LOAN.

(FIDES 17.03) Bệnh viện Công-giáo duy nhất của quận Tao Yuan,thuộc giáo phận Hsing Chu, do các nữ tu Thánh Phaolô (SPC), đă khánh thành một khu mới dành riêng cho các lao động nhập cư có mặt trên đất nước. Theo tờ Tuần Báo Đời Sống Kitô-hữu (Christian Life Weekly của tổng giáo phận Đài Bắc), sáng kiến nầy là để đáp lại yêu cầu bức bách của dân nhập cư của vùng và của toàn đất nước, v́ có rất đông lao động đến từ Phi-Luật-Tân,Việt-Nam,Indonesia và Thái Lan. Ngày khánh thành do một linh mục Việt-Nam chủ tŕ nghi thức ban phép lành. Cộng đồng Công giáo Đài Loan luôn chú tâm đến việc mục vụ dành cho các dân nhập cư. bằng chứng là từ ngày 15 đến 18 tháng 3 một cuộc gặp gỡ quan trọng được Ủy Ban Mục Vụ Người Di Dân và Lữ Hành của HĐGM Vùng Đài Loan, tổ chức tại Đài Bắc, với sự hiện diện của Đức hồng y Renato Raffaele Martino, chủ tịch Uỷ Ban Giáo Hoàng về mục vụ cho di dân và sự tham sự của các đại diện Giáo Hội đến từ Việt-Nam, Phi Luật Tân, Nam Dương, Thái Lan và Mông Cổ.

GIÁO SƯ CHỦNG VIỆN TRUNG QUỐC HÀNH HƯƠNG THÁNH ĐỊA LẦN ĐẦU TIÊN.

(ZENIT 19.03) Lần đầu tiên kể từ thời Trung Quốc mở cửa, một nhóm khoảng hai mươi linh mục và giáo sư chủng viện, chuyên môn về Kinh Thánh và Kitô-học, có thể đi hành hương Thánh Địa. Cùng đi có bốn linh mục và chủng sinh hiện là sinh viên ở Đức và Tây Ban Nha. Suốt bốn tuần lễ, từ cuối tháng 1 đến 21 tháng hai vừa qua, những khách hành hương Trung Quốc nầy đă có dịp để đào sâu đức tin, mở rộng tri thức về Kinh Thánh và đức tin Kitô-giáo khi tiếp xúc với các địa danh linh thiêng. Cuộc hành tŕnh đem tới Israel và Palesrtine các linh mục thuộc Giáo Hội “công khai” được Liên Đoàn Kinh Thánh Quốc Tế có trụ sở ở Đức và Đan Viện Biển Đức Thánh Ottilien (xứ Bavière, Đức) tổ chức. Sau khi thăm các địa danh chính, từ Mộ Thánh tới Giệtsêmeni, từ Bétlem đến Nhà Tiệc Ly, từ Qumran đến Hébron, từ Jericho đến Galilêa, nhóm trở về được cuộc hành hương nầy biến đổi. Trong 12 chủng viện “chính thức” của Giáo Hội trung Quốc, th́ có 9 chủng viện có người đại diện hành hương’ [ Giáo Hội “chính thức” của Trung Quốc có khoảng 1.900 linh mục Công giáo, trong đó 200 được chọn gửi đi học ở ngoại quốc tại các quốc gia như Hoa Kỳ, Châu Âu hoặc Châu Á].

GIÁO HỘI BỒ ĐÀO NHA TỪ CHỐI HỢP TÁC VỚI LUẬT VỀ NẠO PHÁ THAI.

(ZENIT 20.03) Giáo Hội Công giáo Bồ Đào Nha sẽ không bao giờ hợp tác bất cứ cách nào với luật nạo phá thai hiện đang tranh căi, cho rằng luật nầy là một “luật sai trái”. Cha Carlos Azevedo,phát ngôn nhân của HĐGM Bồ Đào Nha đă khẳng định:”chúng tôi tuyệt đối không hợp tác bằng bất cứ cách nào với một luật sai trái”. Uỷ Ban Thường Trực HĐGM Bổ Đào Nha họp tại Fatima vào ngày 13.03 vừa qua, đă kêu gọi các phong “Bảo Vệ Sự Sống” để họ “ quan tâm trước tiên đến việc làm sao văn hoá sự sống được tôn trọng” dưới các khía cạnh khác nhau và họ không giới hạn việc làm của ḿnh trong việc ngừa hoặc nạo phá thai.

NHỮNG TR̉ BÀI BẠC Ở MACAO : ANH GIÁO VÀ CÔNG GIÁO CÙNG CỨU GIÚP GIỚI TRẺ.

(ZENIT 20.03) Tại Macao,Anh Giáo và Công giáo hiệp nhau lại để giúp đỡ giới trẻ đừng rơi vào sự lệ thuộc của các tṛ bài bạc. Đối diện với Macao là nơi mà các ṣng cờ bạc ngày càng tăng theo cấp số nhân, một nhóm Tin Lành hỗ trợ xă hội và một tổ chức Công-giáo có trụ sở ở Hồng Kông đă hiệp đồng để đào tạo các nhà tư vấn được giao nhiệm vụ giúp đỡ những người say mê bài bạc. Việc đào tạo là để có cách thế nhận diện và khuyên nhủ những người chơi cờ bạc lệ thuộc vào tṛ đỏ đen và tránh cho những người khác cũng nên như thế, trong khi tạo điều kiện thuận lợi để moị người ư thức được những vấn đề gắn kết với những tṛ bài bạc. Theo Joe Tang, giám đốc Trung Tâm Caritas, con số người lệ thuộc vào tṛ cờ bạc ở Macao tăng theo tỷ lệ con số ṣng bạc được mở trong thời gian gần đây nhất và chính quyền địa phương không làm ǵ nhiều để cảnh báo hoặc giúp đỡ những người say mê cờ bạc. Ngày 11 tháng 02 vừa rồi, có đến 50.000 người chen lấn nhau ngày khai trương ṣng bạc thứ 25. Theo ông Seiko Lee, nhiều người trẻ tuổi nói họ muốn làm việc trong các ṣng bạc để kiếm tiền trả chi phí học đường, thực ra rất nhiều trong số đó đă mau chóng lệ thuộc cờ bạc.

[ Theo các thẩm quyền Macao,kỷ nghệ cờ bạc đă mang về nguồn lợi 4,3 tỷ euros năm 2006. Theo luật, 35% số tiền nầy phải được nộp cho nhà chức trách dưới h́nh thức thuế. Theo thống kê, có 60.000 việc làm gắn với kỷ nghệ cờ bạc, tức là 21 % dân số Macao].

LỜI KHIỂN TRÁCH CỦA VATICAN và THẦN HỌC GIẢI PHÓNG (qua sự kiện “Sobrino’)

(CAN 20.03)  Một cựu linh mục Ḍng Phan-sinh,Leonardo Boff,Ba  Tây, người đă rời bỏ chức linh mục và Ḍng Phan-Sinh đă nhiều năm sau khi những bài viết của ông bị Toà Thánh kết án – nói rằng quyết định của Vatican cho phát hành một lời cảnh báo công khai về các bài viết của Cha Jon Sobrino có thể dẫn đến một sự hồi sinh của thần học Mác-xít ở Nam Mỹ. Cùng với Sobrino,Gutierrez và Juan Luis Segundo, là những nhân vật chủ chốt của thần học nầy, có ảnh hưởng nhiều trên đời sống của Giáo Hội Nam Mỹ, ra mặt với phản ứng gay gắt chống lại quyết định do Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin v́ đă khiển trách nhiều tác phẩm thần học của Sobrino.

  Trong các tuyên bố gửi Hăng tin AFP, Boff nói rằng Sobrino “là một trong những nhà thần học nghiêm chỉnh nhất, theo Phúc Âm nhất và có thể nói là thánh thiện nhất mà chúng ta có. V́ lẽ ấy, việc kết án chống lại ông là hết sức nghiệm trọng”. Boof khẳng định rằng “ thần học giải phóng vẫn c̣n sinh động và mạnh mẽ ở Nam Mỹ, Châu Á và Châu Phi,mặc dù tranh căi quanh nguyên lư của nó đă giảm bớt trong những năm vừa qua”.

