THÁNG SÁU - THÁNG TÔN
THỜ
THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU
TRÁI TIM
ĐỨC CHÚA GIÊSU
HAY NHỊN
NHỤC VÀ HAY THƯƠNG XÓT
Trong
số nầy.
1.
TIN TỨC HỘI THÁNH CÔNG-GIÁO
2. GIỚI THIỆU
► THIÊN CHÚA CÓ HIỆN HỮU CHĂNG?
► MỘT GIÁO HỘI CHO TRUNG-QUỐC (phần II)
► T̀M HIỂU KINH THÁNH. ĐỀ 17:
VIỆC THU GÓP CÁC THƯ CỦA
THÁNH PHAOLÔ
► TẾ BÀO GỐC MÁU CUỐNG
RỐN
◙ PHỤ LỤC :
GỢI Ư SUY
NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT XII TN.C
◙ PHỤ TRANG:
VIỆT-NAM 7 NGÀY
QUA
BÁO CHÍ ÚC ỦNG HỘ CÁC GIÁO
SĨ VỀ NHÂN BẢN VÔ TÍNH
(LifestyleNews.com 14.06)
Tờ nhật báo quốc gia có trự sở ở
Sydney,Người Úc (The Australian) đă ca ngợi Đức hồng y
George Pell và tổng giám mục Barry Hickey v́ đă kiên vững
trong giáo huấn Giáo Hội liên quan đến nghiên cứu
tế bào gốc phôi thai. Trong số ra ngày 8.06 có tựa
đề “Hian hô ba lần đối với một
Người được chuẩn bị để
bảo vệ tính chất tuyệt đối của luân
lư”, tờ báo thừa nhận sự kính trịng
đối với các nhà lănh đạo Công giáo đă
giữ lập trường luân lư. Mặc dầu tờ The
Australian hậu thuẫn nghiên cứu tế bào gốc
phôi, nhưng ca ngợi Đức hồng y Pell, rằng:”
nhưng thật kỳ diệu,- vào một thời
đại mà khái niệm một chân lư có thể nhận ra
được đă bị các nhà bác học loại bỏ
nhằm thích hợp với xu hướng chung, - t́m
thấy được được một người
có địa vị và trí thức cao bảo vệ chân lư
ngàn đời”. Tờ báo nêu lên lời cảnh báo gần
đầy nhất của Đức hồng y Pell cho
người Công-giáo về dự luật mới
được thông qua ở Quốc hội Úc, hợp pháp
hoá nghiên cứu và nhân bản vô tính các h́nh thức khác nhau
của tề bào gốc phôi.Trước ngày bỏ
phiếu, Đức hồng y nói với các chính trị gia Công
giáo không được ủng hộ dự luật,
nếu không, sẽ có “hậu quả cho vị trí của
họ trong đời sống Giáo Hội”. Ngay sau đó
Đức hồng y Barry Hickey cũng hành động
tương tự . Hai vị không đe doạ ra vạ
tuyệt thông cho một ai, nhưng hy vọng các chính
trị gia sẽ đáp ứng một cách tích cực
những lời nhắc nhở cảnh báo của Giáo
Hội. Tờ báo nhận định:” Đức hồng
y đă làm tốt khi nhắc cho các tín hữu Công-giáo
rằng có một BỘ LUẬT xưa cổ hơn
Quốc hội, xưa cổ hơn thời gian, là trung tâm
đức tin của họ, của hần rỗi của
họ”
PHẢN
ĐỐI MẠNH MẼ V̀
SỰ THAY ĐỔI LẬP TRƯỜNG ỦNG
HỘ NẠO PHÁ THAI CỦA HỘI ÂN XÁ
(AsiaNews 14.06) Đức
hồng y Renato Martino, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng V́ Công Lư và Hoà B́nh
đă bày tỏ phản đối mạnh mẽ chống
lại sự thay đổi lập trường của
Hội Ân Xá Quốc Tế. Trong một cuộc phỏng
vấn dành cho tờ National Catholic Register, Ngài nói
rằng quyết định do tổ chức nhân quyền
ủng hộ việc hợp pháp hoá các điều
khoản nạo phá thai, là một sự phản bội cá
mục đích của Hội. Một hậu quả
của quyết định nầy sẽ là việc chấm
dứt tài trợ của các cá nhân và tổ chức Công giáo
cho Hội. Sự kiện những người vậ
động hành lang (lobbyist) tiếp tục vận
động quyến nạo phá thai là một hiện
tượng liên kết với điều mà Tôi Tớ Chúa
[Đức Gioan Phaolô II] gọi là ‘văn hoá sự
chết’…Thật khó ḷng tin rằng Hội Ân Xá Quốc
Tế đă nhượng bộ sức ép của cuộc
vận động hành lang nầy”.
