THÁNG SÁU - THÁNG TÔN THỜ
THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU
TRÁI TIM
ĐỨC CHÚA GIÊSU
LÀ VUA CAI TRỊ VÀ
CĂN BẢN L̉NG MỌI NGƯỜI
Trong
số nầy.
1.
TIN TỨC HỘI THÁNH CÔNG-GIÁO
2.
GIỚI THIỆU
► NẾU THIÊN CHÚA LÀ T̀NH YÊU, TẠI
SAO CÓ ĐAU KHỔ?
► MỘT GIÁO HỘI CHO TRUNG-QUỐC (phần I)
► T̀M HIỂU KINH THÁNH.
ĐỀ 16:
TÍNH CHẤT XÁC
THỰC VÀ SỰ THỐNG NHẤT
TRONG
CÁC THƯ CỦA THÁNH PHAOLÔ
◙ PHỤ LỤC :
GỢI Ư SUY
NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT XI TN.C
◙ PHỤ TRANG:
VIỆT-NAM 7
NGÀY QUA
MỘT THANH NIÊN T̀M CÁCH LEO LÊN XE
CỦA ĐỨC THAN1H CHA
( Zenit 07.06) Một
du khách người Đức 27 tuổi, đội mũ
bóng chày, đă t́m cách leo lên xe của Đức Thánh Cha sau
khi vượt qua hàng rào an ninh cách xe một mét. Lập
tức anh ta bị người đội trưởng
đội Cận Vệ Thuỵ Sĩ bắt giữ và sau
đó giao cho bệnh viện tâm thần Roma chăm sóc.
Đức Thánh Cha h́nh như vẫn không hay biết về
những ǵ xảy ra phia sau xe. Anh thanh niên không có ư
đồ bạo lực,mà có lẽ chỉ muốn làm
nỗi bật.
ĐỨC
GIÁM MỤC GIÁO HỘI THẦM LẶNG LẠI BỊ
BẮT LẦN THỨ 9
(CWNews 07.06) Một
nhân vật chủ chốt của Giáo Hội Công-giáo
thầm lặng ở Trung Quốc lại bị bắt
lần thứ 9 trong thời gian ba năm. Đó là tin do Hội
Hồng Y Kung đưa. Đức Cha Julius Jia Zhiguo của
giáo phận Zhengdinh được đưa tin cho biết
là bị bắt giữ vào ngày 05.06 và hiện vẫn
chưa biết nơi Ngài bị giam giữ. Đức giám
mục là một trong các nhà lănh đạo Công giáo có thể
nh́n thấy nhất ở tỉnh Hoa Bắc, ngoại vi
Bắc Kinh. Giáo Hội thầm lặng đặc biệt
tích cực ở Hoa Bắc và các nhà cầm quyền
địa phương đă
thường xuyên bắt giữ các giám mục và linh
mục, ép buộc các Ngài phải thừa nhận Hội
Công-giáo yêu Nước được chính phủ hậu
thuẩn. Đức Cha Gia bị bắt vào tháng 11.2005 và
giam giữ cho đến tháng chín.2006. Khi được
thả, Ngài bị quản thúc tại gia và bị hạn
chế tối đa các hoạt động. Vị giám
mục 73 tuổi nầy đă trải qua gần tṛn 20
năm trong lao tù.
SIÊU NGƯỜI MẪU BA-TÂY
CHẾ NHẠO TRINH TIẾT
(CWNews 07.06) Một
siêu người mẫu người Ba-Tây,Gisele Bundchen,
đă tạo ra sự xáo động nơi quê nhà cô với
việc chế nhạo giáo huấn Giáo Hội Công giáo
về t́nh dục. Cô đă cho biết quan niệm của cô
về ngừa thai, nạo phá thai và t́nh dục tiền hôn
nhân. Cô người mẫuthông báo rằng t́nh dục
tiến hôn nhân nơi đâu cũng có:”ngày nay không có
người phụ nữ nào c̣n trinh tiết khi lập gia
đ́nh. Hăy chỉ cho tôi một ai đó c̣n trinh”.
Được hỏi về chuyện phá thai, cô nói
rằng người phụ nữ nên có quyền quyết
định điều ǵ là tốt nhất cho cô ta.
"Nếu cô gái thấy không có đủ tiền hoặc
đủ điều kiện về t́nh cảm để
nuôi dạy một đứa trẻ, th́ sinh em bé làm
ǵ?". Ngày 08.06, siêu sao bóng đá người Ba-tây Kaka
đă đưa ra một lời tuyên bố ngược
lại, khi thông báo rằng anh và vợ anh vẫn giữ
trinh tiết khi họ cưới nhau. Trong một cuộc
phỏng vấn cho tờ Vanity
Fair, thần tượng bóng đá nói rằng anh và
người vợ Caroline đă chờ đợi cho
đến khi lấy nhau và “thời gian ấy là quan
trọng,v́ nó chứng thực t́nh yêu của chúng tôi”.Anh
nói:”Thánh kinh dạy rằng t́nh yêu đich thực chờ
đợi cho đến hôn nhân.. Nếu cuộc sống
ngày nay của chúng tôi đẹp đẽ dường
ấy, tôi cho rằng là v́ chúng tôi đă biết chờ
đợi”.
MỘT “GHETTO” TRONG VÙNG
ĐỒNG BẰNG NINIVÊ ĐỂ CỨU CÁC KITÔ-HỮU
IRAQ
(AsiaNews 08.06) Các nhóm
làm chính trị ở Mỹ và ở Châu Âu đang
đẩy mạnh việc thành lập một “vùng Assryri”
ở miển Bắc Iraq gần biên giới với
Kurdiatan. Để đạt mục đích, họ khai thác
việc bách hại chống lại Kitô-giáo để
khẳng định sự cấp bách phải thực hiện
kế hoạch của họ. Một dự án
được kêu gọi bởi những kẻ chỉ
biết rất ít về t́nh h́nh ở Iraq. Tuy vậy
chương tŕnh nầy không nhận đưộc sự
ủng hộ của người Công-giáo trong và ngoài
nước, cho rằng đây là một chương tŕnh
“ma quái và nguy hiểm”. Đối với một số người,
dồn cộng đồng Kitô-giáo vào ghetto/ vùng đệm
giữa người Ả rập và người Kurd ở
phía Bắc xem ra là giải pháp duy nhất để cứu
người Kitô-hữu. Kể từ khi chiền dịch
bài Kitô-giáo trở nên đủ tàn bạo để trở
thành điểm nỗi bật của các phương
tiện truyền thông quốc tế, ngày càng nhiều bài
viết và tin h́nh nói về cái cần thiết không thể
tar1nh né nữa, ở thời điểm nầy, là thành
lập một nơi ẩn náu an toàn cho thiểu số
nầy.
TRUNG
TÂM THÁNH MẪU SRI LANCA TRỞ THÁNH “KHU VỰC HOÀ B̀NH”
(AsiaNews 07.06) Trong
một cuộc gặp gỡ với các giám mục Công-giáo,
Tổng thống Rajapakse chấp thuận đề
xuất của Giáo Hội bảo đảm an toàn cho các
khách hành hương đến viếng Linh Địa Thánh
Mẫu nỗi tiếng nhất ở quốc đảo
nầy. Không chỉ các Kitô-hữu,mà cả phật-tử
và tín đồ Ấn giáo đều hân hoan, hy vọng
rằng những lời hoà b́nh nầy không chỉ là
lời tuyên bố suông,nhưng biền thành hành động
cụ thể. Giáo Hội Công giáo đưa ra đề
nghị nầy tiếp theo xung đột leo thang trong vùng
giữa quân đội Sri Lanca và phiến quân Con Hổ
Tamil. Linh điạ nằm trong một khu rừng thuộc
giáo phận Mannar, khoảng 200 cây số về phía bắc
thủ đô trong một vùng thường xuyên bị
phiền quân kiểm soát.
VATICAN
XÂY NHÀ DÙNG NĂNG LƯỢNG MẶT TRỜI
(Tuoitre 09.06) Giáo hoàng
Benedict XVI sẽ trở thành giáo hoàng đầu tiên trên
thế giới sử dụng năng lượng mặt
trời cho ṭa thánh Vatican. Theo đó, phần mái nhà của
thính pḥng của giáo hoàng Paul VI sẽ được thay
bằng pin quang điện để chuyển đổi
ánh sáng mặt trời thành điện, đủ
để chiếu sáng, sưởi và làm mát căn pḥng.
Việc thay thế này sẽ được thực
hiện vào năm tới. Năm ngoái, giáo hoàng Benedict XVI
đă kêu gọi những người Thiên chúa giáo không nên
lăng phí nguồn tài nguyên của thế giới. Ông cho
rằng những thiệt hại về môi trường
đang ảnh hưởng đến “cuộc
sống của những người nghèo trên trái
đất”.Thính pḥng hơn 6.000 chỗ ngồi của
giáo hoàng Paul VI được xây vào năm 1969, do kiến
trúc sư Pier Luigi Nervi thiết kế. Hiện Vatican
đang xem xét lắp đặt các tấm thu năng
lượng mặt trời trên nhiều ṭa nhà khác, trừ
thánh đường Basilica và một số địa
điểm lịch sử khác.
TỔNG
GIÁM MỤC NGƯỜI ÁO TỪ CHỐI QUÀ TẶNG CỦA
TỔNG THỐNG ĐỂ PHẢN ĐỐI NẠO PHÁ
THAI
(CAN 08.06) Đức
tổng giám mục Alois Kothgasser Tổng giáo phận Salzburg
đă từ chối không nhận một món quà sinh nhật
trao như danh dự từ tổng thống Áo, để
phản đối việc thực hành nạo phá thai trên
đất nước. Đức tổng giám mục nói
rằng hành động của Ngài có ư nghĩa để
bày tỏ sự không đồng ư với việc xây
dựng một bệnh viện nạo phá thai do chíng
quyền vùng tài trợ từ nhiều năm qua. “Ngài nói
trong chương tŕnh Report
của Đài Truyền h́nh ORF:” Việc bảo vệ
sự sống trong mọi giai đoạn của nó không
phải là một một đề tài đưa ra tranh
luận. Quyền con người tự khẳng
định ḿnh không thể bao gồm việc có thể
giết một sinh linh khác”.
ĐỨC
THÁNH CHA CA NGỢI TÂN THỦ LĂNH GIÁO HỘI SYRO-MALANKARA
(ACN 09.06) Đức
Đáng Kính Baselos Mar Cleemis, người được
bổ nhiệm tháng hai năm nay làm Tổng Giám Mục
Trưởng ở Vùng Tam Giác Nam Ấn Độ và do
đó cũng là tân lănh đạo Giáo Hội Công giáo Malankara
- một Giáo Hội Công giáo Đông Phương hiệp
thông với Roma - được Đức giaó hoàng ca
ngợi v́ cam kết hiệp nhất Kitô-giáo của Ngài.
Chính Đức tổng giám mục nay chính thức mang
tước hiệu “Catholicos”đă
đưa tin nầy cho Hội Từ Thiện Mục
Vụ Công giáo Quốc Tế “Trợ
giúp Giáo Hội Đang Ngặt Nghèo”. Trong một cuộc
gặp gỡ cá nhân với Đức Giáo Hoàng Biển
Đức XVI, vào ngày 28.05 năm nay, Đức Thánh Cha
đă nói với Ngài rằng sự hiện diện và chứng
từ của Giáo Hội Syro-Malankara là vấn đề
sống c̣n và Đức thánh Cha thúc giục Ngài tiếp
tục cuộc đối thoại với các Giáo Hội
Kitô-giáo chị em và với các cộng đồng tôn giáo
ngoài Kitô-giáo.
ĐỨC
HỒNG Y OSCAR RODRIGUEZ MARADIAGA ĐƯỢC BẦU LÀ
CHỦ TỊCH CARITAS.