   Trong các tuyên bố chống lại tác phẩm của Cha Sobrino, Vatican đă nhấn mạnh sự cần thiết phải chăm lo cho người nghèo, nhưng đă vạch ra rất nhiều sai lạc trong sự tiếp cận của Cha Sobrino ví” những giả định có tính phương pháp luận trên đó [Sobrino] đặt nền tảng suy tư thần học của Cha, Thiên Tính của Chúa Giêsu Kitô, Mầu Nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, tương quan giữa Chúa Giêsu Kitô và Nước Trời, sự tự ư thức bản thân của Chúa Giêsu và giá trị cứu độ của Cái Chết của Người”.

ĐỨC GIÁO HOÀNG CÔNG DU ÁO VÀO THÁNG CHÍN.

(CWNews 20.03)  HĐGM Áo đă loan báo rằng Đức Thánh Cha Biển-Đức XVI sẽ viếng thăm nước Áo vào đầu tháng Chín. Đức Giáo Hoàng sẽ hành tŕnh tới Vienne ngày 7 tháng 9. Hôm sau đó Người sẽ dâng Thánh Lễ tại Linh Địa Thánh Mẫu Mariazell, đánh dấu kỷ niệm 850 năm. Ngày 9.09,ngày cuối cùng của cuộc công du nầy, Đức Giáo Hoàng sẽ dâng Thánh Lễ tại Nhà Thờ Chính Toà Thánh Stephan ở Vienne. Các kế hoạch cho cuộc du hành của Đức Giáo Hoàng đă được sắp xếp cho nhiều tháng và ngày 5 tháng 10 năm trước, trong một cuộc viếng thăm Vatican, tổng thống Áo Heinz Fishcher đă chính thức mời Đức Giáo Hoàng thăm viếng nước Áo.

 CÁC GIÁM MỤC TÂY BAN NHA CÔNG KHAI CHỈ TRÍCH “PHIM KHIÊU DÂM TÔN GIÁO”

(CWNews 20.03) HĐGM Tây Ban Nha đă tố giác việc ấn hành một cuốn catalogue về các công tŕnh nghệ thuật, bao gồm cả những miêu tả thô tục và xúc phạm về Chúa Giêsu Kitô, Đức Trinh Nữ Maria và các Thánh. Chính phủ xă hội chủ nghĩa của Vùng Extremadura công khai ủng hộ việc phát hành cuốn catalogue. Một số tác phẩm ở trong catalogue là “sách khiêu dâm tôn giáo” làm chướng ta gai mắt các Kitô-hữu và bôi nhọ di sản văn hoá của đất nước Tây Ban Nha

TÍN ĐỒ ẤN GIÁO CẢI ĐẠO TRỞ THÁNH LINH MỤC.

(AsiaNews 20.03) Stephen Maria chưa bao giờ đi học ở trường Công giáo,nhưng một hành vi tha thứ của một người bạn Kitô-hữu đối với một sinh viên đă dối gạt tiền anh ta, đă dẫn Stephen Maria tới chỗ hiểu biết hơn về Chúa Giêsu. Sinh ra trong một gia đ́nh theo Ấn-giáo và được giáo dục trong trường Ấn giáo, Stephen Maria khám phá ra Kitô-giáo. Cuộc đời anh biến đổi khi lên 14 tuổi, sau khi anh kết bạn với một chàng trai Kitô-hữu nghèo tên là Daniel Jayraj. Cha mẹ Daniel cho anh ta 300 rupi để trả lệ phí thi cử,nhưng anh ta đă cho một người bạn học muợn, với điều kiện sẽ trả lại. Ngày hôm sau khi chàng trai kia từ chối trả tiền lại cho Daniel, Daniel rất đau khổ,v́ đối với gia đ́nh nghèo như gia đ́nh anh,th́ đó là một khoản tiền rất lớn. Annamalai K (tên cũ của Stephan Maria) nói với Daniel:” để tôi đánh cho nó một trận và đ̣i tiền lại cho bạn’ –“Nhưng tôi ngạc nhiên khi Daniel nói với tôi rằng Chúa Giêsu yêu mến nó và tha thứ cho nó. Hăy để mặc tiền bạc đi thôi”. Cha mẹ Daniel cũng nói như thế khi anh đến thăm họ tại nhà. Năm 1992, Stephan được rửa tội. Năm 1996, anh vào chủng viện thuộc Tổng giáo phận Bombay, dù cha mẹ phản đối quyết liệt. Ngày 14 tới đây,anh sẽ được thụ phong linh mục trong Tổng giáo phận Mumbai.

LẾN ÁN VIỆC ÁP DỤNG LUẬT VỀ NHÂN BẢN VÔ TÍNH PHÔI

(FIDES 20.03) Giáo Hội Công giáo hoàn toàn chống lại việc nhân bản vô tính phôi người và sử dụng vào những mục tiêu nghiên cứu khoa học. Đó là điều mà Đức Cha Denis Hart,tổng giám mục Melbourne nhắc nhở, sau khi thủ hiến Bang Victoria loan báo rằng chính phủ dự định sẽ đưa vào một luật về nhân bản vô tính phôi thai nhằm trị liệu, dựa theo luật liên bang đă được Quốc hội Úc phê chuẩn tháng 12.2006. Đức tổng giám mục nhấn mạnh: mọi hoạt động nhân bản “luôn là vô luân”. Ngài xin các Kitô-hữu dấn thân vào chính trị đừng ủng hộ dự án nầy. Một số nhà chính trị Công giáo đă vâng theo và họ sẽ biểu hiện những động cơ các quyết định của họ trước Hội Đồng lập pháp của Bang. Mặt khác những kẻ ủng hộ nhân bản vô tính khẳng định rằng một biện pháp như thế sẽ có thể giúp chữa trị những căn bệnh khác nhau. Giám mục phụ tá giáo phận Melbourne, Đức Cha Christopher Prowse, mời gọi thủ tướng Bang, ông Steve Bracks, đừng phê duyệt những biện pháp thất nhân tâm nầy: ”tôi tin rằng dân chúng bang Victoria sẽ bị xáo trộn nếu một luật  loại nầy được phê chuẩn”.

PHÉP LẠ CHỮA LÀNH MỘT NỮ TU NGƯỜI PHÁP NHỜ LỜI BẦU CỬ CỦA ĐỨC GIOAN-PHAOLÔ II.

(ZENIT 21.03) Phép lạ nhờ lời bầu cử của Đức Gioan-Phaolô II sau khi Ngài qua đời và sẽ mở ra cánh cửa cho việc phong chân phước cho Ngài, liên quan tới một nữ tu người Pháp bị bệnh Parkinson. Thông tư của người thỉnh nguyện án phong chân phước và phong thánh cho Đức Gioan-Phaolô II, Đức Ông Slawomir Oder, đă xác nhận vào sáng thứ ba tin tức nầy. Đó là một nữ tu “tương đối trẻ” làm việc phục vụ các trẻ sơ sinh và việc chữa lành xảy ra vào tháng 10.2005. Ngài cũng nhắc lại ba phép lạ khác ở Nam Mỹ,Hoa Kỳ và Trung Quốc. Đức Ông xác định rằng “ tư liệu được toà án tập hợp lại sẽ được giao cho Thánh Bộ Phong Thánh”.