TÁC PHẨM “HỒI ỨC và
NHẬN DIỆN’ CỦA CỐ GIÁO HOÀNG ĐƯỢC
DỊCH SANG TIẾNG HOA
(EMS 14.06) Công đồng Công giáo Đài
Loan sống tháng Sáu dâng hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu
để tưởng Đài bắc, đầu tháng sáu có
cuộc họp báo để công bố phiên bản
tiếng Hoa của tác phẩm “Hồi Ức và Nhận
Diện”. Viện trưởng Viện Đại
Học Công giáo Fu Ren và Cha Fang
Zhi Rong, nhà thần học Ḍng Tên, tham gia cuộc họp báo.
Tiến sĩ Li Jian Qiu, Viện trưởng viện
đại học Công giáo, đă nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc Đức Gioan Phaolô II tôn sùng
Thánh Tâm trong cuộc đời của Người, bởi
v́ “ Thánh Tâm là nguồn mạch t́nh yêu. V́ vậy cần
pải luôn quay về với Thánh Tâm, như Đức Thánh
Cha Gioan-Phaolo II đă làm”.
HỘI ĐỒNG VĂN HOÁ:
TỤC HOÁ, SỐNG “NHƯ LÀ THIÊN CHÚA CHẲNG HỀ
HIỆN HỮU”.
(Zenit 14.06) Tục hoá, hiện tượng
biểu hiện qua sự kiện là nhiều người
sống “như là Thiên Chúa chẳng hề hiện hữu”,
chủ đề hội nghị sắp tới của
Hội Đồng Giáo Hoàng về Văn Hoá mà Đức
hồng y Poupard làm chủ tịch từ 25 năm nay.
Đức hồng y nói trên sóng Radio Vatican :” Đây là thách
đố lớn nhất, sự tục hóa đang trở
thành chủ-nghĩa thế tục và phá hoại,tấn công
đức tin các Kitô-hữu ngay cả trong Giaó Hội. Có
những người sống trong một văn hoá, cứ
nghĩ rằng ḿnh sống cách tự nhiên và không ư thức
được cách thế họ suy nghĩ,hành
động, yêu mến, sống t́nh yêu và đau khổ,gia
đ́nh và đời sống xă hội. Và mọi thứ
nầy đến như những khuôn mẫu dần
dần cạn đi mất nội dung Kitô-giáo và tôi dám nói
ngắn gọn là nhân bản”.
D̉NG TÊN GIẢM SÚT VỀ CON
SỐ
(CWNews 15.05) Ḍng Tên giảm sút về con số
khoảng 364 người trong năm 2006. Trong năm qua, 486
người gia nhập Ḍng Tên,nhưng có đến 472 tu
sĩ từ trần và 378 người bỏ Ḍng.
Hiện nay Ḍng Tên có 19.216 tu
sĩ trên toàn thế giới và tuổi b́nh quân là hơn 57.
CÁC TRƯỜNG HỌC CÔNG GIÁO
Ở TRUNG TÂM BĂO.
(AsiaNews 15.06)
Trong những ngày vừa qua ở Ấn Độ, các
trường học thành trung tâm điểm của ac1c
cuộc thảo luận. BVS (Nhóm Bharatiya Vidyarthi Sena)
phản đối chống lại các trường học
Công giáo ở Mumbai. Bề ngoài động cơ của
những lời phản đối là về kinh tế,
thực ra Nhóm Bvs đ̣i phải hạ học phí. Nhưng
Đức tổng giám mục Giáo phận Mumbai,Oswald Gracias,
đồng thời là chủ tịch ban Giáo Dục, xác
nhận rằng các lư do đích thực có tính chất tôn
giáo, trong khi chủ tịfh nhóm Bvs nói rằng đó có
thể mang tính chất chính trị. Quyết định
của trường Thánh têphanô tiếp nhận các Kitô-hữu
thuộc lớp tiện dân vấp phải sự giận
dữ của công chúng. Đức Hồng Y nói:’ Những
lời phản đối nầy thật phi lư. Các linhg
mục và nữ tu ở Mumbai và các vùng khác trên đất
nước luôn phục vụ bệnh nhân và người
nghèo khổ với t́nh thương yêu và từ lâu đă chăm
sóc việc giáo dục giới trẻ”. Hiện có 150
trường Kitô-giáo trong giáo phận Mumbai.
DANH SÁCH CÁC WEBSITES CÔNG GIÁO Ở Ư SAU 10 NĂM.
(Fides 15.06) Cách đây mười năm, Giáo
Hội chập chững bước vào không gian ảo và
đă thấy được những khả năng rao
giảng Tin Mừng mới mẻ và phi thường qua
mạng. Từ 243 trang điện tử lúc ấy, sau
mười năm đă có hơn 13.000 trong đó có 11.458
luôn trực tuyến. Ở địa chỉ www.siticattolici.it, có thể t́m
thấy một toàn cảnh đầy đủ về
những ǵ đang xảy ra trong thề giới Công giáo.