(Fides 06.06) Ngài
được bầu làm chủ tịch Caritas Quốc
Tế do các thành viên Liên Hiệp ở Đại Hội
lần thứ 18 ở Vatican và sẽ thay thế vị chủ
tịch đương nhiệm Denis Viénot đang
điều hành nhiệm kỳ thứ hai. Grigor Vidmar
được bầu làm thủ qũy Caritas Quốc Tế
và một tân Tổng thư kư cũng sẽ được
chọn. Đức hồng y đă khôg thể tham dự
Đại Hội v́ nó trùng với một hội nghị
của các Giám mục Nam Mỹ. Nói chuyện bằng
điện thoại từ Tegucigalpa, Ngài nói “Tôi ước
mong chuyển tới Đại Hội những lời cám
ơn tự tận đáy ḷng. Tôi đánh giá cao sự giao
phó và sự tin cậy mà Đại Hội dành cho tôi, Trong
Caritas chúng ta phải làm việc cật lực v́ nhu cầu
của người nghèo. Nếu chúng ta là những môn
đệ và thừa sai
thật sự, chúng ta cần phải đề cao
sự dấn thân mục vụ xă hội của tất
cả moị thành viên của chúng ta…Trong ngày kỷ niệm
năm thứ 40 thông điệp Progressio
Populorum,chúng ta phải xúc tiến sự phát triển
như là cách thê để giảm nhẹ và chiến
thắng nghèo đói”. Đức hồng y sinh năm 1942
tại Tegucigalpa, thụ phong linh mục trong Ḍng Salêdiêng ngày
28.06.1970 Ngày 28.10.1978, được chỉ định làm
giám mục hiệu toà Pudentiana và giám mục phụ tá giáo
phận Tegucigalpa và thụ phong giám mục vào ngày 8.12 (36
tuổi). Được nâng lên Tổng giám mục ngày 8.
01. 1993 và chủ tịch CELAM (1995 – 1999). Nhận mũ
hồng y do Đức Gioan-Phaolô II ngày 21.02.2001
ĐỨC
GIÁO HOÀNG TIẾP GIÁM ĐỐC CƠ QUAN NĂNG
LƯỢNG HẠT NHÂN QUỐC TẾ
(Zenit
09.06) Ngày 08.06, Đức Thánh Cha BiểnĐức XVI
đă tiếp kiến trong một buổi triều yết
riêng ở Vatican ông Mohamed El Baradei, người đoạt
giải Nobel Hoà B́nh 2005, tổng giám đốc Cơ Quan
Năng Lượng Hạt Nhân Quóc tế (A.I.E.A) và phu nhân
cùng đoàn tùy tùng. Xin nhắc lại: Toà Thánh là thành viên sáng
lập AIEA từ năm 1957. Theo thông lệ, Vatican không công
khai nội dung của các cuộc trao đổi. Ngày
03.11.2005, Đức giáo hoàng Biển-Đức XVI đă
gửi một thông điệp chúc mừng tới Ông El
Baradei khi ông nhận giải Nobel Hoà B́nh, trong đó
Người tố cáo sự gia tăng hạt nhân nhanh chóng
như là một đe doạ nền hoà b́nh thế
giới.
BÁC
BỎ HƯỚNG DẪN CỦA VATICAN VỀ CÁCH DỊCH
thành ngữ pro multis
(Kath.net 09.06) Các linh
mục ở Rottenburg, Đức, đă bỏ phiếu bác
bỏ cách dịch của Vatican về thành ngữ pro multis trong phụng vụ
Thánh Thể. Hội Đồng linh mục của giáo
phận Rottenburg-Stuttgart đă thông báo rằng các thành viên
Hội Đồng quyết định bằng “một
cuộc bỏ phiếu dân chủ” để giữ
lại cách dịch hiện nay của Đức, pro multis là “cho mọi người”, khác với hướng
dẫn từ Thánh Bộ Phượng Tự. Đức
hồng y Arinze,Tổng trưởng Thánh Bộ, đă
viết thư cho các giám mục trên thê giới vào tháng 11
vừa qua để thông báo rằng tất cả mọi
bản dịch phụng vụ phải đổi pro multis thành “cho nhiều người”. - một cách dịch
chính xác hơn với bản Latinh và với thực tại
thần học, rằng trong khi cuộc khổ nạn
cứu chuộc của Chúa Kitô khiến cho sự cứu
độ trở nên khả dĩ cho mọi người,
th́ không phải tất cả moị người
được cứu độ. Các linh mục ở Rottenburh
lại cho rằng việc dùng thành ngữ “cho
nhiều người” có thể làm làm lẫn lộn
đối với tín hữu “ngày nay”. Họ nói thêm rằng
bản gốc Kinh Thánh được đọc “cho mọi người” trích
dẫn một học giả Tin Lành thế kỷ 18 mà bản phân tích của ông
bị Giáo Hội Công giáo loại bỏ. Họ nói:” Lời
hứa cứu độ được hướng
đến mọi người. Chân lư đức tin nầy
được đưa ra rơ ràng nhất trong câu “cho
mọi người”.
THÀNH LẬP HAI GIÁO PHẬN MỚI Ở ANGOLA
(EMS 11.06) Đức
Thánh Cha Biển Đức đă thành lập hai giáo phận
mới ở VIANA và CAXITO, vùng ngoại ô Luanda. Quyết
định nầy của Đức Thánh Cha là do sự gia
tăng dân số ở thủ đô Angola. Đức Cha
Joaquim Ferreira Lopes,hiện ở giáo phận Dundo,
được thuyên chuyển về giáo phận Viana; trong
khi Đức Cha Antonio Francisco Jaca sẽ cai quản giáo
phận Caxito và sẽ được tấn phong vào ngày
22.07. Như vậy Giáo Hội Công-giáo Angola hiện có 17 giáo
phận.
NGƯỜI
THAY THẾ MỚI CHO QUỐC VỤ KHANH TOÀ THÁNH
(AsiaNews 10.06) Một chuyên gia về Trung-Quóc
vụ và về Trung Đông, kể từ ngày 09.06 là
người thay thế mới cho Quốc Vụ Khanh.
Đức Thánh Cha đă chỉ định Đức Ông
Fernando Filoni và gọi Ngài từ Toà Khâm Sứ ở
Phi-Luật-Tân. Năm nay Ngài 61 tuổi, sinh ở miền
nam nước Ư, có bằng triết học và giáo luật,
gia nhập công tác ngoại giao của Toà Thánh và làm việc
trong Toà Khâm Sứ ở Sri Lanca,Iran,Ba Tây và trong Giáo Triều
Roma. Ngày 17.01.2001, Ngài trở thành
Tổng giám mục hiệu toà Volturno và được
bổ nhiệm làm sứ thần Toà Thánh ở Jordan và Iraq
và được Đức Gioan Phaolô II tấn phong giám
mục.
ĐẤNG ĐÁNG KÍNH TIÊN
KHỞI NGƯỜI ẤN-ĐỘ ĐƯỢC TÔN
PHONG HIỂN THÁNH
(AsiaNews 10.06)
Việc thông báo vụ phong thánh của Đấng Đáng
kính Alphongsa Muttathupadathu “được phong thánh rất ư
nghĩa cho thời đại chúng ta đang sống
nầy: Đời sống của Ngài dầu ngắn
ngũi nhưng mang dấu ấn khổ đau mang
“chiều kích cứu độ”. Đó là lời Đức
Hồng Y Varkey Vithayathil, tổng giám mục Giáo phận
Ernakulam – Angamaly khi hay tin Đức Giáo Hoàng đă phê
chuẩn việc phong thánh nầy. ALPHONSA tên là Anna
Muttathupadathu,sinh ở làng Kudamaloor, ngày 19.08.1910, mẹ
mất sớm và được người D́ ruột nuôi
dưỡng và được nguời cậu,một linh mục,
dạy dỗ. Lên 17, Chị gia nhập Ḍng Vô Nhiễm.
Năm 1936 Chị khấn trọng. Chị luôn có vân
đề về sức khoẻ và qua đời ngày
28.07.1946, ở tuổi 36.
BỔ NHIỆM TỔNG
TRƯỞNG THÁNH BỘ CÁC GIÁO HỘI ĐÔNG PHƯƠNG
(Zenit 11.06)
Đức giáo hoàng Biển-Đức XVI đă bổ
nhiệm Đức Cha Leonerdo Sandir, 63 tuổi, làm Tổng
trưởng Thánh Bộ Các Giáo Hội Đông Phương.
Cho đến nay Ngài là người dự bị cho vụ
công tác tổng quát của Quốc Vụ Khanh. Ngài thay
thề Đức hồng y Ignazio Moussa I Daoud,76 tuổi,
thượng phụ Antiokia, hưu dưỡng theo giáo luật.
Đức Cha Sandri chính là người đă loan cho thế
giới tin Đức Gioan-Phaolô băng hà chiều ngày
02.04.2005 và là người đọc các văn bản mà
Đức Thánh Cha không đọc được nữa do
bệnh nặng. Ngài sinh ở Buenos-Aires, Á Căn Đ́nh,
ngày 18.11.1943 trong một gia đ́nh gốc Ư. Thụ phong linh
mục ngày 02.12.1967, cử nhân thần học và tiến
sĩ Giáo luật, gia nhập nghành ngoại giao Toà Thánh
năm 1974. Ngày 22.08.1991, được bổ nhiệm làm
người cai quản phủ giáo hoàng, được
tấn phong giám mục ngày 11.11.1997. Ngài sử dụng thành thạo
tiếng Tây Ban Nha,tiếng Ư,tiếng Pháp,tiếng
Anh,tiếng Đức.
ALGÉRIE
GIỚI HẠN TỰ DO TÔN GIÁO ĐỐI VỚI NHỮNG
NGƯỜI NGOÀI ĐẠO HỒI
(Zenit 11.06) Với
mục tiêu ngưng lại bước tiến của các
thừa sai, chính quyền Algérie đă quyết định
thông qua việc hạn chế những cuộc hội
họp tôn giáo đối với những người ngoài
Hồi-giáo trong nước. Trong khuôn khổ luật về
các tôn giáo tháng ba năm 2006, quyết định
được công khai vào ngày 04.06 vừa qua xác định
rằng mọi cuộc hội họp có tổ chức
năm ngoài các cơ cấu tôn giáo không được
diễn ra mà không có phép trước của chính quyền dân
sự. Việc sử dụng một ṭa nhà làm nơi
thờ phụng cũng phải xin phép rơ ràng và chính
quyền có thể từ chối nếu họ xét là có “nguy hiểm đối với
việc bảo vệ công luận”. Những cuộc
hội họp tự phát ngoài các nơi thờ phụng
bị nghiêm cấm. Luật 2006 quy định phạt
đến 5 năm tù và 10.000 euros cho tất cả những
ai t́m cách cải đạo một người Hồi-giáo
sang một tôn giáo khác. Cũng khung h́nh phạt ấy dành cho
tất cả những ai “chế tạo, phân phát những
sách báo,băng dĩa hoặc những phương tiện
nhằm làm suy yếu đức tin Hồi giáo”. Hiện con
số Công giáo ở Algérie vào khoảng gần 10.000 trên dân
số 33 triệu mà tuyệt đại đa số là
Hồi giáo.
CÁC GIÁM
MỤC CẢNH BÁO CHỐNG LẠI CUỘC CÔNG DU CỦA
ĐỨC GIÁO HOÀNG
(CWNews 12.06) Một
Tổng giám mục Phi Luật Tân, Đức Cha Oscar Cruz
giáo phận Lingayen – Dagupan, nói rằng Đức Giáo Hoàng
Biển-Đức XVI không nên nhận lời mời công du
v́ những đe dọa an ninh ở đó. Ngài nhận xét
rằng nhiều quốc gia bắt đầu cảnh báo
công dân không đi du lịch ở Phi-Luật-Tân do t́nh
trạng ảnh hưởng bạo lực cao. Ngài kể
ra “những vụ giết người và bắt cóc, đe
dọa khủng bố, tội ác có tổ chức,v..v…”,
chẳng hạn vụ bắt cóc vị thừa sai
người Ư mới vừa đây. Theo Ngài, những
cuộc công du của các Đức Giáo Hoàng trong quá khứ là
những “cơ hội đặc biệt vẫn c̣n được nhớ
tới với ḷng yêu mến và hứng khởi kéo
dài”,nhưng sau khi cân nhắc kỹ, “tốt nhất là nên
hoăn lại cuộc công du của Đức Thánh Cha”.