GIỚI THIỆU CUỐN SÁCH LẬT TẢY CÁC SÁCH PHÚC ÂM

(CWNews 21.03)  Viện Kinh Thánh Giáo Hoàng hôm nay đă giới thiệu một cuốn sách mới đặt vấn đề về tính xác thực của các sách Phúc Âm. Phúc Âm theo Giuđa là một bản miêu tả được hư cấu về cuộc đời kẻ phản bội Chúa Giêsu, như con ông ta thuật lại. Cuốn sách là một sản phẩm hợp tác khác thường giữa một tiểu thuyết gia và một học giả Kinh Thánh: Jeffrey Archer và Cha Francis Moloney. Archer,một tác giả người Anh trước đó chuyên về những chuyện giật gân, cũng khá nỗi tiếng ở quê hương ông v́ bị tù do đă man khai. Được hỏi v́ sao Viện Kinh Thánh lại gợi chú tâm đến một công tŕnh hư cấu, Cha Viện trưởng Stephan Pisano nói với Đài Bá Âm Vatican rằng sự kiện hôm hay “không hàm ư Viện Kinh Thánh hoặc Vatican hay là Đức Thánh Cha tán thành cuốn sách bất cứ ở phương diện nào”. Cha Thomas Williams, chủ nhiệm khoa Thần học ở Trường Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ Rôma,nói với Đài Vatican rằng Phúc Âm theo Giuđa chỉ là cái cuối cùng trong loạt những cố gắng nhằm “miễn cho Giudà lời buộc tội đă là một ‘gă tồi’”. Chân dung Giudà trong các tác phẩm nầy “không phảo là ư tưởng chúng ta có từ các Phúc Âm quy chuẩn”. Các tác giả không phản đối lời buộc tội nầy. Trong một cuộc trao đổi với tờ Thời Báo Luân Đôh, Vị học giả Ḍng Salêdiêng và tiểu thuyết gia người Anh giải thích rằng họ cố gắng giữ câu chuyện của họ sát với các Phúc Âm, ngoại trừ khi họ xác tún rằng lời thuật của Phúc Âm không chính xác, Các tác giả nói chẳng hạn họ không đem vào một số phép lạ được mô tả trong các Phúc Âm, v́ những phép lạ nầy không bao giờ xảy ra.

CẢI THIỆN THẾ GIỚI:  ĐÓ LÀ NGHĨA VỤ CỦA GIÁO DÂN.

(ZENIT 17.03) Theo ông chủ tịch Liên Minh Quốc Tế Các Hiệp Hội Thầy Thuốc Công Giáo, Joseph Maria Simon Castellvi,bác sĩ ở Barcelona,Tây Ban Nha, khi “đối diện với những hành vi mà con người phản kháng sa phạm”, th́ sự phản đối lương tâm trở thành “nơi trông cậy cuối cùng”. Zenit lợi dụng thời kỳ ông có mặt ở Roma để trở lại vấn đề được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI gợi lên trong bài diễn văn nói với các thành viên Viện Hàn Lâm Giáo Hoàng v́ Sự Sống (PAV), khi kết thúc Hội Nghị Quốc Tế được mệnh danh “lương tâm Kitô-giáo hổ trợ quyền sống” đă diễn ra ở Roma các ngày 23 – 24 tháng hai. Ông nói: “Phải làm sao để không ai phạm vào các hành vi nầy: nếu chúng – các hành vi nầy – sai trái đối với tôi, th́ chúng cũng như thế đối với người khác”. Ở Hội Nghị PAV mà ông có thể theo dơi với tư cách khách mời, Bác sĩ Simón nhớ lại rằng “ những người tham dự ngưng lại ở một số sự kiện đặc biệt. Ví dụ một sự kiện đáng ngạc nhiên đă khiến người ta chú ư: rất hiếm hoi t́m được một quốc gia Châu Âu - vốn cho ḿnh là dân chủ - ở đó các bác sĩ phụ khoa có được khả năng tự đào tạo mà không phải thực hành những ca nạo phá thai”. Ông nêu lên: ”Rất đông người,nhất là giới trẻ, chống lại t́nh h́nh nầy và từ chối tuân theo một xă hội một cách nào đó làm cho chúng ta họ tê liệt v́ tiện nghi và tiện ích; trói chặt nỗ lực bênh vực những người yếu thế của chúng ta’. Ông thêm:’ Cải thiên thế giới: đó là nghĩa vụ của giáo dân. Đừng có suy nghĩ [sai lầm] rằng hàng giáo phẩm Giáo Hội có thể làm hết mọi thứ…Chúng ta, giáo dân, phải cầu nguyện, hy sinh, bước theo những lối đường mà Chúa vạch ra cho chúng ta qua Giáo Huấn Giáo Hội và làm việc, làm việc một cách không mệt mỏi”.

 

HỒ SƠ : PHỤC SINH & LUÂN HỒI. (1/2)

LUÂN HỒI” MỘT NIỀM TIN HẤP DẪN L̉NG NGƯỜI.

Để chuẩn bị cho Lễ Phục Sinh , Đức Hồng Y Godfried Daneels, Tổng giám mục Malines-Bỉ đă phổ biến Thư Mục Vụ mang tựa đề “ BÊN KIA CƠI CHẾT”,trong đó Ngài nhấn mạnh những khác biệt căn bản giữa đức tin Kitô-giáo vào sự Phục sinh và niềm tin vào Luân hồi. BTGH chỉ lấy lại phần nói về LUÂN HỒI và đoạn khởi đầu suy tư của Đức Hồng Y về sự PHỤC SINH.

 

BA CÂU TRẢ LỜI CHO MỘT CÂU HỎI DUY NHẤT.

   Để trả lời câu hỏi điều ǵ xăy ra bên kia bến bờ sự chết,có ba câu trả lời. Câu trả lời đầu tiên ngắn gọn:”Chẳng có ǵ!”.Hoặc người ta muốn nói rằng sự chết là dấu chấm hết vĩnh viễn và rằng phía bên kia chẳng c̣n lại chút ǵ về con người;hoặc người ta cho rằng chúng ta không biết ǵ và v́ thế không thể nói ǵ về thế giới bên kia. Việc hoàn toàn không tin hoặc chủ nghĩa bất-khả-tri có một điểm chung: họ trả lời bằng một sự trống không.

   Các Kitô-hữu đưa ra một câu trả lời kiên định và nhất quán hơn. Họ nói về sự Phục Sinh. Cái chết không có nghĩa là sự kết thúc của hữu thể nhân loại. Nó vẫn tiếp tục sống bên cạnh Thiên Chúa là Đấng đưa họ vào măi măi trong cuộc cuộc sống mới cùng với một thân xác được tôn vinh.: tất cả những điều nầy v́ cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô, Đấng không ở lại trong mồ, nhưng quyền uy Thiên Chúa đă làm cho Người về lại cơi sống. Tuy nhiên sự phục sinh khác về bản thể với cuộc thức dậy những kẻ chết,như những người mà các Phúc Âm tường thuật lại về Lazarô,về anh thanh niên ở Naim hoặc về con gái Ông Giairô. Đấng sống lại từ nay só một thân xác bất diệt và sống ngoài thời gian của con người.

    Cho tới thời gian gần đây,niềm tin nầy vào sự phục sinh nắm giữ gần như độc quyền trong các vùng của chúng ta.Tất cả những ǵ không phải là hoàn toàn vô thần, đều ít hoặc nhiều xác tín vào niềm tin ở sự sống vĩnh cửu. Bây giờ th́ không c̣n như vậy nữa. Các thống kê cho thấy có 20% người thời nay ở Châu Âu có một sự tin tưởng khác biệt: tin vào sự luân hồi. Phác thảo tổng quát,sự tin tưởng nầy được diễn đạt như sau: sau khi chết, hữu thể nhân loại trở về lại cuộc sống dương-thế,nhưng là trong một thân xác khác,tiến tŕnh nầy thay đi đổi lại một số lần không thể xác định được.Như vậy có khả năng “làm lại cuộc đời”.

   Thoạt nh́n,người ta có thể nghĩ ngay: ở vào thời đại khoa học kỹ thuật của chúng ta,ai lại c̣n có thể rơi vào một sự tin tưởng ấu trĩ ngờ nghệch như vậy?

   Sự thật, đối với một số người thời nay,sự tin tưởng nầy bao gồm một sự tiến bộ. Trước kia họ không tin vào điều ǵ hết,c̣n bây giờ họ lại có được xác tín rằng có không ít điều sau khi chết: một dăy tiếp nối những luân hồi.