Từ các giáo xứ (2.787) cho đến những hội và
phong trào Giáo Hội (2.361), từ những ngân hàng dữ
liệu (48) cho tới những cơ sở tôn giáo ( hơn
1.400) , từ những thông tin về các thánh và các nhân
chứng cho tới những trang cá nhân, những trang
cấp giáo phận (687), các đài phát thanh và truyền h́nh
Công giáo.
NGÀY TRUYỀN THÔNG XĂ HỘI Ở
CHÍ-LỢI.
(Fides 15.06) Sẽ được tổ
chức vào Chúa Nhật ngày 01.07:”một đánh giá
đạo đức về chất lượng các
chương tŕnh [ truyền h́nh] mà các em nhỏ và thanh
thiều niên xem và về ảnh hưởng của các
chương tŕnh nầy, là cần thiết”. Trong
nhiều quốc gia, Giáo Hội đă tổ chức Ngày
Truyền Thông Xă Hội có chủ đề năm nay
:”Trẻ em và các phương tiện truyền thông xă
hội: một thách đố đối với việc
giáo dục”. Để giúp đỡ các giáo phận,giáo
xứ và cộng đoàn tôn giáo, các trường học và
các chế và cơ sở Công giáo khác chuẩn bị cho ngày
nầy, HĐGM Chí-Lợi đă cho lên mạng trực
tuyến những chất liệu ở trên cổng www.iglesia.cl., trong đó ngoài thông
điệp của Đức Thánh Cha và các giải thích khác
nhau về văn bản nầy, những tài liệu về
việc linh hoạt các Thánh Lễ và cử hành phụng
vụ, c̣n có lời chào của Đức Cha Tomislav Koljatic,
giám mục giáo phận Linares và chủ tịch Ban Mục
Vụ Truyền Thông. Ở cấp quốc gia, Ban
Điều Phối Các Nhà Truyền Thông Công Giáo đă
mới tất cả các phóng viên, các nhà quảng cáo,
những chuyên viên kỹ thuật thính thị và vi tính,
những người ở trong lănh vực truyền thông
đại chúng ở Santiago và các tỉnh thành lân cận,
tham dự một thánh lễ cử hành ngày 29.06 do
Đức Cha Alejandro Goic,giám mục giáo phận Rancagua và
Chủ tịch HĐGM Chí-Lợi chủ tế.
PHONG CHÂN PHƯỚC CHO 498 VỊ
TỬ V̀ ĐẠO NGƯỜI TÂY BAN NHA
(Fides 16.05) Ngày 28.10, tại Roma sẽ cử
ah2nh nghi thức phing chân phước cho 498 Đấng
tử v́ đạo đă hy sinh mạng sống v́ t́nh yêu
Chúa Giêsu tại Tây-Ban-Nha trong thời kỳ bách hại
đạo các năm thập niên 1930 của thế kỷ
XX. V́ lẽ nầy, Văn Pḥng Phong Thánh và Văn Pḥng Thông
Tin của HĐGM Tây Ban Nha đă hoàn tất hồ sơ
sẵn sàng trên trang điện tử của HĐGM. Trong
số đó có 2 giám mục, 24 linh mục, 461 thành viên các
Ḍng Tu Nam Nữ (Ḍng Thánh Augustinô, Ḍng Đa Minh, Ḍng Salêdiêng,
Ḍng Sư Huynh Lasan,Huynh Đệ Đức Maria, Ḍng Kín,
Ḍng Phanxicô,Ḍng Ba Ngôi, Các Thừa Sai Thánh Tâm, Ḍng Đức
Bà Truyền Giáo, v..v..), 01 phó tế, 01 phụ phó tế
(Thầy Năm), 01 chủng sinh và 07 giáo dân. Đa số c̣n
rất trẻ.: 145 Vị từ 20 – 30; 97 Vị từ 30 –
40; 107 từ 40 – 50 và 72 Vị từ 50 – 60. Có 18 Vị
tuổi từ 16 đến 19.