Lời mời do bà tổng thống Gloria Arroyo đưa ra
ngày 04.06 trong cuộc thăm viếng Vatican của Bà.
GIÁO
HỘI TIN LÀNH TÂN-GIÁO TẤN PHONG NỮ GIÁM MỤC THẾ
GIỚI THỨ BA TIÊN KHỞI
(Reuters 12.06) Giáo
Hội TL Tân-Giáo khai hoang ở Cuba với việc tấn
phong nữ giám mục đầu tiên trong một quốc
gia đang phát triển với một nghi thức hoà
trộn hương tràm với nhạc muá nhịp nhàng
của vùng Caribê. Nữ linh mục Nerva Cot nói rằng Bà
sẽ mang một phong cách nữ giới cho ban lănh
đạo của cộng đoàn nhỏ nhưng đang
lớn mạnh của Giáo hội bà ở Cuba, nơi mà
việc thờ phượng được hợp pháp hoá
đă một thập niên qua. Khoảng một tá giám mục
đến từ Bắc,Trung và Nam Mỹ và Châu Âu tham
dự lễ tấn phong cho Cot và Ulises Aguero như là phó giám
mục và các giám mục phụ tá ở nhà thờ chính toà
Chúa Ba Ngôi Tân Giáo ở Havana. Tổng giám mục Tân giáo Andrew
Hutchinson, người Canada, chủ sự lễ tấn
phong. Ở Cuba đa số là người Công-giáo; phái tân
giáo chỉ có khoảng 5.000.
CHỈ
DUY NHẤT MỘT TÔN GIÁO Ở BANG TIRUMALA: ẤN GIÁO
(AsiaNews 12.06) Ở
bang Tirumala, duy nhất Ấn giáo được phép và các
hoạt động chính trị bị cấm. Trong một
quyết định do thủ hiến bang Adhra Pradesh,
Rameshwar Thakur, chính quyền bang cấm mọi tôn giáo khác
ngoài tôn giáo duy nhất liên kết với những nơi
chốn thờ phượng và cầu nguyện ở
địa phương. Thủ tướng bang, Y.S.
Rajasekhar Reddy nói rằng một đạo luật có
hiệu lực sẽ được tŕnh trong kỳ
họp sắp tới đây của quốc hội bang.
Những kẻ vi phạm sẽ chịu ba năm tù giam và
nộp phạt tới 5.000 rupi. Đức Cha Marampudi,
tổng giám mục Hyderabat, nói rằng “đối mặt
với cuộc bách hại, chúng tôi bảo vệ
đức tin và sự xác tín của ḿnh. Không có sức mạnh
chính trị nào có thể ngăn cản chúng tôi loan báo Tin
Mừng của Chúa’. Cha Anthoniraj Thumma, thư kư điều
hành của Liên Hiệp các Giáo Hội bang Andhra Pradesh và phó
thư kư HĐGM bang nói rằng Hội Đồng
“chống lại mạnh mẽ lệnh cấm của
thủ hiến chiều theo ước muốn của những
nhóm tín đồ Ấn giáo quá khích. Lệnh nầy đi
ngược với nhiều quyền căn bản
được hiến pháp bảo vệ và kỳ thị
những người không phải Ấn-giáo”
“Ở
IRAQ, KITÔ-HỮU ĐANG CHẾT DẦN CHẾT M̉N”
(Zenit 12.06) Đó là
tiếg kêu báo động được phát ra ở Roma
trong thánh lễ cầu hồn cho Cha Ragheed Aziz Ganni, vị
linh mục Công giáo Can-đê bị giết ngày Chúa nhật
03.06 ở Mosul cùng với ba phó tế khi vừa dâng thánh
lễ xong. Thánh lễ cầu hồn do Đức Cha Philip
Najim, đại diện Giáo Hội Can-đê cạnh Ṭa
Thánh, cử hành, trong nhà nguyện Giáo Hoàng Học Viện Ái
Nhĩ Lan, nơi Cha Ganni đă theo học trong 5 năm. Trong
các nhân vật hiện diện có Đức hồng y Ignace
Moussa Daoud, Tổng trưởng Thánh Bộ Các Giáo Hội
Đông Phương; Đức hồng y Desmond Connell,
tổng giám mục hưu dưỡng giáo phận Dublin;
Đức Cha Julius Michael al Jamil, giám mục đại
diện Giáo Hội Syro-Công giáo ở Roma và thanh tra Toà thánh
ở Châu Âu. “Các nhà thờ bị đóng cửa.xe cộ
bị đặt bom,những cuộc ép cải đạo,
bắt óc hàng loạt: tại Iraq các Kitô-hữu đang
chết dần chết ṃn – Giáo Hội đang trên
đường biến mất - nạn nhân của các
cuộc bách hại, đe doạ và bạo lực từ
bọn cục đoan không cho ta sự lựa chọn nào:
phải theo đạo Hồi hoặc bỏ trốn”.
BÊNH
MÁU TRẮNG CỦA TRẺ EM ĐƯỢC CHỮA LÀNH
NHỜ CÁC TẾ BÀO TỪ MÁU CUỐNG RỐN
(Zenit 12.06) Đó là
thông báo của Hội Jérôme Lejeune. Theo như một nghiên
cứu xuất hiện trong “The Lancet” ngày 09.06 vừa qua,
một cuộc ghép máu cuống rốn sẽ hiệu
nghiệm, thậm chí tốt hơn là ghép tủy cho các
trẻ em bị bệnh máu trắng. Ê-kíp Mary Eapen đă so
sánh sự tiến triển của 503 cháu bị máu
trắng đă ghép máu cuống rốn không có họ hàng và
của 282 cháu được điều trị theo cách ghép tủy cùng phả
hệ. Kết quả cho thấy sống sót không bị
bệnh lại sau 5 năm là giống nhau ở cả hai
nhóm. Khi máu cuống rốn hoàn toàn tương hợp (trong
ghép mô), th́ sự sống sót dường như c̣n
được kéo dài thêm”. Các bác sĩ huyết học xác
nhận rằng cho đến nay người ta
hướng về việc ghép máu cuống rốn chỉ
khi nào không có người
hiến tủy tương thích, nhưng có thể trong một
tương lai gần, việc ghép máu cuống rốn
sẽ phát triển. Ngày nay trên thế giới, các ngân hàng
máu cuống rốn chỉ mới có 300.000 mẫu.
GIÁO
SĨ CẤP CAO CHÍNH THỐNG CHUẨN BỊ CHO
THƯỢNG ĐỈNH ROMA – MẠC TƯ KHOA
(CWNews 13.06)
Đức tổng giám mục Chính Thống Cyprus, Chrysostom
II, sẽ gặp Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
vào thứ bảy 16.06. Ngài hy vọng dàn xếp cuộc
họp thượng đỉnh giữa Đức giáo
hoàng và Thượng phụ Chính Thống Nga Alexei II.
Người đứng đầu Giáo Hội Chính
Thống Cyprus đang ở thăm Ư nhiều ngày, trong
thời gian đó Ngài sẽ đưọc trao bằng
tiến sĩ danh dự từ Giáo Hoàng Học Viện
Urbanô. Ngay khi rời Roma, Ngài sẽ đi ngay đến
Mạc-Tư-Khoa để gặp Thượng Phục
Chính Thống Nga, ngưởi mà Ngài định nghĩa là
“một bạn thân”. Noí với tờ nhật báo Ư L’Espresso,
Ngài tin rằng thờ cơ đă chín muồi cho cuộc
gặp gỡ nầy. Thượng phụ Alexei II vẫn
tránh né các kế hoạch cho một cuộc họp
thượng đỉnh, nhấn mạnh rằng Vatican
phải chấm dứt việc nhập đạo trong các
nước có truyền thống Chính Thống trước
khi đặt vấ đề hội họp.
HY VỌNG CÓ CẢI THIỆN QUAN HỆ GIỮA VATICAN và TRUNG QUỐC, NHƯNG NHIỀU KHÓ KHĂN
(AP 12.06) Giám mục Công-giáo Thượng
Hải được chính quyền hậu thuẫn,Aloisius
Jin Luxian (xin xem bài viết :
MỘT GIÁO HỘI CHO TRUNG QUỐC, BTGH số 28 & 29)
noí Ngài hy vọng Vatican và Trung Quốc có thể khôi phục
các quan hệ,nhưng cảnh báo rằng việc ḥa
giải giữa tín hữu Gaío Hội Thầm Lặng và
Giáo Hội chính thức sẽ không dễ dàng. Ngài cho
biết tín hữu Giaó Hội chính thức đang nóng ḷng
chờ đợi thư của Đức Giáo Hoàng
Biển-Đức XVI về t́nh h́nh Giáo Hội Công-giáo
ở Trung Quốc. Nhưng theo lời Ngài tín hữu Giáo
Hội Thầm Lặng lại lo lắng. Trung Quốc
buộc các tín hữu Công giáo La Mă của ḿnh cắt đứt
liên hệ với Vatican vào năm 1951, ngay sau khi đảng
cộng sản vô thần chính thức nắm quyền.
Việc thờ phượng chỉ được phép
trong các nhà thờ cho chính quyền kiểm soát, công nhận
Đức giáo hoàng như một vị lănh đạo tinh
thần, nhưng bổ nhiệm các linh mục và giám
mục của riêng họ. Dù vậy hàng triệu
người Hoa vẫn trung thành với Roma, vẫn công khai
giữ đạo, nhưng ở một số vùng, họ
thường xuyên bị quấy rối,c̣n các linh mục và
giám mục của họ th́ bị bắt giam. Đức
giáo hoàng Biể Đức XVI đă ch́a tay ra với Bắc
Kinh, sẵn sàng đem con số tín hữu Công giáo
ước lượng 12 triệu về dưới cánh,
nhưng cả hai bên c̣ bất đồng trong việc
Vatican nhấn mạnh về quyền bổ nhiệm các
giám mục. Trong một diễn biến mới, Vatican và
chính quyền Trung Quốc đồng ư việc bổ
nhiệm Đức Cha Joseph
Xing Wenzhi làm giám mục phụ tá cho Đức Cha Dân,
nhưng các tín hữu Giáo Hội Thầm Lặng vẫn
không thừa nhận Ngài. Nhiều ngưới Công-giáo
ở Thượng Hải từ chối quyề bính
của Đức Cha Dân và các giới chức khác trong Giáo
hội chính thức. Họ xem vị linh mục niên
trưởng trong Giaó Hội thầm lặng ,Cha Joseph Fan
Zhongliang, như là giám mục thật sự của
Thượng Hải. Đức Cha Dân cho biết Ngài
cũng hy vọng chính phủ Bắc kinh sẽ hiểu
đ̣i hỏi của Vatican về việc bổ nhiệm
các giám mục và Ngài cho rằng Hội Công giáo yêu
ước dù không mong phục hồi quan hệ, cũng
không thể nào can thiệp vào các quyết định chính
trị của Trung Quốc
ĐỨC
THÁNH CHA SẼ ĐI ATXIDI VÀO CHÚA NHẬT NGÀY 17.06
(Osservatore Romanao
13.06) Nhân kỷ niệm 800 năm ngày trở lại của
Thánh Phanxicô Atxidi, Đức Thánh Cha sẽ đi Atxidi.
Tiếp đón Người là Tổng giám mục Giám
mục Atxidi-Nocera Umbra-Gualdo Tadino, Đức Cha Domenico
Sorrentino. Sau khi chào các nhà chức trách, Đức giáo hoàng sẽ
đến linh địa Rivotorto, sau đó là linh
địa Thánh Đamianô, đi qua thánh đường Thánh
nữ Maria Mađalêna, được xây lên d8ể
tưởng nhớ cộc gặp giữa Thánh Phanxicô và
người phong cùi. Tiếp theo Người sẽ
đến Vương Cung Thánh Đường Thánh Nữ
Clara và Chầu Thánh Thể, suy tôn Thánh Giá Thánh Đamianô. Vào
10 giờ, Đức Thánh Cha sẽ cử hành Thánh Lễ trên
quảng trường phía dưới Vương Cung Thánh
Đường Thánh Phanxicô và đến cầu nguyện
nơi Mộ Thánh Phanxicô sau thánh lễ. Tưởng cũng
nên nhắc lại, hơn 20 năm trước,ngày
27.10.1986, chính tại Atxidi mà Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II
đă mới đại diện các tôn giáo và các truyền
thống tâm linh gặp mặt nhau để cùng cầu
nguyện chung cho hoà b́nh.