 

TỪ NAY,TÔI TIN VÀO THẾ GIỚI BÊN KIA”

     “Từ lâu,tôi là người theo chủ nghĩa duy vật.Tôi tin vào sự thành công,thành đạt,tiền tài. Và  cuộc sống làm tôi thoả măn trong khuôn khổ nầy.Tôi rất ít nghĩ về cái chết. Khi tôi chợt nghĩ đến, th́ tôi coi nó như một điều dữ không thể tránh né được, không có phương thuốc giải trừ. Nếu trước sau ǵ cũng phải qua cửa ải đó,th́ tất nhiên là càng trễ càng tốt….Nhưng rồi một ngày tôi chuyện văn với một đồng nghiệp và chúng tôi đă đề cập đến những chủ đề siêu h́nh. Các Bạn hiểu tôi muốn nói ǵ rồi: những vấn nạn lớn lao của cuộc đời. Người bạn đối thoại nói với tôi rằng riêng anh ta,anh ta tin vào luân hồi,và anh ta đă nói về nó cho tôi nghe. Từ hôm ấy,tôi tường suy nghĩ đến cuộc nói chuyện nầy. Và tôi ngày càng tin chắc rằng ư tưởng luân-hồi dựa trên những nền tảng vững chắc. Làm sao có thể tưởng tượng được rằng cuộc đời chúng ta ngừng lại ở nấm mộ? Vâng,từ nay tôi tin vào cuộc sống bên kia thế giới và tầm nh́n của tôi được mở rộng ra. Tôi có cảm tưởng bước vào trong chu-kỳ vĩ đại của cuộc đời. Tôi giữ sự phân chia của tôi trong bản giao hưởng vĩ đại của lịch sử nhân loại,lịch sử vốn khởi sự từ lâu trước tôi và sẽ c̣n tiếp diễn lâu măi sau tôi. Tôi ngừng ở đây bản sao thư nầy của một doanh nhân,toàn tâm cống hiến cho công việc,hoàn toàn tỉ mỉ trong lănh vực nghề nghiệp. Người ấy đă thay đổi. Và sự xác tín mới của ḿnh,ngườI ấy đặt cho cái tên là “đức tin”.

 

NÉT QUYẾN RŨ CỦA PHƯƠNG ĐÔNG.

     Những ǵ được mô tả trên đây chỉ là h́nh thức thông thường của niềm tin vào sự luân hồi,như nó đang phát triển trong thế giới Phương Tây của chúng ta. Đó là một biến thể khá thô kệch của tín ngưỡng tinh lọc về luân hồi như là nó được biết đến từ nhiều thế kỷ qua trong Ân-giáo và Phật-giáo,nơi người Hy Lạp và về sau,trong Thế Kỷ Ánh Sáng.

    Lúc đầu, Ấn Độ không biết đến luân-hồi.Học thuyết Luân Hồi chỉ xuất hiện vào khỏang năm 750 trước CN.Khi con người chết đi, chỉ c̣n lại hữu-thể sâu xa nhất của nó,cái “nó”. Cái nầy được liên kết bởi luật karma,nghĩa là,nói một các đơn giản,bởi luật thưởng phạt tùy theo các công việc.V́ vậy người đă khuất rất thường khi bị buộc phải sống lại một cuộc sống trên trái đất,và cái ”nó” của người ấy sẽ ở trong một thân thể khác. Quy tŕnh nầy  tiếp tục măi cho tới cái “nó” tốt nhất có thể tự giải thóat ḿnh ḥan ṭan. Bao lâu các hành vi của người ấy c̣n nghiêng cán cân, th́ người ấy c̣n phải tiếp tục nữa. Ở đây,luân hồi hẳn không phải là một tin tốt lành ǵ.Trái lại: người ta muốn thóat khỏi nó với một sự khôn-ngoan ngày càng lớn hơn. CuốI cùng, con người hy vọng có thể tan biến một ngày náo đó vào cái tâm hồn lớn của vũ trụ.”Như nước sông biến tan vào biển cả,mất đi danh tính và h́nh thể,cũng vậy ngườI khôn ngoan,một khi đựơc giải thóat khỏi danh tính và h́nh thể riêng ḿnh, đi vào trong ḷng sự khôn ngoan thượng trí vượt trên tất cả”.

    Ít lâu về sau, ở thế kỷ VI trước CN,Phật-giáo chuyển hướng, nhấn mạnh về một linh đạo khổ hạnh. Không c̣n cái “nó” hoặc cái “tôi” ở đây nữa: tất cả trở thành phù dù và chúng ta chỉ tồn tại bởi một gịng tư duy ,hồi ức,cảm giác,hành vi ư chí không ngưng nghỉ. Đến nỗi người ta có thể tự hỏi đó c̣n là luân hồi đích thực nữa chăng: quả thật không c̣n cái “nó” liên tục trở lại cuộc hiện hữu. Cho dù thế nào đi nữa,Phật-giáo cố gắng bằng sự khổ hạnh làm tắt mọi ước ao tự nâng ḿnh lên tới trạng thái Niết Bàn.

   Tóm lại,chúng ta có thể nói rằng hai khái-niệm nầy tương đốI hóa sự hiện-hữu cá thể v́ lợi ích của thực thể vũ trụ. Người Ấn-giáo tiến về sự kết hợp với sự tṛn đầy của hữu thể,Phật giáo th́ tiến về niết-bàn.Luân hồi,cả hai đều xem nó đúng ra là  một sự chúc dữ,một sự  nô lệ phải dứt bỏ. Cách nh́n nhận sự việc nầy xa rời cách thông thường ở phương Tây. Cũng khác ḥan ṭan là quan-niệm ví dụ của G.Lessing (1729 – 1781). Hơn nữa ông ta không tham chiếu phương Đông. Cuộc sống mới không phải là một sự thưởng phạt đối với tiền kiếp;nó là một cơ hội tốt để trở nên ḥan thiện,một cơ may để có được thêm nhiều kinh nghiệm và hiểu biết hơn. Một lần luân hồi tạo thành một bước tiến về phía trước để đạt tới sự ḥan thiện cao hơn. Bởi vậy luân hồi không c̣n là một lời chúc dữ,một h́nh phạt hay là một số kiếp. Chính trong cùng tinh thần đó mà Helena Blavatsky rồi sau đó là Rudolf Steiner đă viết: những cuộc luân hồi đa dạng là một chuyển động đi lên trong tiến tŕnh hiện-thực-hóa bản thân. Cứ mỗi lần [luân hồi] như thế,hữu thể con người trở thành chín chắn hơn,phong phú hơn và ḥan hảo hơn,trở thành chính ḿnh hơn. Người ta t́m thấy quan niệm na ná như vậy trong Thời Mới.Quả thật,[phong trào] Thời Mới cho rằng con ngườI được hưởng lợI từ chuyển động đi lên của vũ trụ mà nó là một yếu tố. Heinz Zahrnt viết:” Trong khi ở Phương Đông nghiệp chướng giống như một cổ xe ngựa mà người ta rất sẵn ḷng bước xuống,th́ ở phương Tây nó lạI là một cái thang xoắn ốc mà ngườI ta trèo lên nhẹ nhàng” (Gotteswende,1989).

    Thật ra, ở Phương Tây,chưa bao giờ luân hồi mang bộ mặt của lời chúc dữ; đó là một biến cố đầy hy vọng làm mất đi tính chất bi kịch của cái chết và an ủI vô số những nghịch cảnh của cuộc sống nầy. Do vậy nó hội nhập một cách ḥan hảo vào giản đồ đức tin đang phát triển và tự hiện thực hóa bản thân.