ĐẠI HỘI TOÀN QUỐC
CANADA VỀ THẦN HỌC THÂN THỂ
(Fides 16.05) Trong hai ngày 15 và 16 tháng 6 đă
diễn ra Hội Nghị Chuyên Đề Toàn Quốc
lần đầu về Thần Học Thân Thể do
Tổ Chức Công Giáo ĐỜI SỐNG và GIA Đ̀NH (COLF)
tổ chức tại Edmonton,Alberta. Những nguyên nhân
tổ chứ th́ đa
dạng, trong đó phải kể đến tại Canada
khái niệm hôn nhân đă bị định nghĩa lại
vào ngày 28.06.2005 bao gồm cả việc kết hợp
giữa những người đồng giới. Ngoài ra
cùng ngày ấy Quốc hội Canada đă thay thế trong các
luật lệ từ “người cha tự nhiên” bằng
từ “ người cha theo luật”, một thay đổi
âm thầm nhưng đem đến nhiều hệ
quả: ngày 02.01.2007,Toà Án Ontario đă quyết định
rằng một đưa bé chó thể có ba cha mẹ hợp
pháp, kèm theo đó là văn hoá lấn lướt đưa
ra một h́nh ảnh xấu xa về t́nh yêu, về giá
trị và ư nghĩa của t́nh dục (chỉ như là t́m
kiếm khoái lạc). V́ thế Hội Nghị chuyên
đề nầy là để đáp lại nhu cầu
bức bách đề ra một cái nh́n Công-giáo mới về
t́nh yêu, hôn nhân và gia đ́nh. Trong các chủ đề,
nỗi lên có :”Thần Học Thân Thể là ǵ và tại sao
nó quan trọng?”; “Cuộc Tạo Dựng và Sự Cứu
Chuộc người nam và người nữ”; “Bí Tích Hôn
Nhân và Ngôn Ngữ T́nh yêu nhục dục”.
CHIẾN ĐẤU Ư THỨC
HỆ THẾ TỤC
(CWNews 16.05) Giáo Hội ở
Slovakia vốn đă trải qua nhiều thập kỷ
dưới sự cai trị cộng sản, nay phải
đối phó với thách thức tục hoá. Đó là lời
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nói ngày 15.06 với
các giám mục Slovakia đang đi viếng Mộ (ad limina).
Theo Đức Thánh Cha, Ba-Lan và Slovakia là hai quốc gia mà
chế độ cộng sản không hủy diệt
được, nay bị tác động nghiêm trọng
bởi những yếu tố đặc thù của xă
hội Tây Phương : chủ nghĩ tiêu dùng, chủ
nghĩa hưởng thụ khoái lạc, chủ nghĩa
thế tục, thuyết tương
đối,v..v…Đức Giáo Tông thúc giục các giám mục
noi gương Thánh Cyrilô và Thánh Mêthôđiô, những Vị
mang đức tin đến cho đất nước các
Ngài và nh́n nhận rằng sự lănh đạo của Giáo
Hội “hăy tiếp tục là một chương tŕnh tong
đồ và truyền giáo thật sự” và hảy
đấu tranh chống lại ư thức hệ thế
tục. Đức Thánh Cha ghi nhận co số ơn
gọi linh mục và tu tŕ nở rộ vẫn không làm phai
sự xuống dốc tỷ lệ sinh sản và hôn nhân,
cho thấy nhiều người trẻ ngán ngại tận
tụy hy sinh.
RẤT NHIÈU PHÉP
LẠ ĐƯỢC QUY VỀ CHO VỊ THÁNH MỚI
NGƯỜI BA-TÂY
(CWNews 16.05) Hàng ngàn phép lạ
đă được cho là nhờ lời chuyển cầu
của Vị Thánh người Ba-Tây vuùa mới
được tôn phong hiển thánh. Một trang điện
tử được d6ang hiến cho Thánh FREI GALVAO
đưa tin đă nhận
được 22.000 thư điện tử kể
ra những ân huệ nhận được nhờ lời
bầu cử của Vị Thánh kính yêu. Sinh thời (1739 –
1822), Antonio de Santa Ana Galvao – quen gọi là Frei Galvao – đă
nỗi tiếng do những ơn chữa bệnh phi
thường, đặc biệt là những phụ nữ
có thai tôn kính Ngài cách đặc biệt và họ
thường kêu cứu Ngài trong các trường hợp sinh
khó. Ngày 11.05, Đức Giáo Hoàng Biển Đức đă
công bố FREI GALVAO là vị thánh tiên khởi người
bản địa Ba Tây . Kể từ khi Ngài
được tôn phong hiển thánh, các phép lạ ồ
ạt báo về. (xin xem trang
điện tử St.Frei Galvao).
LINH MỤC NGƯỜI IRAQ
ĐƯỢC BỌN BẮT CÓC TRẢ TỰ DO
(CWNews 19.06) Một linh mục Công-giáo
Can-đê bị bắt cóc ngày 6.06 đă được
trả tự do vô sự. Cha Hani Abdei Ahad đă bị
một nhóm sáu tay súng bắt tại Baghdad, bị bắt cùng với nhiều
người trẻ khi họ đang đi về
hướng một chủng viện ở Baghdad,
được mô tả là “rá6t mệt mỏi nhưng trong
t́nh trạng tốt” sau khi được thả. Những
người trẻ đă chóng được thả ra,
riêng với vị linh mục th́ bọn bắt cóc đ̣i
một moín tiền chuộc lớn. Mục đích của
vụ bắt cóc “không chỉ là nguồn tài chính mà c̣n là
phương cách để khủng bố cộng đoàn
Kitô-giáo”.