ĐỨC
GIÁO HOÀNG BIỂN ĐỨC XVI SẼ TIẾP KIẾN ÔNG
TONY BLAIR VÀO NGÀY 23.06
(EMS 13.06) Đó là
nguồn tin từ Vatican. Cuộc hội
kiến nầy giữa Đức Thánh Cha và vị thủ
tướng Anh sắp từ chức Tony Blair sẽ
diễn ra bốn ngày trước khi ông Tony Blair rời
bỏ nhiệm sở. Ông Tony Blair đă được
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tiếp kiến
ngày 03.06.2006 (Ông cũng được Đức Gioan-Phaolô
II tiếp kiến ngày 22.02.2003, gần một tháng
trước chiến tranh Iraq và cũng đến dự
lễ tang của Cố Giáo Hoàng vào tháng 4.2005)
Ông Tony Blair,54
tuổi, Anh-giáo, đă nhiều lần chứng tỏ
tầm quan trọng của đức tin Kitô-giáo trong
đời sống riêng tư hoặc công khai của ông.
Việc lựa chọn cuộc thăm viếng Vatican là
hoạt động mang tính quốc tế cuối cùng
của ôg đặc biệt có ư nghĩa, nhất là khi
người ta đồn rằng ông sẽ trở lại
Công giáo như phu nhân Cherie, người đă được
mời đến Vatican ngày 28.04.2006 với tư cách là
chuyên viên tŕnh bày đề tài tuổi trẻ trước
phiên họp khoáng đại của Viện Hàn Lâm Giáo Hoàng
về Khoa Học Xă Hội.
TIN VẮN.
THUỐC TRÁNH THAI KHẨN CẤP MỚI
Ngày
10-6, Công ty dược phẩm Gedeon Richter Plc (Hungary) đă
giới thiệu đến các bác sĩ sản phụ khoa,
nữ hộ sinh... thuốc tránh thai khẩn cấp mới
Escapelle. Thuốc có ưu điểm chỉ dùng một viên
duy nhất uống trong ṿng 72 giờ sau khi quan hệ và có
hiệu lực bảo vệ trong ṿng 120 giờ, so với
cách “kinh điển” phải uống làm hai lần cách nhau
12 giờ. (tin từ TuoiTre 11.06)
GIỚI
THIỆU CÁC CHUYÊN ĐỀ |
NẾU THIÊN CHÚA LÀ
T̀NH YÊU,
TẠI SAO CÓ ĐAU
KHỔ?
Đau khổ là vấn nạn lớn lao và muôn
thuở của con người sống trên trần
thế.Nếu nó giúp cho nhiều người trưởng
thành trong nhân cách, trong nhận thức và trong đức tin,
th́ cũng khiến cho không ít người phải vấp
phạm,nỗi loạn nhưng luôn bế tắc. Trái
đất nầy ba phần tư là nước, th́
cũng ba phần tư là nước mắt: lo âu, muộn
phiền,khổ đau,bất ưng. Biết bao giấy
mực chỉ để suy nghĩ về nguồn gốc,
về bản chất của đau khổ, nhưng
cuối cùng đau khổ vẫn là một “mầu
nhiệm”, - theo nghĩa:con người bất lực! Nhiều
tôn giáo cũng đă t́m cách giải thích đau khổ,
nhưng hết sức phiếm diện và dường
như càng khiến màn bí mật của đau khổ thêm
dày đặc. CHỈ DUY NHẤT KITÔ-GIÁO, bằng cái nh́n tin
cậy vào t́nh yêu thương vô biên của Thiên Chúa T́nh Yêu, đă không chỉ giải đáp
tận cùng nguồn gốc của đau khổ, mà c̣n
chỉ cho chúng ta ư nghĩa thăng hoa của đau
khổ, khi nó được vui nhận từ Thánh Giá Chúa
Giêsu Kitô, nghĩa là Thánh Giá Chúa Kitô tạo cho đau khổ
của chúng ta một giá trị vô song: sự sống
vĩnh cửu. Đó cũng là ư tưởng của Karine
Bouchot trong bài phân tích rất hay sau đây,mà BTGH xin chuyển
ngữ và giới thiệu.
Ai trong chúng ta
không tự đặt cho ḿnh câu hỏi nầy suốt trong
cuộc đời? Chỉ cần người đó là
Kitô-hữu ít hay nhiều được khẳng
định hoặc đang t́m kiếm thiêng liêng, đa
số đều va đụng với thực tế
nghiệt ngă về đau khổ con người mà chính
họ sống trong chính thân thể hoặc nơi những
người chung quanh họ, Nhiều khi khiá cạnh tàn
nhẫn của thân phận con người là một ḥn
đá vấp ngă thật sự ngăn cản nhiều
người quay về phía Thiên Chúa
hoặc tiếp tục hành tŕnh thiêng liêng của
họ giữa những cơn sóng gió. Bao lâu mọi sự
trong cuộc sống của chúng ta c̣n yên ổn, chúng ta c̣n
dễ dàng tin vào một Thiên Chúa t́nh yêu đă làm tất
cả để cứu chúng ta. Chẳng phải chúng ta
được nhiều phúc lành hơn những kẻ khác
v́ chúng ta thuộc về linh tộc lớn lao, “giáo hội
vô h́nh” nầy, như Martin Luther gọi nó như vậy,sao?
Chẳng phải chúng ta có hơn so với những kẻ
không muốn năm lấy bàn tay Đấng Cứu
Độ của họ? Tất cả dường như
đắm ḿnh trong hạnh phúc. Về phần một
số khó khăn vật chất, người ta luôn
vượt qua . Nhưng chính lúc băo tố ập xuống,
những thử thách đủ loại dường như
đổ xuống trên các Kitô-hữu, mà mọi sự có
thể chao đảo. C̣n lại những ǵ từ sự
bảo đảm Kitô-giáo? Chính đó là lúc phải bám chặt
vào những lời hứa của Thiên Chúa. Những khó
khăn của cuộc đời có thể làm cho chúng ta
xích lại gần với Chúa hơn hoặc làm cho chúng ta xa
cách Chúa.
Đa số
các đau khổ là do những sự lựa chọn
xấu xa của con người. Những lựa chọn
nầy được mô tả khá chi tiết rơ ràng trong
sách Sáng Thế,như là nghi ngờ sự toàn năng
của Thiên Chúa, ḷng kiêu căng, ước ao của con
người được ở vào vị trí của Chúa,
sự t́m kiếm không ngừng nghỉ quyền lực và
vinh quang, tham vọng. ước ao muốn có thêm nhiều
hơn măi và ghen tỵ, đă dẫn đến tội
giết người đầu tiên của nhân loại,
những t́nh cảm hư trái ngày càng phát triển trong các xă
hội dựa trên nền tảng những giá trị
vật chất và trên sự đua tranh thái quá. Ai đó nói
rằng 90% các đau khổ là do lỗi ở con
người. Khi người ta vẽ một bức
hoạ của xă hội hiện nay, th́ lời khẳng
định nầy dường như hoàn toàn đáng hoan
nghênh. Trong hầu hết các trường hợp, đúng là
chính con người là nguyên nhân của các đau khổ; những
đau khổ mà chính con người chịu hoặc làm cho
người khác phải chịu. Tất cả phương
tiện truyền thông không ngừng thuật lại
những bất hạnh nầy thường giáng vào
những kẻ vô tội.
Thiên Chúa có
phải là người chịu trách nhiệm về nạn
đói trên thế giới hoặc nạn đói là do sự
ích kỷ của những tay bự trên thế giới
sử dụng đồng tiền của dân để mua
vũ khí? Thiên Chúa có phải là người chịu trách
nhiệm về toàn cầu hoá dẫn đến những sự
bừa băi khổng lồ trong tất cả mọi lănh
vực kinh tế? Sẽ rất dài ḍng nếu phải
kể tất cả những đau khổ phát xuất
từ những lựa chọn xấu xa của con
người. Ai không bị nỗi loạn khi nhận
thấy chúng ở quanh ḿnh hoặc ngay chính trong gia đ́nh
ḿnh? Nhưng tại sao Thiên Chúa không can thiệp để
sắp xếp trật tự, để tái lập hoà
b́nh,công lư,t́nh thương và niềm vui vốn là những
nét đặc trưng vương quốc vĩnh cửu
của Người? Và chính lúc ấy mà nhiều người giơ nắm tay về phía
trời và tố cáo Thiên Chúa đă bỏ rơi trái
đất với hết thảy những ǵ ở trong
đó. Ta hăy thử t́m những lư do sư im lặng khó
hiểu của Người.
Về vấn
đề nầy, sách ông Job trong Cưụ Ước
đem lại cho chúng ta một số câu trả lời cho
vấn đề Sự Dữ. Ông Job, người hoàn
hảo và chính trực đă phải chịu những
đau khổ tồi tệ nhất vượt qua cả
trí tưởng tượng của chúng ta. Không những Ông
bị thử thách tàn bạo nơi thân thể, mà c̣n hơn
thế nữa, Ông bị chính vợ ḿnh và các bạn bè bỏ
rơi. Cách chung,Thiên Chúa luôn làm nẩy sinh trong những t́nh
huống cùng cực nhất một tâm hồn biết cảm
thông để củng cố kẻ đang ở bên bờ
vực thẳm, nhưng trong tường hợp của Job
th́ không như thế: Ông chính là điển h́nh sự chịu
đau khổ và chịu đựng. Câu chuyện và sự
chiến thắng cuối cùng của ông phải làm cho ta suy
nghĩ. Đă hẳn với việc không ngừng hy vọng
nơi Thiên Chúa và chứng tỏ một sự trung thành tuyệt
đối trong những ngày tốt lành cũng như những
hồi sóng gió. Ông Job đă chọn lựa tốt nhất bằng
việc cho thấy ông không phải vâng lời chỉ v́ lợi
ích. Tiên tri Isaia sau đó mô tả (Is 53) Đấng Cứu
Tinh sẽ đến như là một mẫu gương trọn
hảo của người tôi tớ đau khổ,vâng lời
Thiên Chúa và mang lấy tội lỗi của chúng ta.
Mặt khác,
trong sự im lặng bề ngoài của Thiên Chúa, phải nhận
ra sự tự do lựa chọn mà Chúa ban cho mọi người,
tự do lựa chọn giữa sự lành và sự dữ,
tự do đồng hành với Người hoặc không tuân
phục Người. Như vậy, với việc ban cho các
thụ tạo sự tự do, Thiên Chúa đă tự nguyện
giới hạn sự toàn năng của người đến
mức có thể đánh mất các tạo vật của Người!
Nhưng t́nh yêu tuyệt đối của Thiên Chúa không giới
hạn ở sự tự do được khấng ban nầy.
Biết trước rằng các tạo vật của Người
sẽ sử dụng tự do một cách sai lạc và chính điều
đó ngăn cản chúng tiến vào sự sống vĩnh
cửu, Người đă nghĩ tới kế hoạch cứu
chuộc trước khi tạo thành thế giới. Kinh Thánh
thuật lại cho chúng ta lịch sử Thiên Chúa Cứu
Tinh cứu chuộc con người bị hư đi. Mầu
nhiệm khôn ḍ mà Thánh Gioan Tông Đồ, c̣n được
gọi là tông đồ của t́nh yêu, tóm tắt một các
đáng ca ngợi trong Phúc Âm của Ngài ở chương
thứ ba,câu 16 :”Thiên Chúa đă yêu thế gian đế nỗi
đă ban Con Một của Người, để tất cả
những ai đặt niềm tin cậy vào Người, sẽ
thoát khỏi hư vong và được sống đời
đời”. Một thông điệp an ủi và động viên
biết bao từ phía Thiên Chúa yêu tạo vật đến
độ hy sinh Con Một của Người Một ḿnh
để giành giật chúng ta khỏi móng vuốt của kẻ
thù và khấng ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu ở
trước mặt Người! Như thế, Người
đă để cho chính Con của Người xuống tận
chúng ta và cả tận mồ táng. Cái chết của Người
trên thập gía, dù là vô tội, đă biến thành chiến
thắng vang dậy trên sự dữ. Sự phục sinh của
Người bảo đảm cho chúng ta sự sống lại
của chính chúng ta và sự sống vĩnh cửu. Về điều
nầy, Roland de Pury đă có thể khẳng định rằng
“trước sự đau khổ của thế gian, tay Chúa
không khoanh lại trước ngực, mà là giăng lên trên
thập giá”.