   Người ta hẳnđă để ư điều đó,luân hồi không phải là một món hàng dược bán riêng ra. Người ta không tin vào luân hồi mà không cần phải liên kết với cả một cái Welfanschauung (quan niệm và thực hành niềm tin) vốn liên kết rất chặt chẽ. Quan niệm nầy đề xuất một quan niệm káhc về Thiên Chúa,về con người,về lịch sử,về ơn cứu độ.Không thể chối căi rằng các “tôn giáo” phương Đông có một sự quyến dũ trên phương Tây. Không thể nghi ngờ, điều giải thích phần lớn sự thành công của luân hồi trên chúng ta,chính là những tiếp xúc với Châu Á – đặc biệt là Ấn-Độ. Tính liêm minh chính trực của một số trong các tín đồ phương Đông của nó,cuộc sống gương mẫu của họ, đă gây ấn tượng lớn lao trên tất cả những ai tiếp xúc vớI họ qua sách báo hoặc trong những cuộc du lịch. Đối với người phương Tây,rất tự nhiên là  tin cậy và khen ngợi Châu Á ở mặt khôn ngoan cuộc sống. Lắm khi người ta có cảm tưởng dự phần vào một “thị trường chung” to lớn của các tín ngưỡng. Thế giới sẽ chỉ c̣n là một “mặt bằng lớn”duy nhất,dĩ nhiên là tự phục vụ: mỗi người chọn lựa những ǵ thích hợp ḿnh. Ngay cả một số Kitô-hữu xác tín rằng học thuyết luân hồi có thể là một bổ sung đang hoan nghênh cho đức tin vào sụ phục sinh của họ.

 

CÓ BẰNG CHỨNG KHÔNG?

   Điều vừa làm say mê vừa thuyết phục con người hiện đại, đó là các sự kiện. V́ vậy những người ủng hộ luân hồi khẳng định: chúng tôi có những sự kiện có căn bản khoa học chứng minh có luân hồi. Vậy đâu là các chứng cứ ấy? Ian Stevenson,nhà phân tâm học người Mỹ, đă phát hành năm 1979 một tài liệu “thấu đáo” về các hiện tượng “gợi ư” luân hồi. Ông phát biểu hết sức dè dặt khi nói về gía trị của các chứng cứ. Có lẽ nên nói về những hiện tượng có thể định hướng trong ư nghĩa nầy là “có tính chất chỉ thị”. Như vậy,khá nhiều lần người ta chỉ ra hiện tượng nầy vốn xăy ra cho mỗi người vào một lúc nào đó: trong một ḥan cảnh nhất định,chúng ta có cảm giác xa lạ v́ đă gặp hoặc đă sống nó rồi. Và có những trường hợp của hiện tượng gây ngạc nhiên một cách đặc biệt . Ví dụ,một người đang đọc một cuốn sách mà ngườI đó không biết,anh ta nhận biết tất cả những ǵ ḿnh đọc và có thể kể lại sau đó. Rất nhiều những hiện tượng nầy được giải thích bằng siêu h́nh học . Người ta c̣n gặp thấy nó cả trong tâm lư học thông thường. Một tri giác xăy ra một lúc nào nhất định,có thể cố định ngay trong trí nhớ và cho cảm tưởng là “đă thấy “rồi. Đó chính là một cái ǵ đă biết. Phân tâm học ,bề phần nó,biết đến những khoa nghiên cứu bệnh lư về kư ức. Hoặc đó là khoa ngọai cảm? Dù là thứ ǵ đi nữa,nếu quả các hiện tượng thụôc lọai “tôi đă sống điều ấy” được xác nhậnh một cách khoa học,th́ không v́ thế mà chứng minh được rằng sự giải thích duy nhất và đúng đắn phảI t́m ở trong luân hồi.

   Đôi khi nó nại đến trường hợp những con người (nhất là các trẻ em) nhận ra những đồ vật không thuộc về ḿnh. Chính như vậy mà, để kế vị Đức Đạt-lai Lạt-Ma,lănh tụ tinh thần của Phật-tử Tây Tạng, người ta t́m kiếm một bé trai nhận ra tức khắc một số đồ đạc vốn thuộc về Đức Đạt Lai Lạt-Ma qúa cố. Em bé ấy được coi là hiện thân luân hồi của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Thực tế,có những đứa trẻ có những thiên hướng văn chương hoặc âm nhạc đặc biệt mà chúng không thể tự có,hoặc nói tiếng ngọai quốc.Phải chăng có sự chuyển giao tư tưởng, sự nhạy cảm theo cách đồng cốt, thần giao cách cảm? Ở đây cũng thế,câu hỏi được đặt ra. Trong cùng trật tự tư tưởng, người ta lấy ra những yếu tố phụ h́nh thái học đặc trưng của những người quá cố,mà người ta t́m thấy được lại nơi các trẻ em.Thật lạ lùng!Nếu sự việc được xác lập một cách khoa học,th́ có lẽ là phải t́m kiếm theo hướng cơ-thể-hóa,nghĩa là các h́nh ảnh hoặc cảm xúc đền từ bà mẹ và được diễn đạt trong thân thể của đứa bé. Các dấu thánh của các thánh chẳng phải là điều ǵ tương tự như thế sao? Tất cả những giả thuyết nầy cần được xác minh thẩm tra.

   Người ta c̣n nại đến trường hợp những người nói chắc chắn họ nhớ về một quá khứ không phải là của họ. Hẳn nhiên,việc lừa đảo thô thiển không bao giờ bị lọai trừ. Nhưng ngay nếu không phải trường hợp đó,th́ những giả thuyết có tính giải thích khác luân hồi cũng có thể tiến hành.Chẳng hạn không thể ḥan ṭan lọai trừ ảnh hưởng của ngườI chết trên người c̣n sống.

    Luân hồi là một cách hiểu,không phảI một nhận định.Hơn nữa, nếu nó là một mẫu mực cho việc giải thích,th́ các mẫu mực khác cũng ḥan ṭan có thể.Không có kết luận bắt buộc ủng hộ luân hồi.

    LUÂN HỒI VÀ NHĂN QUAN VŨ TRỤ THẾ GIỚI.

   Song song với các “sự kiện được xác lấp” nầy,người ta thường gợi lên sự tương đồng sâu xa giữa luân hồi và một nhăn quan áp dụng chung cho cả con người lẫn vũ trụ. Theo họ,luân hồi nhập một cách tuyệt vời vào các nhịp sống của vũ trụ. Quả thật trong vũ trụ hiện hữu một chu kỳ lớn lao của sự sống và sự chết,của sự phục hưng và tàn lụi.Cái chết của hữu thể nầy đồng nghĩa với sự sống của một hữu thế khác. Vũ trụ là  một tiếp diễn những quan hệ nhân quả được xích chặt với nhau,những cấu trúc kết nối và tan ră luôn luôn mới mẻ. Tại sao con người lại không như thế chứ,trong khi rơ ràng nó chỉ là một nhân tố của vũ trụ? Học thuyết không kém phần lôi cuốn.Nhưng ư nghĩa cuộc đời tôi là ǵ trong cái viễn tượng nầy? Các hành vi của tôi có hay không một giá trị duy nhất và quyết định?      

(c̣n tiếp một kỳ)

 

 

T̀M HIỂU KINH THÁNH

 

            ĐỀ 5:

THÁNH PHAOLÔ

CON NGƯỜI CỦA TIN MỪNG

 

Đọc các thư của thánh Phaolô chúng ta nhận thấy thánh nhân là người có ư thức cao độ về vai tṛ riêng là người loan báo tin vui: Thiên Chúa cống hiến ơn cứu độ cho mọi người qua Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô là sứ giả Tin Mừng trong nghĩa đen của từ ”euangellion”. Ư thức đó mạnh mẽ tới độ Phaolô viết trong chương 1,17 thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô: ”Thật ra Chúa Kitô không gửi tôi đi rửa tội, nhưng là để loan báo Tin Mừng”.