THÔNG ĐIỆP CỦA THÁNH
PHANXICÔ BỊ CHỦ NGHĨA TỤC HÓA XUYÊN TẠC
(CWNews 19.06) Đức giáo hoàng
Biển-Đức XVI nói trong chuyến viếng thăm
Atxidi ngày 17.06: Tinh thần của Thánh Phanxicô Atxidi bị
“cắt xén” bởi những người nhiệt thành
đương thời mô tả nhà lănh đạo Kitô-giáo
vĩ đại như là một nhà bảo vệ môi
trường đầu tiên. Ngài nói thêm: Những
người hâm mộ thề tục không biết
đến khía cạnh nỗi bật nhất của
cuộc đới Thánh Phanxicô, sự tận hiến
tuyẹt đối của Ngài cho Chúa Kitô. Niềm say mê lớn
nhất đời Thánh Nhân, từ đó mà mọi
đức tính lôi cuốn khác của Thánh Nhân nở hoa,
chính là sự khát khao nên thánh của Người. Sự
hiểu sai về Thánh Phanxicô ngày nay là triệu chứng
của một vấn nạn rộng lớn hơn. “ Ngày
càng thường xuyên hơn, các Kitô-hữu thời
đại chúng ta thấy ḿnh đối diện với xu
hướng chấp nhận một Chúa Kitô bị giảm
thiểu, được ca ngợi trong nhân tính phi
thường của Người nhưng bị loại
bỏ trong mầu nhiệm sâu thẳm Thiên Tính của
Người”.
ĐỨC GIÁO HOÀNG
CA NGỢI VỊ GIÁO SĨ CẤP CAO CHÍNH THỐNG
(CWNews 19.06) Đức giáo hoàng
Biển-Đức XVI đă tiếp kiến Đức
tổng giám mục Chrysostomos II ở Cyprus ngày 16.06 và yêu
cầu “tính kiên định” trong các nỗ lực lấp
đầy hố sâu ngăn cách Công giáo và thế giới
Chính Thống giáo. Đức Thánh Cha cám ơn vị giáo
sĩ người Cypre v́ cuộc viếng thăm.
Người ca ngợi Đức tổng giám mục v́
thiẹn chí “xây những nhịp cầu hoà giải, hợp
tác và yêu thương mới”. Sự phát triển mạnh
của chủ nghĩa thế tục và thuyết
tương đối khiến cho việc nầy trở
thành bức thiết đối với Kitô-hữu hầu
“t́m cho được một ngôn ngữ để tuyên
xưng đức tin hiệp nhất chúng ta nên một”. Các
mục tiêu của Đức Giáo Hoàng được khẳng
định trong một văn kiện kèm theo mà
Người và Đức TGM Chrysostomos đă kư, tuyên bố
“ước mong chân thành và vững bền của các Ngài,
vâng theo ư muốn của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta,
để tăng cường t́m kiếm sự hiệp
nhất trọn vẹn tất cả mọi Kitô-hữu”.
Văn kiện nầy nói:” Cần thiết phải phục
hồi cội rễ Kitô-giáo của Châu Âu đă làm cho
nền văn minh của Châu Âu vĩ đại qia các
thế kỷ và nh́n nhận rằng truyền thống Kitô-giáo Phương Tây và
Phương Đông, trong ư nghĩa nầy, có một trách
nhiệm chung phải hoàn tất”.
D̉NG TÊN MỞ TRƯỜNG
HỌC Ở AFGHANISTAN
(AsiaNews 19.06) Trường Kỹ Thuật Heart khai giảng với sự hiện diệ của Bộ trưởng Bộ giá dục Afghanistan, người mời các tu sĩ Ḍng Tân đóng góp cho sự phát triển giaó dục ở Afghanistan. Trong cac1 sinh viên, có rất nhiều thanh thiếu nữ. Cha Padre Moretti, phụ trách vùng truyền giáo, nói rằng nhiều nhóm khác đang giữa một vai tṛ trong hành động nhân đato Công giáo trên đá6t nước nầy. Chi phí cho trường kỹ thuật nầy là 145.355 USD do các tu sĩ Ḍng Tên khắp thế giới và thân hữu cùng các ân nhân ở Đức,Thụy Sĩ và Áo gửi giúp. Ông bộ trưởng chấp thuận một dự án của Ḍng Têm biến ngôi trường thành một cơ sở độc lập cho các sinh viên sau khi tốt nghiệp lớp 12, có thể theo học hai năm huấn luyện nghề nghiệp.