Dù ở thế
gian nầy không có sự trọn hảo, th́ ai đă quyết
định theo Chúa Giêsu Kitô, bất kể đang ở t́nh
trạng nào và bất kể điều ǵ xảy đến,
sẽ có thể chiến thắng bản tính con người
hư mất xưa cũ của ḿnh. Thiên Chúa đă hứa
điều đó khi dùng tiên tri Ezechiel loan báo: “Ta sẽ cho các
ngươi một quả tim mới và sẽ đặt vào
ḷng các ngươi một tinh thần mới” (Ez 36,26). Do vậy
chỉ cần để cho Thiên Chúa hành động trong chúng
ta nhờ Thánh Linh của Người và cầu xin Người
đi vào cuộc sống mỗi ngày của chúng ta. Thiên Chúa
không vô cảm trước các thử thách chúng ta chịu, trái
lại. Nhưng thỉnh thoảng Chúa đ̣i hỏi chúng ta
phải chịu đựng để việc đáp trả
cho Người được vẻ vang hơn C̣n ǵ đơn
giản hơn là nắm lấy bàn tay Chúa Giêsu-Kitô, “cái phao cứu
sinh” duy nhất và độc nhất nầy, để có
thể cập bến an lành ở đất mới! Ở
đó, cuối cùng, Thiên Chúa sẽ ở với con người.”sẽ
lau khô nước mắt họ và sẽ không c̣n sự chết
nữa, sẽ không c̣n tang tóc,than khóc, đau khổ” (Kh 21, 1 – 4). Trong khi đợi
chờ ngày tuyệt vời ấy, chúng ta phải anh dũng
xông pha trận chiến đức tin.
Karin Bouchot
SENTIRE CUM ECCLESIA. CẢM
THỨC CÙNG GIÁO HỘI.
MỘT GIÁO HỘI CHO TRUNG-QUỐC. (I/2)
Rất nhiều vấn đề gây
căng thẳng giữa Ṭa Thánh và nước Trung Hoa,
nhưng nỗi cộm vẫn là việc Hội Công-Gíáo Yêu
Nước Trung Quốc do chính phủ hậu thuẩn (và
điều khiển) đă không chỉ một lần
tổ chức những vụ truyền chức và tấn
phong giám mục mà không được Toà Thánh phê chuẩn.
Mưu đồ tách Giaó Hội Trung Quốc khỏi quyền
cai trị của Đức Giáo Hoàng và Toà Thánh La Mă của
Hội Công-giáo Yêu Nước Trung Quốc ngày càng lộ rơ,
công khai thách thức và gây biết bao đau khổ mất
mát cho Giáo Hội Trung Quốc. Những ngày nầy, tín
hữu Công- giáo Trung Quốc đang nôn nóng chờ
đợi bức thư mà Đức Thánh Cha
Biển-Đức đă hứa sẽ gửi cho họ (và
cho cả nhà cầm quyền Bắc Kinh). Trong ư
tưởng ấy, để thêm một íttư liệu về
hiện t́nh Đạo Công-giáo ởTtrung Quốc, TLL kính gửi một bài viết
của một tác giả đă sống khá lâu ở
Thượng Hải, đă gặp nhiều nhân vật
đạo đời và có một số nhận xét và
nhận định khá lư thú về t́nh trạng Đạo
Công-giáo ở Trung Quốc hiện nay (nguyên bản tiếng
Anh,xin giới thiệu làm hai kỳ).
Adam Minter,tác giả
cuốn “Giữ Đức Tin” thảo luận bài viết
của ông về Đức giám mục Jin Luxian, tương
lai của Đạo Công-giáo ở Trung-Quốc và
đời sống với tư cách một nhà văn ở
Thượng Hải.
………
Năm 1577,linh mục Ḍng
Tên Matteo Ricci rời bỏ nướcƯ để thực
hiện sứ mệng đem đứctin Kitô-giáo cho
triều đại nhà Minh, Trung Hoa. Ngài không phải là
người Kitô-hữu tiên khởi,cũng không phải là
người Công-giáo đầu tiên đến ở Trung
Hoa. Nhưng việc Ngài đến đánh dấu những
khởi đầu của việc Ḍng Tên hiện diện
sau đó sống sót một cách thất thường ở
Trung Hoa gần bốn thế kỷ.
Những bài viết từ thư khố tạp chí THE
ATLANTIC soi sáng lịch sử mối quan hệ phức
tạp của trung Hoa với Kitô-giáo. Mọi sự đă
thay đổi năm 1949 khi những người
Cộng-sản nắm quyền. Đạo Tây Phương
– cùng với tất cả những người ngoại
quốc khác – khôg được hoan nghênh tại
nước Công Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Mặc dù Đức giáo
hoàng Piô XII đă thiết lập một hàng giáo phẩm
độc lập ch1inh thức cho Giáo Hội Trung Hoa ngay
từ năm 1946 (với việc vô hiệu hóa Vùng
truyền giáo Ḍng Tên), các giám mục tây phương vẫn
tiếp tục giữ quyền kiểm soát trên hơn 80%
các giáo phận trong nước Trung Hoa. Năm 1951, đảng
cộng sản trục xuất tất cả các thừa
sai và cắt đứt quan hệ ngoại giao với
Vatican. Các linh mục người Trung Hoa cố gắng
để thuyết phục chính phủ Trung Hoa rằng Giáo
Hội Công giáo đất nước nầy có thể
hoạt động độc lập, nhưng khoảng
năm 1955, người Công-giáo trung Hoa trở thành những
cái đích và sau chỉ hai tuầ, có hơn 1.200 linh
mục,nữ tu av2 giáo dân bị bắt và bị cầm tù,
trong số đó có Jin Luxian, một linh mục Ḍng tên sinh
ở Thượng Hải, bỏ việc học tập
ở Roma để về lại quê hương sau khi
cộng sản nắm chính quyền. 27 năm kế
tiếp Ngài trải qua dưới nhiều h́nh thức giam
giữ, trong thời gian ấy Trung Hoa (và cả Giáo Hội
Công giáo) phải trải qua vô số đổi thay. Khi
được tự do vào năm 1982, Ngài thấy ḿnh
ở trong một xă hội chẳng c̣n giống bao nhiêu
với cái xă hội mà Ngài đă bị vồ bắt đưa
đi khỏi khoảng ba thập niên trước đó.
Đạo Công-giáo ở Trung Quốc nay bị một
cơ quan chính phủ cộng sản có tên là Hội Công giáo
Trung quốc Yêu Nước, điều hành. Dưới
quyền của Hội nầy, việc thờ
phượng được cho phép, nhưng chỉ
giới hạn nội bộ và giữ cẩn thận các
nguyên tắc được đưa ra. Nhà thớ chính toà
Thánh Inhatiô ở Thượng Hải, nơi Cha Jin Luxian
thụ phong linh mục năm 1945, nay được coi
như cái bóng của chính nó xưa kia; trong thời Cách
mạng Văn hoá, thời mà mọi tôn giáo đều
bị bài xích loại bỏ, nhà thờ chính ṭa đă bị
lấy đi những tấm kính màu, các tháp chuông, bàn
thờ và bị biến thành một kho thóc lớn. Nay nó
lại hoạt động như một thánh
đường Công-giáo, nhưng khi Adam Minter mô tả trong
bài viết cho tạp chí The Atlantic số tháng 7 và tháng 8 Tiểu sử Đức Cha Jin,
mọi sự dù sao cũng thấy không thích hợp:
Các lời cầu nguyện công khai cho Đức giáo
hoàng bị cấm nghiêm nhặt và những ǵ nhắc
nhở đến Đức Thánh Cha chỉ t́m thấy
rất sơ sài trong những sách in được sử
dụng trong nhà thờ chính toà.
Thánh lễ vẫn c̣n bằng tiếng La-tinh, không
thể hiểu được đối với hầu
hết người dân Trung quốc. Vị giám mục
hiện tại đưọc tấn phong mà không
được Rôma phê chuẩn bởi chính phủ cộng
sản với quyết tâm xóa bỏ hồi ức về
vị giám mục Thượng Hải đang c̣n bị
cầm tù, Đức Cha Inhatiô Kung Pin-mei. Mọi sự
đều nằm dưới quyền kiểm soát trực
tiếp của Hội Công Giáo Yêu Nước.
Trong lúc ấy, một phong trào “ngầm”
được thiết lập, gồm những
người Công giáo Trung quốc thề trung thành với
Vatican, từ chối thờ phượng trong các nhà
thờ đăng kư với chính phủ và chỉ trung thành
duy nhất với các giám mục Trung Quốc đă
được Roma tấn phong. Việc phụng tự
trong cá nhà thờ không đăng kư là tuyệt đối
bất hợp pháp và những
ai bị bắt sẽ phải đối mặt với
các h́nh phạt nghiêm khắc.
Jin Luxian phải đối diệ với một
quyết định: Ngài sẽ liên minh với Giáo Hội
chính thức của Hội Công giáo yêu nước được
thừa nhận hoặc đến với giaó hội tầm kín được
Vatican công nhận và ủng hộ? Ngài là một tín hữu
Công giáo Rôma sốt sắng,nhưng sau khi cân nhắc rất
đau khổ, đ̣i hỏi rất nhiều cầu
nguyện và an ủi, Ngài quyết định rằnh
việc xây dựng một Giáo Hội trong đó tất
cả mọi tín hữu Công giáo Trung Hoa có thể thực
hành công khai mà chẳng phải sợ hăi, có tầm qaun
trọng hết sức lớn lao. Năm 1985, Ngài chấp
thuận sự bổ nhiệm của Hội Công giáo yêu
nước và đượ tấn phong làm giám mục
phụ tá của Thuợng Hải.
Trong bài viết toàn diện về Jin và và những thoả
hiệp xuyên tạc mà Ngài đă đối đầu,Adam
Minter nêu bật không chỉ mối liên hệ lâu đời
và thường bất an giữa Vatican và Trung Quốc, mà c̣n
làm nỗi bật tính cách đáng để ư của Đức
Cha Jin - một người thật sự đạo đức,
cho dù đă tự xếp ḿnh vào hàng ngũ Giáo Hội chính
thức, tuy vậy vẫn t́m cách để hoà giải với
Roma và tạo ra một Giáo Hội trong đó các tín hữu
Trung Hoa có thể cảm thấy tự do vừa làm người
Công giáo vừa là người Trung Quốc.
Ngoài các tờ báo và tạp chí khác, Adam Minter c̣n viết
cho các tờ The Wall Street, The Los Angeles Times, Times Sunday Magazine
và Far Eastern Economic Review. Sau đây
là bài trả lời phỏng vấn của ông:
H. Ông đă sinh sống và làm
việc một thời gian ở Trung Quốc. Ông đă mang
những ǵ đến đó?