          Tuy nhiên, ở đây Phaolô không hiểu việc loan báo Tin Mừng như là thông báo tin vui cứu độ bằng lời nói. Tin Mừng mà thánh nhân rao giảng không chỉ là lời rao giảng đề cập tới sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa, cái chết và sự sống lại của của chúa Kitô, mà là lời của chính Thiên Chúa và là lời của Chúa Kitô. Chính Thiên Chúa và Chúa Kitô nói với mọi người qua Tin Mừng, mà thánh nhân loan truyền. Do đó không phải thánh Phaolô mà chính Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu phục sinh loan báo Tin Mừng cứu độ. Xác tín này khiến cho Phaolô khẳng định với tín hữu Côrintô trong chương 5,18-20 thư thứ hai gửi cho họ rằng: ”Tất cả mọi sự đến từ Thiên Chúa là Đấng đă ḥa giải trần gian với Ngài qua Đức Kitô và đă trao phó cho chúng tôi bổn phận phục vụ sự ḥa giải đó. Phải, chính Thiên Chúa ḥa giải trần gian với Ngài qua Đức Kitô, bằng cách không chấp tội lỗi loài người nữa, và đặt trên môi miệng chúng tôi sứ điệp ḥa giải. V́ thế chúng tôi là đại sứ của Chúa Kitô, và chính Thiên Chúa khuyến khích qua miệng của chúng tôi”. Như thế thánh Phaolô muốn nói rằng lời thánh nhân rao giảng có cùng sự hữu hiệu như lời tạo dựng của Thiên Chúa. Do đó ngài viết trong chương 2,13 thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalonica: ”... khi tiếp nhận lời Thiên Chúa do chúng tôi rao giảng, anh chị em không tiếp nhận như lời của con người trần gian, mà như lời của Thiên Chúa”. Và thánh nhân khẳng định ngay trong chương 1 thư gửi tín hữu Roma rằng: Tin Mừng ngài rao giảng chính ”là quyền năng của Thiên Chúa nhằm đem lại ơn cứu độ cho tất cả những ai tin” (Rm 1,16).

          Ḷng tin như một dấn thân cá nhân có ư thức tuân giữ các giáo huấn của Chúa Giêsu, đó là điều kiện khiến cho tín hữu được ơn cứu độ, như thánh Phaolô khẳng định trong chương 15 thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô: ”Tôi xin nhắc cho anh chị em nhớ Phúc Âm tôi đă rao giảng và anh chị em đă tin nhận cùng tuân giữ vững vàng. Nếu anh chị em tuân giữ như tôi đă rao giảng th́ anh chị em sẽ được cứu rỗi. Nếu không anh chị em có tin cũng vô ích” (1 Cr 15,1-2). Ư thức cao độ về nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cứu độ đó c̣n đẩy thánh Phaolô đi xa hơn nữa. Một đàng, Phaolô khẳng định rằng Tin Mừng cứu độ mà ngài rao giảng chính ngài cũng đă nhận được từ truyền thống tông đồ, như viết trong cùng chương 15 thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô: ”Trước hết tôi truyền lại cho anh chị em điều tôi đă nhận được: đó là Chúa Kitô đă chết v́ tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh. Ngài đă được an táng trong mồ và đă sống lại ngày thứ ba, đúng như lời Kinh Thánh. Ngài đă hiện ra với Kêpha và hiện ra với Mười Hai Tông Đồ” (1 Cr 15,3-5). Đàng khác, thánh nhân cũng khẳng định rằng nó là Tin Mừng của ḿnh, hay đúng hơn ”Tin Mừng của chúng tôi” (Rm 2,16; 2 Cr 4,3), trong nghĩa là Tin Mừng thánh nhân và các cộng sự viên rao giảng cho các anh chị em không do thái.

          Khẳng định này quan trọng, bởi v́ nó cho chúng ta thấy tiến tŕnh giải thoát Tin Mừng của Chúa Kitô khỏi mọi ràng buộc của một nền văn hóa nhất định, hồi đó là nền văn hóa và các đ̣i buộc của luật lệ do thái, để khiến cho Tin Mừng trở thành Tin Mừng đại đồng, có thể hội nhập vào mọi nền văn hóa khác trên thế giới. Những ǵ thánh Phaolô nói với tín hữu Galát trong các chương 2 và 3 chứng minh cho bước tiến quan trọng này. Để giải quyết xung khắc do một nhóm kitô hữu gốc do thái từ Giêrusalem tới Antiokia gây ra, Phaolô và Barnabê đă về Giêrusalem tŕnh bầy vấn đề. Hai vị cho hàng lănh đạo Giáo hội Giêrusalem lúc đó là Giacôbê, Phêrô và Gioan thấy rằng yêu sách bắt các Kitô hữu không do thái phải tuân giữ luật lệ do thái, trong đó có luật cắt b́, là điều vô lư. Nội vụ đă được giải quyết khi giới lănh đạo Giáo Hội Giêrusalem đồng ư với Phaolô và Barnabê phân chia công tác rao truyền Tin Mừng. Phêrô và các vị khác truyền giáo cho các anh chị em gốc do thái, c̣n Phaolô và Barnabê rao giảng Tin Mừng cho các anh chị em không do thái. Tính chất đại đồng của Tin Mừng cứu độ và sự hiệp nhất trong khác biệt ấy được thánh Phaolô nêu bật trong chương 3 thư gửi tín hữu Galát: ”Khi đức tin xuất hiện rồi th́ chúng ta không c̣n phải nằm dưới ách của luật lệ nữa. Bởi v́ do ḷng tin vào Chúa Kitô anh chị em hết thảy là con cái Thiên Chúa. Phải, tất cả anh chị em đă chịu phép Rửa tội trong Chúa Kitô th́ đều được mặc lấy Chúa Kitô. Không c̣n phân biệt người Hy lạp hay người Do thái, nô lệ hay tự do, nam giới hay nữ giới nữa. V́ hết thảy anh chị em chỉ là một với Chúa Giêsu Kitô” (Gl 3,25-28). Đây không phải là một yếu tố phụ thuộc mà là sự thật của Tin Mừng (Gl 2,5.15).

 Sở dĩ thánh Phaolô đă phải đưa ra các khẳng định rơ ràng và quyết liệt như trên, v́ hồi đó có một nhóm kitô hữu gốc do thái t́m lung lạc tinh thần của kitô hữu Galát bằng cách rao giảng lập trường bắt buộc anh chị em không do thái theo Kitô giáo phải tuân giữ luật lệ Do thái giáo. V́ thế ngay trong chương đầu thư gửi cho họ thánh Phaolô đă xác quyết rằng: ”Không có một Tin Mừng khác đâu. Chẳng qua chỉ có mấy người gieo hoang mang giữa anh chị em và muốn xuyên tạc Tin Mừng của Chúa Kitô thôi. Nhưng cho dù chính chúng tôi hay một thiên thần từ trời xuống loan báo một Tin Mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đă loan báo cho anh chị em, th́ kẻ đó đáng bị loại ra khỏi cộng đoàn dân Chúa!” ( Gl 1,7-8).

           Nhiệt tâm đối với việc rao giảng Tin Mừng cứu độ khiến cho thánh Phaolô tận hiến trọn tâm hồn và thân xác, mọi sức lực và tài năng của ngài cho công tác truyền giáo. Phaolô không ngần ngại đương đầu với nhóm kitô hữu gốc do thái qúa khích len lỏi vào trong cộng đoàn Côrintô để gieo hoang mang và đánh phá cộng đoàn do thánh nhân nhọc công xây dựng. Thánh Phaolô đă đau đớn ghi nhận sự suy thoái và rạn nứt giữa cộng đoàn. Trong chương 11 thư thứ hai gửi cho họ Phaolô nói ngài phải bất đắc dĩ tự khoe khoang và so sánh khả năng và công lao của ngài với bọn tông đồ giả hiệu, để cho tín hữu Côrintô thấy mặt nạ gian dối thâm độc của họ. Bởi v́ không những họ vu khống và triệt hạ uy tín thánh nhân trước mặt tín hữu, mà c̣n muốn lôi kéo các tín hữu theo các lập trường sai lạc phản tinh thần Tin Mừng của Chúa Kitô. Phaolô phải lột mặt nạ của họ, v́ ngài ”sợ rằng như con Rắn xưa đă dùng mưu chước qủy quyệt lừa dối Evà thế nào, th́ ḷng trí tín hữu Côrintô cũng sẽ dần dần ra hư hỏng và mất sự ngay thẳng trước mặt Chúa Kitô như thế”. V́ vậy thánh nhân phân bua với tín hữu Côrintô: ”Họ khoe họ là các thừa tác của Đức Kitô ư? Tôi sắp nói như người điên dại, tôi c̣n hơn họ v́ tôi đă vất vả nhiều, v́ tôi đă bị tù đầy tra tấn cực khổ, v́ tôi đă bao phen chết hụt. Tôi bị người do thái đánh tôi bằng gậy năm lần, mỗi lần ba mươi chín gậy. Tôi bị đánh bằng roi da ba lần, bị ném đá một lần, bị đắm tầu ba lần, tôi đă bị xiêu bạt một ngày một đêm trên biển cả” ( 2 Cr 11,23-25).