TRIỂN LĂM NGHỆ THUẬT
Ở Ư BỊ ĐÓNG CỬA
DO PHẠM THƯỢNG
(CWNews 20.06) Một
cuộc triển lăm bao gồm một h́nh tục tĩu
về Đức Trinh Nữ Maria đă bị hủy
bỏ ở Bolonia, Ư,theo lệnh của thị
trưởng Sergio Cofferati. Ông mô tả việc trưng bày
bài-Công giáo là “hàh động thô bỉ không thể chấp
nhận được xúc phạm đến các những
người tin lẫn người không tin”. Vị thị
trưởng đảng viên cộng sản nói tiếp:
“Những cuộc triển lăm văn hoá có hiệu quả
khi chúng biết giữ thái độ tôn trọng và không
trở nên dung tục, như là trường hợp
nầy”. Một nhà chính trị địa phương thuộc
Đảng Forza Italia yêu càu cuộc triển lăm phải
được đưa ra toà v́ phạm và điều 403
Bộ luật h́nh sự Ư, quy định h́nh phạt cho
những báng bổ chống lại đức tin tôn giáo.
Một văn kiện từ Toà Tổng giám mục Bolonia
gọi sự kiện nầy là một” sự phạm
thượng đáng tởm”.
ỦY VIÊN
CÔNG TỐ Ư LÊN KẾ HOẠCH BUỘC TỘI PHIM MẬT MĂ
DA VINCI
(CWNews 20.06) Uỷ viên công tố quốc gia
ở Civitavecchia, Ư, đă thông báo kế hoạch buộc tội
đối với những nhà tạo phiên bản phim
Mật Mă Da Vinci nếu họ du hành đến Ư. Ông
đưa ra thông báo nầy
sau khi một nhóm 40 linh mục tố cáo bộ phim. Các Ngài
cáo buộc rằng bộ phim là tục tĩu, đặc biệt là chỉ trích những
lời tuyên bố rằng Chúa Giêsu không phải độc
thân và đă có con. Ron Howard, đạo diễn phim và Dan
Brown,tac giả, có thể đối mặt với lệnh
bắt giữ nếu họ tới Ư. Nếu bị
kết án về những cáo buộc về sự tục
tĩu, họ có thể bị tù từ ba tháng đến ba
năm và phạt tiền ít nhất 139 USD.
CHỦ
ĐỀ CỦA NGÀY THẾ GIỚI HOÀ B̀NH 2008
(E.M.S 20.06) Văn pḥng báo
chí Toà Thánh đă thông báo rằng Đức Thánh Cha
Biển-Đức XVI đă chọn GIA Đ̀NH làm chủ
đề trung tâm cho Ngày Thế
Giới Hoà B́nh lần thứ 41 vào ngày 01.01.2008.
Hằng năm,Giáo Hội đem những ước chúc cho
đầu năm mới. Chủ đề năm tới
sẽ là :’GIA Đ̀NH NHÂN LOẠI: CỘNG ĐỒNG HOÀ
B̀NH” (Hai thông điệp trước đây của ĐGH Biển
Đức XVI, là :”Trong chân lư, hoà b́nh” (2006) và “Con
người nhân loại, trung tâm của hoà b́nh” (2007).
Mỗi cá nhân,mỗi dân tộc được mời
gọi sống và cảm thấy miùnh là thành viên của Gia
Đ́nh Nhân Loại, được Thiên Chúa h́nh dung nhưlà
cộng đồng hoà b́nh.
THẾ GIỚI CÓ GẦN 100
TRIỆU NGƯỜI TỊ NẠN
(BBC News 20.06) Theo một báo cáo của Liên hiệp quốc
(LHQ), lần đầu tiên trong ṿng 5 năm, số
người tị nạn trên thế giới tăng
vọt, nguyên nhân chủ yếu do bạo lực tại
Iraq. Tổng số người tị nạn trong năm
2006 tăng hơn 14% so với năm 2005, lên đến
gần 10 triệu người. Con số này không tính
đến 4,3 triệu người Palestine (gồm cả
những người được sinh ra ở
nước ngoài khi bố mẹ sống lưu vong) bị
mất chỗ ở từ năm 1948 trong cuộc xung
đột với Israel.Số người bị mất
chỗ ở bên trong các nước cũng lên
đến mức kỷ lục: gần 13 triệu
người.
THIÊN CHÚA CÓ HIỆN HỮU CHĂNG?
Trong khi
hướng dẫn Giáo Lư Công-giáo cho các dự ṭng “trí
thức”,các giáo lư viên thường gặp không
ít khó khăn, khi đề cập
đến SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚA: Không
thể đưa ra những lư luận hoặc nhận
định vơ đoán của một kẻ “đă tin”,
hoặc tệ hại hơn nữa, là rất mơ hồ
và lệch lạc. Pierre Odon giúp chúng ta có một tài liệu
khá khoa học và có nền tảng thần học vững
vàng,quân b́nh. BTGH xin giới thiệu để mong nhận
được ư kiến và đóng góp.