Đ. Ước ǵ tôi có thể
cho ông biết đó là một sự dịch chuyển có chủ
định. Khi tôi hành tŕnh lần đầu tới đây
vào năm 2002, tôi hoạt động với tứ cách một
nhà báo trong Hai Thành phố sinh đôi, làm một chút công việc
sách báo thương mại. Tôi đă nh́n thấy Trung Quốc
phát triển từ xa và đă nghĩ rằng có lẽ có một
cơ hội cho tôi làm một số công việc hành nghề
tự do. Tôi quả t́nh không biết các cơ chế của
han2h nghề tự do ở nơi đây hoặc chẳng
biết ǵ nhiều về Trung Quốc đối với vấn
đề nầy. Và nếu sau đó tôi biết những ǵ
tôi biết ngày nay, th́ hẳn tôi đă chẳng có gan làm những
điều ấy. Dù sao đi nữa, tôi đă nhập vào
hàng ngũ gầ hai tháng làm việc và đền Thượng
Hải. Tôi không quen người nào hết và cũng chẳng
nói được tiếng Hoa. Tôi cũng chẳng hề ó
chút thích thú ǵ ở Trung Quốc trước khi đến đây
vào tháng 9 năm 2002. Tôi cứ nghĩ ḿnh sẽ ở lại
đây xấp xỉ sáu tháng, hoàn tất mốt ít công tác được
chỉ định mà tôi đảm nhận và rồi một
cách rất thành thật, sẽ xịu mặt xuống. Tôi
cho rằng tôi đă đến đây để kể lại
câu chuyện về việc tôi đă thất bại như
thế nào.Nhưng rồi sự việc cũng kết thúc.
Chẳng hế có luật lệ quy tắc ǵ hết. Và chẳng
có ai để nói cho tôi hay làm sao để làm các điều
ấy, v́ thế cứ h́nh dung mọi việc theo cách riêng
của ḿnh.
Với tư cách là một nhà báo, lợi điểm lớn
nhất khi ở t́nh trạng giống như vầy là đó
là nó buộc ta phải học văn hoá và một mức nào
đó, phải học tiếng – dù cho điều đó không
đúng ở thượng Hải, tôi đóa là vậy! Hoà
toàn khác với việc đến trong tư cách một thông
tín viên của tờ The New York
Times (Thời Báo Nữu Ước) hoặc đại
loại, nơi ta nên ngồi nép ḿnh trong một nền văn
hoá Tây phương bên ngoài nước ḿnh và tất cả
những ngơ cụt của nó, thực tế lẫn tượng
trưng. Chín với tư cách một nhà báo với những
cái bảo đảm an toàn tối thiểu nhất chống
đỡ ta, ta sẽ học hỏi văn hoá nầy rất
mau lẹ. Tôi không biết điều đó lúc bấy giờ,
nhưng lúc nầy nh́n lại nó, tôi thật sự biết ơn
rằng tôi đă lao vào con đường đó. Tôi có vượt
qua với ít nhiều nâng đỡ - với tư cách một phóng viên hoặc là cái ǵ
đó – th́ tôi đă không thể đi sâu vào nền văn hoá,
t́m thấy được các nguồn tôi đă làm và nuôi dưỡng
các mối tương quan ấy.
Mọi sự đă có kết
cục như vậy đó. Sáu tháng đầu tiên ấy trôi
qua tốt đẹp. V́ vậy mà tôi nghĩ,hăy tiếp tục thêm ba tháng
nữa. Rồu th́ một năm và năm nà6y là hai năm
và rồi hai năm rưỡi và tôi nhận ra ngay tức
th́,trời ạ, ḿnh vẫn
đang ở đây. Tôi cho rằng một nhà báo phải
cần đến hai năm ở đây để thông thạo
- trở nên thoải mái trong công việc ở trong văn hoá
nầy. Thật khác xa với hành nghề báo chí ở Mỹ.
H. Những khác biệt
lớn nhất là ǵ?
Đ. Phải rồi, điều
dễ nhận thấy nhất là ở đây không có thư
kư báo chí. Không có văn pḥng truyền thông để gọi.
Cơ quan bảo vệ môi trường nhà nước không
có các phương tiện truyền thông đại chúng vượt
xa hơ; cách duy nhất bạn làm để có thể nói với
những người dân ở đó, là bằng cách phát triển
những mối quan hệ và những t́nh bằng hữu thật
sự với họ - một sơ đồ các mối
quan hệ. Từ tiếng Hoa “quan
hệ” nói lên điều đó. Nó thường được
dịch như cái mà chúng ta gọi là “có những quan hệ”.
Nhưng nó c̣n hơn thế nữa. Nó mất nhiều giờ
để pah1t triển, không giống như ở Mỹ nơi
mà bạn thường có thể t́m thấy một lối đi
trực tiếp thẳng tới chổ cao nhất. Ở
Trung Quốc, nhân vật ở vị trí cao nhất thường
không phải là người
am hiểu nhất; nhân vật mà bạn muốn nói chuyện
với thường là ở vị trí thứ hai hoặc làm
phó. Tôi không hề cường điệu điều đó,
nhưng thật sự gay cấn khi phải làm một bài báo
trong xứ sở nầy mà không có những mối quan hệ
và t́nh bằng hữu ấy.
Nhưng về vấn đề nầy, ngay cả khái
niệm đầy đủ về t́nh bằng hữu ở
đây cũng khác biệt. Ví dụ,khi tôi đang đưa
tin về Giáo Hội Công-giáo, tôi khởi sự rất ít, rất
rất ít. Đó là một cái ǵ đó mà tôi muốn viết
từ lâu rồi, v́ thế tôi khởi sự phát triển một
số quan hệ và tín nhiệm. Lần đầu tiên viết
về Giáo Hội, đó là một bài viết vô thưởng
vô phạt cho một tạp chí Thượng Hải về
dân số Công giáo quốc tế của thành phố. Chân thành
mà nói, đó là về việc duy nhất tôi đă có thể
làm được. Nếu tôi đă nhắc đến Giáo Hội và nói ngay tức th́ không
chậm trễ,”xin chào, tôi mong làm được điều
ǵ đó về người cho tờ The Atlantic”, th́ hẳn chẳng khi nào làm được.
Không phải như thế ở đây. Làm một bài báo nhỏ
trước đă cho phép tôi tiếp cận được
với một số trong những người chơi, có dịp
quen biết họ và phát huy những qaun hệ nầy. Việc
đưa tin ở đây quả là khác biệt dường
bao - kể cả khó mà so sánh cả hai.
H. Đọc kỹ một số
trong các bài viết đầu tiên của ông, tôi để ư
thấy rằng ông đă viết về tôn giáo trước
đó. Ông có một sự quan tâm thích thú đặc biệt
về đề tài nầy?
Đ. Có đấy. Tôi thích viết về
tôn giáo. Tôi thấy đó là một chủ đề thích thú.
Mối quan tam đặc trưng của tôi về Đạo
Công-giáo ở Trung Quốc đến từ những điều
tôi nh́n thấy về nó như là một pḥng thí nghiệm hoàn
hảo qua đó để quan sát nền văn minh Trung Hoa
tương tác thế nào với nền văn minh Tây Phương.
Tôi cho rằng hẳn là không có thể chế nào là h́nh ảnh
thu nhỏ của Tay phương hoàn hảo hơn là Giáo Hội
Công giáo. Tất nhiên, đ1o là cơ chế Tây phương
lâu đời nhất. Vai tṛ nó giữ ở Trung Quốc –
từ thế kỷ mười sáu – và vai tṛ nó tiếp tục
giữ ngày nay khiến cho tôi bị mê hoặc. Thêm vào đó,
tôi tôi khám phá ra rằng tôn giáo quan tam tới quyền của
riêng nó, tôi cũng thích nói chuyện với những người
có đạo - đặc biệt là các vị lănh đạo
tôn giáo - bởi v́ họ có khuynh hướng là những người
sâu sắc chín chắn.
H. Lần đầu tiên Ông
gặp (Đức Cha) Jin Luxian như thế nào?
Đ. Lần đầu tiên tôi viết một
vài điều về Giáo Hội ở Thượng Hải
- mẫu viết ấy tôi viết về những người
Công giáo quốc tế cho tờ Thành
phố Cuối Tuần, tôi làm quen được với
một linh mục trở nên giúp ích rất nhiề cho tôi. Vị
linh mục ủng hộ thật sự bài viết ngắn
của tôi. Trong lúc phỉng vấn, tôi yêu cầu Ngài giaỉ
thích giùm làm sao Thánh Lễ tiếng Anh lại được
thiết lập trước tiên ở Thượng Hải.
Vị linh mục đă kể cho tôi nghe một chút lịch
sử, rồi nói: “nhưn ông biết đấy,tôi cho rằng
ông nên nói chuyện với Đức Cha Nhân (Jin) về vấn
đề nầy, bởi v́ Ngài có thể cho ông biết ư
nghĩa hay hơn nhiều về các sự việc”. Toi6 tự
nhủ:Trời ạ,
được nghe kể lịch sử trực tiếp
từ Đức giám mụcmới tuyệt vời làm sao
. Vị linh mục cho tôi số điện thoại của
Đức Cha Nhân ghi trên một mẫu giấy và bảo tôi
hăy gọi điện cho Đức Cha. Tôi hơi căng thẳng,
v́ vậy mà số điện thoại năm ở trên bàn
giá6y một hai hôm trước khi
vào một buổi trưa tôi hít thở thật sâu và hạ
quyết tâm gọi điện. Tôi gặp ngay Đức
Cha ở đầu kia dây và kể cho Ngài về cuộc nói
chuyện với vị linh mục kia và truyền đạt
ước ao của tôi được gặp và nói chuyện
với Ngài về Thánh lễ bằng tiếng Hoa. Tôi có thể
nghe thấy tiếng giấy tờ sột soạt trên bàn của
Ngài và cuối cùng Ngài nói:”tại sao ông không đến đây
vào một lúc nào trong ngày thứ năm nhỉ?”. Tôi đă làm
như vậy. Tôi xuất hiện ở nhà thờ chín toà vào
giờ đă hẹn, gặp một nữ tu ở cổng
và Chị dẫn tôi vào văn pḥng của Đức Cha ở
phía sau. Khi tôi nh́n lại sự việc, xét những ǵ thưởng
xảy ra nơi đây, tôi thấy hoàn toàn vô lư khi mọi sự
diễn ra trơn tru dường ấy. Tôi không chắc rằng
tôi sẽ cố gắng làm mọi sự luôn theo kiểu nầy.
H. Có phải chăng là rất
khó để làm cho Đức Cha Dân hoặc những người
khác trải ḷng ra với ông? Việc thiết lập những
quan hệ nhất thiết phải gần gũi nầy khó
khăn ra sao?
Đ. Nhiều lúc nghề báo chí quả thật
là lắm lúc gặp hên.Tôi gặp may khi hai linh mục đầu
tiên mà tôi tiếp xúc với, đều đă có nhiều cuộc
tiếp xúc với người ngoại quốc. Họ muốn
nói chuyện với tôi và họ thích ư tưởng ban đầu
của tôi là viết một bài về đời sống ở
Thượng Hải đối với những người
Công giáo quốc tế. Và họ thích xem mẫu chuyệ nầy
ra sao. Tất cả những cái nầy làm cho điều đó
thành có thể để đi bước tiếp theo và tiến
xa hơn một chút với những ǵ Đức Cha Dân nói.
V́ thế một mặt tôi thấy ḿnh thật may mắn;
mặt khác,phải mất nhiều năm để phát huy
và xây dựng những loại quan hệ nầy. Đời
sống xă hội của tôi cũng tương tự - các
mối quan hệ mà tôi vun trồng lâu dài với các bạn
hữu người Hoa của tôi. Bạn càng quen biết họ
lâu, th́ các mối quan hệ càng trở nên sâu đậm. Đó
là một trong những điều làm phấn khởi nhất
về việc sống ở Trung Hoa. Bạn có thể nh́n
thấy được các mối quan hệ phát triển
theo năm tháng.
H. Nói về người Công-giáo
quốc tế ở Thượng Hải: Việc thực
hành Đạo ở Trung
Quốc khác
biệt ra sao so với nơi khác? Ví dụ, một Thánh
Lễ Công giáo ở Thượng Hải th́ khác biệt ǵ?