          Chương 9,19-23 thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô là một trang tiểu sử khác cho chúng ta thấy qủa thật Tin Mừng cứu độ là đích điểm duy nhất trong cuộc đời thánh Phaolô. Thánh nhân hy sinh tất cả, chịu đựng tất cả, liều mất tất cả, miễn là mọi người được lắng nghe Tin Mừng. Ngài viết: ”Phải, là người tự do đối với mọi người, nhưng tôi đă tự nguyện làm đầy tớ mọi người, để chinh phục được nhiều linh hồn hơn. Đối với người Do thái, tôi trở nên người Do thái, hy vọng chinh phục được họ. Tuy tôi không phải giữ Lề Luật, nhưng đối với các kẻ phải giữ Lề Luật tôi trở nên kẻ giữ Lề Luật, để chinh phục những kẻ phải giữ Lề Luật. Đối với những kẻ không có Lề Luật, tôi trở nên như người sống ngoài ṿng pháp luật để chinh phục những người không có lề luật, mặc dầu tôi không phải là người vô pháp luật trước mặt Chúa, bởi v́ Chúa Kitô là luật lệ của tôi. Với những người yếu đuối, tôi trở nên yếu đuối để cứu vớt các kẻ yếu đuối. Tôi đă trở nên tất cả trong mọi người, hy vọng bằng mọi giá cứu vớt được ai đó. Và tôi làm mọi điều ấy v́ loan báo Tin Mừng, để cùng được kẻ khác chia sẻ Tin Mừng ấy”

          Nhưng chúng ta sẽ lầm to, nếu chúng ta cho thánh Phaolô là một nhân vật đặc biệt, một con người có các lư tưởng siêu vời hay một người hùng, trong nghĩa tôn thờ thần tượng, như rất thường xảy ra trong giới truyền giáo lưu động thời đó. Không, Phaolô tự cho ḿnh là một người bị bắt buộc phải rao giảng Tin Mừng, như viết trong chương 9,16 thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô: ”Thật ra, đối với tôi rao giảng Tin Mừng không phải là lư do để khoe khoang kiêu hănh. Nhưng, nó là một bổn phận: khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. C̣n hơn thế nữa trong chương 1 thư gửi tín hữu Roma, thánh nhân gọi ḿnh là ”nô lệ của Đức Giêsu... được chọn lựa để rao giảng Tin Mừng của Chúa” (Rm 1,1), và mắc nợ mọi người ”người Hy lạp, cũng như các dân rợ, người khôn ngoan cũng như người vô học” (Rm 14). Trong chương 15 thư gửi giáo đoàn Roma thánh nhân cũng tự định nghĩa là ”thầy tế lễ của Tin Mừng” và là ”người biến các anh chị em không do thái trở thành một lễ vật đẹp ḷng Thiên Chúa và được Thánh Thần thánh hóa” (Rm 15,16).

                                                                                                                     Linh mục Giuse LINH-TIẾN-KHẢI

TRONG SỐ 17 , ĐỀ TÀI 6:

GƯƠNG MẶT XĂ HỘI CỦA CÁC CỘNG ĐOÀN KITÔ TIÊN KHỞI

 

CHIA S

 

MÓN HÀNG BỊ HỎNG                                                                                                                                                                                                        

 

                                                                                                                           Joanna Slan

    Những hạt bụi nhỏ nhảy múa trong tia nắng mặt trời vốn cung cấp ánh sáng duy nhất cho văn pḥng vị giáo sĩ Do Thái. Ông đu đưa ra sau trong chiếc ghế trong văn pḥng và thở dài trong khi vuốt bộ râu cằm. Rồi ông lấy cặp kính cột dây níu và lơ đăng chùi bóng nó trên chiếc áo sơ mi vải flannel.

   Ông nói: “vậy là Cô đă ly dị. Nay Cô lại muốn lấy cậu chàng Do Thái tốt lành nầy. Vấn đề là ǵ nhỉ?”. Hai tay ôm lấy cái cằm râu đă hoa râm, Ông dịu dàng mỉm cười với tôi.

   Tôi muốn la lên. Vấn đề ǵ kia chứ? Trước hết,tôi lả người Kitô-hữu. Thứ đến, tôi nhiều tuổi hơn chàng. Thứ ba – cũng chưa phải là hết đâu- tôi đă ly dị! Thay v́ thế, tôi quay lại nh́n vào cặp mắt dịu dàng của ông và cố sắp xếp lời nói.

   Tôi lắp bắp:” Ngài không cho rằng ly dị cũng giống như đă xài rồi đấy chứ? Giống như là món hàng đă bị hư hại chứ?”.

   Ông ta ngồi vào lại chiếc ghế văn pḥng và ưỡn người ra đến mức nh́n lên trần nhà. Ông vuốt hàm râu lởm chởm phủ má và cổ. Sau đó, ông ta quay lại vị trí phía sau bàn làm việc và cúi về phía tôi. “ Cô hăy cho tôi biết nếu cần phải phẩu thuật và Cô được lựa chọn giữa hai bác sĩ. Cô sẽ chọn ai? Một người vừa mới ra trường và một người có nhiều kinh nghiệm?”.

  Tôi trả lời:”Người có nhiều kinh nghiệm”.

  Gương mặt ông cười nhăn lên. “Tôi cũng sẽ làm như thế. Vậy trong hôn nhân,Cô là người có nhiều kinh nghiệm.Cô biết đấy: Đó chẳng phải là điều không tốt đẹp. Thông thường,các đôi hôn phối có khuynh hướng buông trôi. Họ bị cuốn vào trong những ḍng chảy nguy hiểm. Họ gắng thoát khỏi ḍng sông và hướng về những dăi cát ngầm. Không ai để ư cho đến khi đă quá muộn. Trên gương mặt Cô, tôi thấy sự đau khổ của một cuộc hôn nhân thất bại. Cô sẽ kêu to khi thấy những tảng đá.  Cô sẽ la hét lên để đề pḥng và chú ư. Cô sẽ là người có nhiều kinh nghiệm”. Ông thở dài:”Và hăy tin tôi đi: Điều ấy chẳng tồi đâu! Không tồi chút nào!”

   Ông đi về phía cửa sổ và nh́n giữa hai miếng gỗ của bức mành sáo.”Cô thấy đó: không ai ở đây hiểu về người vợ đầu tiên của tôi. Tôi không giấu diếm điều ấy,nhưng tôi không đặt nặng vấn đề lắm. Cô ấy mất sớm sau khi chúng tôi kết hôn,trước lúc tôi chuyển nhà về đây. Bây giờ cứ mỗi đêm về sáng,tôi nghĩ về tất cả những lời tôi chưa hề nói. Tôi nghĩ về tất cả những cơ hội mà tôi đă lỡ mất trong cuộc hôn nhân đầu tiên ấy và tôi tin ḿnh là người chồng tốt đối với người vợ hiện nay,cũng là nhờ người vợ tôi đă mất”.

    Lần đầu tiên nỗi buồn trong đôi mắt ông có ư nghĩa. Giờ đây tôi đă hiểu v́ sao tôi đă chọn để đến nói với người đàn ông nầy về hôn nhân thay v́ theo con đường dễ dăi là kết hôn ở ngoài cả hai đạo của chúng tôi. Chữ “Giáo sĩ Do Thái” (Rabbi) có nghĩa là thầy dạy. Một cách nào đó tôi cảm thấy ông có thể dạy dỗ tôi hoặc kể cả giúp tôi có được can đảm mà tôi cần có để thử lại lần nữa, kết hôn lần nữa và yêu lần nữa.