1. MÂU
THUẪN CĂN BẢN CỦA CHỦ NGHĨA VÔ THẦN.
- Theo cách suy diễn số 1
- Theo cách suy diễn số 2
2.
NHỮNG HẠN GIỚI CON NGƯỜI
- Tạo lư thuyết mà không
chứng minh
- Tin mà không thấy
- Nhận định mà không
giải thích.
◙ ◙ ◙ ◙ ◙ ◙ ◙
◙ ◙ ◙ ◙ ◙ ◙ ◙
Để mở đầu,tôi muốn nói
rằng chủ đề đưa ra có thể tiếp
cận bằng 2 cách khác nhau:
a) Cách tiếp cận khách quan:
Đúng,Thiên Chúa hiện hữu,tôi tin điều đó, tôi
biết điều đó,tôi cảm thấy điều
đó và tôi kinh nghiệm điều đó. Vâng, chúng ta có được một mặc
khải từ phía Thiên Chúa: đó là Kinh Thánh,mà tôi tự nuôi
dưỡng hằng ngày từ 30 năm qua! Với Frossard
nhiều người có thể nói:”Thiên Chúa hiện hữu:
tôi đă gặp Người!”. Không muốn đụng
tới sức mạnh của những chứng từ
nầy,hăy nh́n nhận rằng những lời tuyên bố
như vậy cũng có sự yếu đuối và
những giới hạn của chúng. Một số
người khác tin những điều khác và kinh nghiệm
về những điều khác.
b) Cách tiếp cận chủ quan:
Nếu Thiên Chúa hiện hữu và nếu Kinh Thánh là
sự mặc khải cụ
thể của tư duy của Người,th́ chúng ta
phải t́m được những dấu vết và
những bằng chứng sự hiện hữu và mặc
khải của Người,do mọi người có
thể tiếp cận được với chúng. Cách
tiếp cận khách quan đặt ra cho chúng ta việc
phải xem xét hai giả thuyết: hoặc Thiên Chúa hiện
hữu hoặc Người không hiện hữu. Trong hai
trường hợp nầy sẽ có một sự
bước đi của đức tin.
THIÊN CHÚA HIỆN HỮU: Tôi chấp nhận rằng tôi có thể
không hiểu và không giải thích được điều
đó và rằng tôi chỉ có thể biết Người
nếu Người muốn tỏ ḿnh cho tôi. Những
vĩ nhân khoa học đă xác tín:” Ngài Isaac Newton đă có
thể nói:”cho dù thiếu mọi chứng cứ,th́ việc ngón tay cái của tôi quan
tâm cũng đủ chứng minh cho tôi sự hiện
hữu của Thiên Chúa”.
Gần đây
hơn nữa,Giáo sư Alfred Kastler,Giải Nobel Vật Lư,
đă viết:”ư tưởng rằng thế giới,vũ
trụ vật chất tự tạo dựng nên ḿnh
đối với tôi là phi lư. Tôi chỉ có thể quan
niệm thế giới với một Đấng Tạo
Hoá,và đó là một Thiên Chúa. Đối với một nhà
vật lư,một nguyên tử thôi đă phức tạp,phong
phú hiểu biết đến độ vũ trụ duy
vật chất không có ư nghĩa”).Đức tin Kitô giáo và
chủ nghĩa vô thần trong phong trào khoa học
đương thời, trg 23).
THIÊN CHÚA KHÔNG HIỆN HỮU: Tôi bị buộc phải tin rằng tôi
hiện hữu một cách t́nh cờ,nhờ vào một quy
tŕnh tiến hoá mà,một cách lạ lùng,đă không phát xuất
từ đâu nhưng lại đi tới một kiệt
tác,bằng việc vi phạm liên tục cac1 luật cơ
bản về khoa học và hiểu biết đơn
thuần. Co bao giờ bạn đă nhận thấy
rằng các sự vật
tự ḿnh cải thiện khi bạn bỏ rơi
chúng không? Riêng tôi th́ không!
Đây là
chứng từ can đảm của một nhà bác học
vô thần đương thời: Jean Rostand. Với tư
cách là nhà sinh học và tiến-hoá-học,ông đă kết
luận: Người ta chỉ có thể tin vào tiến hoá, người
ta không thể bao giờ cũng tin và tất cả sự
khác biệt là giữa những người khôn ngoan
biết ḿnh tin và những kẻ liều lĩnh tin rằng
ḿnh biết.
1. MÂU
THUẪN CĂN BẢN CỦA CHỦ NGHĨA VÔ THẦN.
Chúng ta xem xét
hai tiên quyết.
1.1. ĐIỀU TIÊN QUYẾT SỐ 1.