Đ. Chẳng khác ǵ cả. Đó
là điều làm chúng ta hết sức thích thú. Họ có cùng
thánh lễ mà người Công giáo Mỹ cử hành; cùng các bí
tích như nhau. Và đó chính là những ǵ mà Đức Cha Dân
muốn thiết lập. Đó hẳn là di sản quan trọng nhất của
Ngài. Ngài cảm thấy việc sắp xếp mọi sự
ở Thượng Hải cũng bất cứ nơi nào
khác ở Trung Quốc phải hoàn tất thật sự để
sao cho các bí tích Công giáo có hiệu lực cho bất cứ những
ai muốn lănh nhận. Bạn có thể đi dự thánh Lễ
vào đêm thứ Bảy; Bạn có thể đi dự Lễ
vào sáng Chúa Nhật. Và những Thánh Lễ ấy chẳng khác
chút nào so với các thánh Lễ cử hành bên Mỹ hoặc
bên Châu Âu - ngoại trừ Thánh
Lễ được cử hành bằng tiếng Hoa, dĩ
nhiên rồi. Điều đó muốn nói lên rằng không có
tính chất địa phương cho các Thánh Lễ cử
hành ở nơi đây. Nhưng sau khi cân nhắc chin chắn,
một thánh lễ vẫn cứ là một Thánh Lễ. Điều
đó xảy ra như một điều ngạc nhiên lớn
lao đó với những người nước ngoài sống
ở đây. Ngay cả ở Thượng Hải, họ cũng
sững sốt.
H. Tại sao ông cho là như
thế?
Đ. Tôi đă có một số suy nghĩ
về điều ấy. Một trong những lư do, theo tôi,
là những người không phải là người Hoa - nhấg
là người Châu Âu và người Mỹ - đă gán cho một
chuyện kể rất khác biệt với những ǵ xảy
ra ở đây kể từ năm 1949. Tây phương vẫn
c̣n nh́n Trung Quốc như là hiện hữu trong cùng t́nh trạng
vào năm 1949. Họ nghĩ, Trung Quốc năm 1949 khác với
năm 1970 ư? Chẳng qua là một nước Công sản.
Nhưng điều đó thực t́nh không c̣n chính xác nữa.
Ngày nay Trung Quốc có một vị trí rất khác. Một lư
do thứ hai cũng đơn giản. Đa số người dân
ở Mỹ không quan tâm lắm tới những người
Công-giáo Trung Quốc và ṿ thế một bài viết đơn
sơ về một Giáo Hội ngầm trung thành với Rôma
và một “Giáo Hội Yêu Nước” trung thành với đảng
cộng sản, cũng đủ rồi. Tất nhiên, bài
viết nầy - một bài viết phức tạp hơn
nhiều – không thể bị giải thích trong một câu duy
nhất hoặc thậm chí với một đoạn duy nhất.
Như thế th́ hỏng hết! (c̣n tiếp
một kỳ)
T̀M HIỂU KINH
THÁNH
ĐỀ TÀI 16.
TÍNH CHẤT XÁC
THỰC VÀ SỰ THỐNG NHẤT
TRONG CÁC THƯ
CỦA THÁNH PHAOLÔ
Theo một truyền thống rất cổ
xưa thánh Phaolô là tác giả của 14 bức thư như
hiện có trong Tân Ước. Đó là các thư 1-2
Thêxalônica, 1-2 Côrintô, Galát, Roma, Philiphê, Philêmônê, Colôxê, và các
thư mục vụ, tức các thư 1-2 Timôtêô và Titô, và sau
cùng là thư gửi tín hữu Do thái. Tuy nhiên, trong hai
thế kỷ qua giới học gỉa Kinh Thánh Tân
ước đă dùng khoa phê b́nh lịch sử để
nghiên cứu và kiểm chứng các thư nói trên. Theo các
kết qủa thu lượm được cho tới nay
chúng ta có thể đưa ra một vài niên hiệu chắc
chắn được mọi học giả công nhận.
C̣n các niên hiệu khác vẫn tiếp tục là đề
tài của các cuộc thảo luận.
Trước hết không có
một lư chứng nào cho phép chúng ta kết luận rằng
thư gửi tín hữu Do thái đă do thánh Phaolô viết ra.
Nó không phải là một bức thư cho bằng một
khảo luận về chức Linh Mục của Chúa Giêsu,
do một tác giả vô danh biên soạn. Nếu hiện nay Giáo
Hội có gọi nó là thư gửi tín hữu Do thái,
chỉ v́ tiếp tục truyền thống đă có ngay
từ thời Giáo hội khai sinh, chứ thực ra không
đúng. Vẫn theo kết qủa các nghiên cứu phê b́nh
lịch sử của các học giả Kinh Thánh Tân
Ước, các thư mục vụ, tức hai thư
gửi Timôtêô và thư gửi Titô không phải của thánh
Phaolô, mà do trường phái các môn đệ của thánh nhân
biên soạn ra sau này. Tính chất trung thực của thư
gửi tín hữu Êphêxô cũng đă được
thảo luận rất nhiều. Một số học
giả tên tuổi đă cho rằng thánh Phaolô cũng không
phải là tác giả thư gửi giáo đoàn Côlôxê và
thư thứ hai gửi tín hữu Thêxalônica. Nhưng
nhiều học giả khác công nhận thánh Phaolô đă biên
soạn ra chúng. Liên quan tới thư thứ nhất
gửi tín hữu Thêxalônica, hai thư gửi giáo đoàn
Côrintô và các thư gửi tín hữu Galát, Roma, Philiphê và
Filêmônê, mọi học giả đều công nhận là do
chính thánh Phaolô viết ra (W. G. Kuemmel, Il Nuovo Testamento. Storia
della indagine scientifica sul problema neotestamentario, Bologna 1976).
Trên đây là
các vấn nạn và lập trường của giới
học giả Tân ước liên quan tới tính chất xác
thực trong các thư của thánh Phaolô. Tuy nhiên có lẽ nên
phân biệt rơ ràng giữa tính chất xác thực trong các thư
của thánh Phaolô và các tác phẩm thuộc trường phái
của thánh nhân. Trong nghĩa này th́ thư thứ nhất
gửi tín hữu Thêxalônica, hai thư gửi giáo đoàn
Côrintô, các thư gửi tín hữu Galát, Roma, Philiphê và Filêmônê
là do thánh Phaolô viết ra. C̣n các thư khác là kết qủa của
một thói quen trong lănh vực sáng tác văn chương
gọi là ”giả tên”, rất thịnh hành vào thời
đó. Để cho tác phẩm có uy tín, được
nhiều người đọc và phổ biến rộng
răi, các môn đệ thuộc một trường phái
thường lấy tên thầy ḿnh gán cho các tác phẩm do
họ biên soạn ra. Rất thường khi các tư
tưởng ṇng cốt của tác phẩm phản ánh tư
tưởng của vị thầy đó, hay tŕnh bầy
lập trường của trường phái do vị
đó thành lập. V́ thế, tuy không thể coi các tác
phẩm đó là do chính vị sáng lập trường phái
viết ra, nhưng có thể coi chúng như những
đứa con tinh thần của ông. Bởi v́ chúng phát
xuất từ trường phái do ông sáng lập và mang cùng
các tâm t́nh cũng như tư tưởng của ông.
Đôi khi các tác phẩm này cũng không phải là do các môn
đệ của trường phái biên soạn, mà do một
tác giả thuộc một trường phái có cùng chí
hướng, hoặc do một người nào đó yêu
thích hay chia sẻ tư tưởng của vị thầy
và trường phái, viết ra. Trong nghĩa này, các tác
phẩm cũng được coi như diễn tả
tư tưởng và tâm t́nh của vị tổ sáng lập
trường phái. Đây là điều tối kỵ
nếu không nói là nguy hiểm trong xă hội ngày nay. V́
tại các nước châu Âu chẳng hạn, có các luật
rất ngặt bảo vệ quyền của tác giả.
Nếu không được phép của tác giả hay
soạn giả mà dám trích dịch, hay sao chép hoặc
chụp lại các tác phẩm, khi bị kiện ra ṭa,
thường phải bồi thường từ vài
chục cho tới vài trăm hay hàng triệu mỹ kim. Do
đó, khi in sách và tài liệu các tác giả hay nhà xuất
bản thường ghi chứng cầu ṭa để có
giấy phép của bộ văn hóa, chính là để
chống lại kiểu làm ăn trộm cắp của các
tay thương mại văn chương và tư
tưởng nhan nhản khắp nơi trên thế giới,
đặc biệt tại các quốc gia kém mở mang.
Nhưng thời xưa, trong thế giới hy lạp và vùng
Trung đông Cổ hồi thế kỷ thứ I không có các
luật lệ như bây ǵơ.
Ở đây tưởng cũng nên xác
định một điều. Đó là kiểu cách phân
biệt trên đây chỉ liên quan tới lănh vực phê b́nh
lịch sử h́nh thành của các tác phẩm, nghĩa là
dựa trên các lư chứng của khoa phê b́nh lịch sử
và phê b́nh văn chương, chứ không liên hệ tới
gía trị ḷng tin tŕnh bầy trong các thư không do thánh Phaolô
viết ra. Dù không do chính tay thánh Phaolô biên soạn ra, các
thư này vẫn là tiếng nói quan trọng và ư nghĩa
của Kitô giáo thời khai sinh hồi thế kỷ thứ
I, và đối với các tín hữu chúng vẫn diễn
tả lời của Chúa.
Ngoài tính chất xác thực, trong các thư
thánh Phaolô c̣n một vấn đề khác từng
được giới học giả Kinh Thánh Tân
Ước thảo luận không kém phần sôi nổi.
Đó là vấn đề thống nhất trong các thư.
Đặc biệt đây là vấn nạn liên quan tới
thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô, thư gửi tín
hữu Roma và thư gửi tín hữu Philiphê. Các học
giả Tân Ước cho rằng khi phân tích nội dung và
kết cấu của ba bức thư nói trên, người
ta có thể nhận ra chúng bao gồm nhiều thư khác
nhau, mà thánh Phaolô đă viết cho tín hữu các cộng
đoàn này trong nhiều dịp khác nhau.
Cụ thể trong thư thứ hai gửi
tín hữu Côrintô chúng ta có thể nhận ra bốn tài liệu
khác nhau sau đây. Thứ nhất là một bức thư
ḥa giải, gồm các chương từ 1,1-2,13 cộng
thêm chương 7,5-16. Các liên hệ giữa thánh Phaolô và tín
hữu cộng đoàn Côrintô trở nên căng thẳng v́
tín hữu đă nghe lời dụ dỗ của một
số thừa sai kitô gốc do thái tới gieo hoang mang, vu
khống nói xấu nhằm giảm uy tín thánh nhân, chia
rẽ họ với thánh nhân khiến cho ḷng mến và
sự tin tưởng của họ suy giảm, và gây chia
rẽ trong cộng đoàn, khiến cho tín hữu kẻ
theo người chống thánh nhân. Sau khi phân trần
phải trái, thánh Phaolô xin tín hữu cộng đoàn hăy ḥa
giải và tha thứ cho những kẻ ấy. Tài liệu
thứ hai gồm chương 2,14-7,4 là lời thánh Phaolô
biện hộ cho sứ mệnh tông đồ và cung cách
sống của ḿnh, đă bị nhóm các thừa sai kitô
gốc do thái nói trên xuyên tạc và bôi nhọ. Tài liệu
thứ ba có tính cách tranh luận gồm các chương
từ 10 đến 13. Thánh Phaolô so sánh cung cách sống và
công việc rao truyền Tin Mừng của ḿnh với cung
cách sống của nhóm người nói trên, và lột
mặt nạ của họ trước tín hữu cộng
đoàn. Tài liệu thứ tư trong thư thứ hai
gửi tín hữu Côrintô gồm hai chương 8-9 là hai
điệp văn ngắn liên quan tới việc quyên góp
để trợ giúp giáo đoàn mẹ Giêrusalem đang phải
sống trong cảnh thiếu thốn.