    Vị giáo sĩ nói: “Tôi sẽ cử hành hôn lễ cho Cô và anh chàng David của Cô,nếu như Cô hứa với tôi rằng Cô sẽ là người la to lên khi Cô nh́n thấy cuộc hôn nhân gặp nguy hiểm”.

   Tôi đă hứa với ông sẽ làm như thế và tôi đứng dậy để ra về. Khi tôi đang ngập ngừng ở cửa pḥng ông,th́ ông nói với theo: ” Đă có ai nói với Cô rằng Joanna là một tên tiếng Do Thái rất đẹp chưa?”.

    Mưởi sáu năm kể từ khi Vị giáo sĩ Do Thái làm lễ cưới cho tôi và David vào một ngày mưa một sáng Tháng Mười. Vâng, tôi đă gọi to lên nhiều lần, khi cảm thấy chúng tôi đang gặp nguy hiểm. Toi6 muốn kể cho Vị giáo sĩ nghe lời gợi ư của ông đă giúp tôi nhiều thế nào,nhưng tôi không thể. Ông đă qua đời hai năm

sau khi chúng tôi thành hôn. Nhưng tôi sẽ luôn biết ơn Ông về món quà vô giá mà ông đă cho tôi: sự khôn ngoan để biết rằng tất cả moị kinh nghiệm của chúng ta trong cuộc đời không làm chúng ta mất giá trị, nhưng có giá trị hơn, không bớt khả năng yêu thương,nhưng thêm khả năng yêu thương hơn

GỢI Ư SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT V MÙA CHAY

 

“KHÔNG AI KẾT ÁN CHỊ Ư?”

 

Các kư lục và biệt phái chỉ có một chủ định duy nhất: làm cho Chúa Giêsu bị kết án. Họ biết Người yêu thương các tội nhân và những người nầy rất yêu mến Người,nhưng Vị Tôn Sư đă cho thấy Người c̣n đ̣i hỏi khắt khe hơn cả Môisê nữa:” Ai nh́n một phụ nữ và ước ao phạm tội với người ưữ ấy, th́ đă phạm tội ngoại t́nh với người nữ ấy trong ḷng” (Mt 5,28).(+)

  Một cơ hội không hề mong đợi đă tới: một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại t́nh. Theo luật Môisê, người nam và người nữ phải chết,nhưng các biệt phái kéo lê người phụ nữ đến tận chỗ Người. Đấng Cứu Thế sẽ nói ngược lại với Luật Môisê và Bài Giảng Trên Núi của chính Người ư? Người ta chờ đợi lư lẽ với con tim Người đưa ra,một lần nữa, theo kiểu Thiên Chúa, trong chiều hướng đứa con hoang đàng được t́m thấy lại,như ta đă nghe trong lễ Chúa Nhật vừa rồi.

   Quả thực hai vụ kiện đang diễn ra trước mắt chúng ta: vụ tố tụng người nữ và vụ tố tụng Chúa Giêsu. Cả hai có khả năng bị chết: một người do tội ngoại t́nh; một người do tội phạm thượng, nếu như Người chống lại luật mà Thiên Chúa đă ban cho Môsê. Như khi đứng trước Philatô, Chúa Giêsu chọn giữ im lặng. Người sẽ được Thiên Chúa và Kinh Thánh phục hồi,nâng dậy và tôn vinh. Thuật tŕnh xác định rằng “Người dùng ngón ta viết trên mặt đất” (+)

  Sự im lặng của Người tránh cho ngựi phụ nữ sự bẽ mặt của vụ kiện tụng mà người ta muốn gài Người vào. Người cũng chẳng ngước mắt nh́n chị;Người cúi xuống và viết. Bởi v́ một số nhất định hỏi cho bằng được, Người đem họ quay về với lương tâm của họ: Người biết rằng tất cả đều là tội nhân trước mắt Thiên Chúa. Người lại cúi xuống để viết. Người ta không rơ Người viết những ǵ. Những lời tố cáo chẳng đâu vào đâu? Có phải ngón tay nhân loại của Thiên Chúa đang ghi lên trái đất chúng ta Luật mới? Đối với Chúa Giêsu cũng như với người phụ nữ, việc viết chữ nầy sẽ là lời biện hộ duy nhất và tốt nhất.

    Cuối cùng, hồi kịch được khởi đầu với lối xử sự thô bạo ác liệt, đă kết thúc trong an b́nh sâu thẳm nhất. “Chúa Giêsu c̣n lại một ḿnh với người phụ nữ trước mặt Người”. Sự lầm than khốn cực  - sự lầm than của chúng ta - đối diện với ḷng nhân hậu xót thương.  Vết thương được phô ra dưới mắt Thiên Chúa. Ngay lập tức được chữa lành: ”Chị hăy đi và từ nay đừng phạm tội nữa

                                                                                                                                        Bernard Lafrenière, c.s.c.

 

+ Các bản chép tay tiếng Hy lạp cổ xưa nhất bỏ đoạn tường thuật nầy về người phụ nữ ngoại t́nh,mà người ta t́m thấy trong hầu hết các bản dịch La-tinh,thỉnh thoảng trong Thánh Gioan hoặc ngay cả ở phần cuối Phúc Âm Thánh Luca. Dù trhế Giáo Hội luôn công nhận đoạn nầy như quy chuẩn

+ Egraphen eis tèn gèn. Các bản chuyển ngữ mới nhất, chẳng hạn sách lễ canada tiếng Anh và ngày càng nhiều sử gia  thừa nhận đơ thuần rằng Chúa Giêsu đă viết.

+ Như rất nhiều nền văn minh xưa,luật Môsê không khoan nhượng:” Nếu người ta bắt quả tang một người đàn ông ngủ với một người nữ đă có chồng, cả hai sẽ chết, cả người nam đă ăn nằm với ngựi đàn bà và cả người đàn bà đó. Ngươi phải cất sự dữ nầy khỏi Israel” (Đnl 22,22)

 

 

LỊCH SỬ PHỤNG VỤ

LỄ TRUYỀN TIN

Lễ Truyền tin được mừng đầu tiên tại Giáo hội Đông phương vào Chúa nhật I mùa Vọng từ thế kỷ IV hay thế kỷ V để kính nhớ mầu nhiệm Nhập Thể. Đến thế kỷ VII, lễ này lan sang Giáo hội Tây phương để kỷ niệm Đức Trinh Nữ Maria chịu thai Ngôi Lời Nhập Thể, đồng thời kỷ niệm Chúa Kitô được xức dầu làm Thượng Tế và làm Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người. Đức Thánh Sergiô I lập bốn lễ: Lễ Đức Mẹ tịnh tẩy, dâng Con vào đền thờ, lễ Truyền tin, lễ Sinh nhật Đức Mẹ, và lễ Đức Mẹ lên trời. Mỗi dịp lễ này, ngài truyền dạy tổ chức cuộc rước Đức Mẹ từ nhà thờ Thánh Adrianô về đền thờ Đức Bà Cả tại Rôma. Thánh Phêrô Kim ngôn đă giảng nhiều trong lễ Truyền tin.

Thánh Augustinô đă đề nghị mừng lễ Truyền tin vào ngày 25 tháng 3 cho đúng chín tháng trước lễ Giáng sinh, nhưng Giáo hội Tây Ban Nha không đồng ư, nên Công đồng Toleđô năm 656 ấn định mừng tám ngày trước lễ Giáng sinh rồi đổi sang ngày 18 tháng Giêng để tránh mùa Chay.

 Đức Bênêđictô XIV ra sắc lệnh ấn định khắp Giáo hội mừng lễ Truyền tin vào ngày 25 tháng 3 theo Thánh Augustinô đă đề nghị và như ngày nay.

Năm 1884 Công đồng Baltimore quyết định lễ Truyền tin ngày 25 tháng 3 là lễ nghỉ và lễ buộc cho Giáo hội Hoa Kỳ.