Liên quan tới thư gửi tín hữu
Philiphê cũng thế. Chúng ta có thể nhận ra nội
dung của ba bức thư hay ba tài liệu khác nhau. Tài
liệu thứ nhất gồm các chương 1,1-3,1a và
chương 4,2-7.21-24, là bức thư chứa đựng
các lời khuyên nhủ của thánh Phaolô. Sau khi bày tỏ
sự vui mừng và biết ơn Thiên Chúa đă cho Tin
Mừng được phát triển mạnh mẽ thánh
Phaolô khuyên tín hữu hăy biết sống ḷng tin vững vàng,
hiên ngang bênh vực Tin Mừng, không nao núng sợ hăi
trước các thù địch, luôn biết noi gương
sống khiêm tốn của Chúa Kitô và trong mọi hoàn
cảnh luôn có các tâm t́nh nhập thể và nhập thế
của Chúa Kitô, cố gắng nên trọn lành. Ngoài ra thánh
Phaolô c̣n khuyên tín hữu hăy tin tưởng nơi Chúa, luôn
tươi vui, không lo lắng ǵ, cầu xin Chúa ban cho
mọi ơn cần thiết và sống kết hiệp
với Chúa. Tài liệu thứ hai gồm chương
3,1b-4,1.8-9, trong đó thánh Phaolô nhắc nhớ tín hữu
biết đề pḥng và xa lánh các tông đồ giả
dối gian ác. Họ là loài chó cắn xé tín hữu. Sau khi
nhắc lại cuộc sống qúa khứ là người
biệt phái chuyên chăm tuân giữ Luật lệ Do thái,
nhưng được gặp Chúa nên từ bỏ và hy sinh
mọi sự v́ Chúa Kitô, thánh Phaolô khuyên tín hữu hăy
biết noi gương sống của Ngài dứt khoát
với qúa khứ tội lỗi, và luôn hướng nh́n quê
hương vĩnh cửu trên trời để
định hướng cho cuộc đời ḿnh. Phaolô
cũng đau đớn ghi nhận rằng trong cộng
đoàn vẫn có những người sống như thù
địch của thập gía Chúa Kitô, chỉ tôn thờ cái
bụng và ăn chơi hưởng lạc buông thả.
Thánh nhân khuyên tín hữu hăy biết suy tưởng tới
tất cả những ǵ là Chân, Thiện, Mỹ và thực
hành mọi sự đă học được nơi ngài.
Tài liệu thứ ba trong thư gửi tín hữu Philiphê
gồm chương 4,10-20, là lời cảm tạ thánh
Phaolô dâng lên Chúa, v́ thấy tín hữu cộng đoàn có ḷng
tốt và thực hành đức bác ái đối với
thánh nhân. Mặc dầu thánh nhân đă tập sống thích
nghi với mọi hoàn cảnh lúc thiếu thốn nghèo
đói cũng như khi no đủ sung túc, tín hữu
Philiphê vẫn thương nhớ đến ngài và gửi
các tặng phẩm trợ giúp ngài.
Sau cùng, trong thư gửi giáo đoàn Roma
lời chúc tụng vinh danh cuối thư trong chương
16,25-27 được thêm vào sau này, chứ không thuộc
văn bản chính của thư thánh Phaolô. Trong khi các
lời chào và nhắn nhủ nhiều nhân vật khác nhau ghi
ở chương 16,1-23 là do thánh Phaolô viết nhưng không
phải cho tín hữu Roma, mà là cho tín hữu giáo đoàn
Êphêxô.
Linh-mục Linh-Tiến-Khải
◙ PHỤ LỤC
GỢI Ư SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT
XI THƯỜNG NIÊN Năm C
LC
7, 36 – 50
“ÔNG CHỦ
THA NỢ CHO CẢ HAI NGƯỜI”
Ai trong hai ng ười sẽ yêu
mến ông chủ hơn?
Khi nói yêu nhiều
hơn, Chúa Giêsu cũng nói về sự biết ơn. Cũng
thế, Người so sánh một chủ nợ có hai con nợ,
người thứ nhất mắc ợ ông năm trăm đồng
bạc;c̣n người kia th́ năm mươi. Người
so sánh việc tha những mó nợ nầy với sự tha
các tội lỗi, với sự tha thứ.
Người
ta hiểu hơn cử chỉ của Maria Mađalêna , nếu
người ta nhớ lại rằng mới ít tuần trước
đây thôi, trong Phúc Âm Chuá Nhật V Mùa Chay, người ta thấy
lại đoạn về Chúa Giêsu và người phụ nữ
ngoại t́nh.
Hai vụ án diễn
ra dưới mắt chúng ta: vụ án người đàn bà
và vụ án Chúa Giêsu. Cả hai có thể chết: người
phụ nữ th́ co tội ngoại t́nh; c̣n Chúa Giêsu th́ do tội
phạm thượng, nếu Người đi ngược
lại với luật mà Thiên Chúa ban cho ông Môsẹ. Cũng
như khi đứng trước Philtatô, Chúa Giêsu chọn
im lặng. Người sẽ được Thiên Chúa và
Kinh Thánh phục hồi, nâng dậy và tôn vinh. Bài tường
thuật xác định rằng “
Người dùng ngón tay viết trên mặt đất”.
Sự im lặng
của Người tránh cho người phụ nữ bị
bẻ mặt v́ vụ án khủng khiếp mà người
ta dàn xếp. Người cũng chẳng ngước mắt
nh́n chị . Người cúi xuống và Người viết.
V́ một số kẻ này nỉ hơi Người, Người
làm cho họ nh́n lại lương tâm của họ: Người
biết tất cả đều là người tội lỗi
tr7ớc mắt Chúa. Người lại cúi xuống để
viết. Người ta không xác định được
Người viết ǵ. Những lời tố cáo đâu đâu?
Có phải đúng hơn ngón tay nhân loại của Thiên Chúa
viết lên trái đất chúng ta Luật mới? Đối
với Chúa Giêsu cũng như đối với người
phụ nữ, Những Chữ Viết nầy sẽ là lời
bênh vực duy nhất và tốt nhất. Con tim mới là điều
quan trọng trong lời giảng dạy của Chúa giêsu. Phải
yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và
trong chân lư. Sự thờ phượng đích thực ở
đáy ḷng chúng ta. Nó có thể cũng tốt ở Pháp cũng hư ở Mễ-Tây-Cơ.
Điều đáng kể, đó là sự sẵn sàng nội
tâm, một mối quan hệ thật sự với Thiên Chúa
trong tự do cá nhân, trong t́nh yêu của Thiên Chúa và người
thân cận. Việc phụng tự bề ngoài là tuyệt với,
khi nó diễn tả một sự sẵn sàng tận đáy
ḷng chúng ta.
Bernard Lafrenière, C.S.C
◙ PHỤ TRANG
VIỆT-NAM 7 NGÀY
QUA.
+ (VnExpress 07,06) Ngày
18.06 phúc thẩm vụ kiện dioxin tại Mỹ. Đoàn
nạn nhân chất độc da cam/dioxin VN sẽ sang
Mỹ để tham dự phiên tranh tụng, đồng
thời vận động dư luận Mỹ ủng
hộ các nạn nhân. Lúc 10h sáng 18/6 sẽ diễn ra phiên
tranh tụng miệng giữa bị đơn là các công ty
sản xuất chất độc da cam của Mỹ và
nguyên đơn là các nạn nhân da cam VN. Trước đó,
từ tháng 9/2005, sau khi có bản phán quyết của Ṭa
sơ thẩm Mỹ, hai bên đưa bản kháng án lên Ṭa
phúc thẩm và chỉ tranh luận với nhau bằng
văn bản.Phiên phúc thẩm có có nhiệm vụ xem xét
lại những vấn đề mà thẩm phán Ṭa sơ
thẩm đă phán quyết là đúng hay không đúng. Hai bên
sẽ nói tóm tắt tất cả những ǵ đă
chuẩn bị trong suốt mấy năm qua về vụ
kiện, tŕnh bày tất cả lư lẽ của ḿnh. Mỗi
bên được phát biểu 40 phút, sau đó phiên ṭa
sẽ đi vào nghị án.Đây chỉ là phiên tiền xét
xử, có nghĩa ṭa chưa đi vào nội dung, mà chỉ
xem xét vấn đề pháp lư là có thể đưa vụ
kiện ra hay không. Ṭa sẽ xét 5 vấn đề: 1) C̣n
thời hiệu khởi kiện hay không.2) Các nạn nhân
chất độc da cam VN và Vava có tư cách đi kiện
tại Ṭa án Mỹ không .3)Ṭa án có quyền đưa ra xem
xét một việc mà Quốc hội và Tổng thống
Mỹ đă quyết định hay không. 4)Các công ty sản
xuất chất da cam có phải là bị đơn của
phiên ṭa hay không.5)Chất da cam có phải là chất
độc.
+ (Thanhnien 08.06) Trung tâm
Y tế dự pḥng TP.HCM tiếp tục kiểm tra các
cơ sở (CS) sản xuất, chế biến
nước mắm. Cả 3 CS được kiểm tra
đều không đảm bảo vệ sinh, có CS c̣n sử
dụng đường hóa học cấm dùng trong thực
phẩm (như sodium cyclamate); sử dụng nguyên liệu
không rơ nguồn gốc; nguyên liệu để cạnh nhà
vệ sinh; chai đựng nước mắm mua về
chỉ tráng nước rồi phơi nắng…
+ (Chinhphu 07.06) Chính
phủ đă họp phiên thường kỳ tháng 6/2007,
dưới sự chủ tŕ của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng và các Phó Thủ tướng Nguyễn
Sinh Hùng, Phạm Gia Khiêm. Tại phiên họp, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh
đến các nhiệm vụ công tác trọng tâm trong tháng
6/2007 và những tháng c̣n lại của năm 2007 để
đạt tốc độ tăng trưởng GDP 8,5%
trong năm 2007
Chỉ số giá cả tiêu dùng
tháng 5 tăng 0,72%
+ (Thanhnien 08.06)
Việt Nam và Mỹ vừa chính thức kết thúc đàm
phán Hiệp định khung về thương mại và
đầu tư (gọi tắt là TIFA - Trade and Investment
Framework Agreement).Một quan chức Mỹ cho biết
hiệp định như là một thỏa thuận song
phương giữa Việt Nam và Mỹ về cơ
chế để giải quyết các vấn đề
thương mại giữa hai quốc gia. Theo hiệp
định khung, hai bên sẽ thường xuyên có
chương tŕnh làm việc, trao đổi trực tiếp
với nhau trong một năm để khai thông những
trở ngại về thương mại giữa hai
quốc gia.
+ (Thanhnien 07.06) Theo Ông
Michael Baechlin, Cố vấn trưởng Chương tŕnh
không khí sạch Việt Nam - Thụy Sĩ (SVCAP): “Nồng
độ lưu huỳnh, benzen... trong khí thải rất
đáng báo động” Cụ thể theo tiêu chuẩn
của WHO th́ nồng độ Benzen là 5 microgam/m3 nhưng
ở Hà Nội th́ nồng độ này cao hơn rất nhiều.
Các bạn có thể thấy việc quy định nồng
độ benzen thấp như vậy chứng tỏ nó có
nguy hại như thế nào đối với sức
khỏe con người. Nên nhớ rằng đây là
chất cơ thể không thể bài tiết nên nó tích
tụ trong tế bào và gây ra các bệnh ung thư... Ngoài ra,
nồng độ các hợp chất độc hại
của lưu huỳnh và các loại ô-xít nitơ cũng
đang ở mức rất cao.
+ (Thanhnien 12.06) Ông Martin Rama, quyền Giám
đốc Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam:
Thành lập EPTC (công ty cổ
phần mua bán điện duy nhất) không phải là một quyết
định khôn ngoan, đúng đắn . Ông
đă gửi bức thư
khuyến nghị tới bộ trưởng các bộ: Công
nghiệp, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính
về mô h́nh công ty cổ phần mua bán điện duy
nhất (EPTC) do Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN) đề xuất có thể dẫn tới t́nh
trạng độc quyền dẫn đến giá bán
điện tăng, khó kiểm soát...
+ (TTXVN 12.06) Bộ Ngoại giao
đă ra thông cáo cho biết : Nhận lời mời của
Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ G. W. Bush
và Phu nhân, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam
Nguyễn Minh Triết và Phu nhân sẽ thăm chính thức
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ từ ngày 18-23.6.2007