Moị nhà khoa
học khởi đi từ tiên niệm rằng vũ
trụ và thiên nhiên có liên quan chặt chẽ với nhau và được điều
khiển bởi những luật mà người ta có
thể khám phá. Hơn thế nữa,họ biết rằng
sự khám phá một luật,sẽ dẫn họ một
cách không thể sai lầm tới sự khám phá những
luật khác.Nếu tất cả đă đều hổn
loạn,th́ một cuộc t́m kiếm như thế sẽ
chẳng thể có tồn tại và điều đó
bởi 2 lư do:
- bởi v́ con người - tự nó không có lư trí,không
mạch lạc và vô tổ chức – sẽ chẳng khi nào
tự đặt câu hỏi nào
và sẽ
chẳng đói hơi một giải thích nào : trong một t́nh
huống như thế,th́ sự nghiên cứu khoa học
không thể
hiện
hữu.
- Bởi v́,dù sao đi nữa,cũng
chẳng có ǵ để khám phá (nếu không phải là
sự thiếu vắng các luật và sự nhận
định của sự quá khích, của tṛ may rủi và
của sự hỗn loạn).
Thế
nhưng các luật lệ hiện hữu và mọi luật
đều hàm ư một người làm ra luật,một
việc thực hiện kỳ diệu đến
độ thế giới đ̣i hỏi một trí khôn và
một ư hướng;một sự gắn kết tri
thức muốn rằng những ai t́m cách khám phá các
luật,cũng phải sẵn sàng t́m kiếm Đấng
đă thiết lập các
luật đó.
1.2. ĐIỀU TIÊN QUYẾT SỐ 2.
Những
người vô thần – như tên của họ chỉ cho
thấy – khởi đi từ điều tiên quyết vô lư
trí rằng Thiên Chúa không hiện hữu. Những kẻ
khác,ít cả quyết tuyệt đối hơn,nói họ
giới hạn những nghiên cứu của họ trong
phạm vi vật lư,không muốn đi sâu vào “siêu h́nh” (=
điều theo sau các câu hỏi vật lư)..Jean Rostand (đă nêu tên) giải thích niềm
tin của ông vào sự tiến hoá bằng sự kiện là
ông đă nói “không với Thiên Chúa” và ông xưng thú ngay sau
đó sự bối rối nội tâm đối diện
với sự ném bỏ nầy:” tôi là một người
bị ám ảnh,ta hăy noí từ nầy,BỊ ÁM
ẢNH,nếu không bởi Thiên Chúa,chí ít cũng bởi
kẻ-Không-Chúa.Vâng,đúng vậy!”. Một sự ngay
thẳng dường ấy thật hiếm có và cần
thiết phải nhấn mạnh. Từ chối ngay cả
giả thuyết về một năng lực tạo
dựng,nằm ở ngoài và cao hơn con
người,những vĩ nhân khoa học vô thần
lớn nhất bị hạn chế đến mức
dọ dẫm bằng cách đề nghị những lư
thuyết thường làm cho họ vẫn đói khát.
Một trong họ diễn tả như sau:” Chủ
nghĩa duy vật đáng buồn,cái chủ nghĩa duy
vật chỉ biết đổ lỗi cho sự t́nh
cờ,không thể tiên liệu trước đó,không thể
bào chữa sau đó,cách thức lịch sử thế
giới diễn ra” (Giáo sư Kahane,nhà duy vật và duy lư
chủ nghĩa).
Hai lời
xưng thú chân thành nầy cho thấy rằng chủ
nghĩa vô thần không phải là tự nhiên.Nó là một
sự lựa chọn cố t́nh;hơn thế nữa,nó là
một sự bác bỏ cố t́nh,là một sự
đối nghịch với tư suy có sẵn một cách
tự nhiên trong mọi con người: tư duy về
vĩnh cửu,tư duy về một Thiên Chúa Đấng
Tạo Hoá.
Hăy đem
một em bé đi thăm pḥng trưng bày tranh: em sẽ
hỏi bạn một cách tự nhiên: Ai đă vẽ
bức tranh nầy? Và bạn sẽ trả lời : đó
là một hoạ sĩ. Hăy đem nó đi thăm một
pḥng trưng bày xe hơi và đứa trẻ sẽ hỏi
bạn “nhăn mác” của chiếc xe nầy hoặc chiéc xe
kia.Bạn sẽ trả lời cho nó rằng đó là
chiếc Ferrari (hiểu ngầm: chiếc xe được
các kỹ sư nghiên cứu của hăng Ferrari h́nh thành). Hăy
đem nó đi thăm một bảo tàng lịch sử
tự nhiên và đứa trẻ sẽ hỏi bạn
cũng cách ấy:”Ai đă làm tất cả những
điều đó?”. Bạn sẽ trả lời :”
Điều đó tự làm ra một ḿnh,theo gịng thời
gian”… Một ai đó đă nói:”chủ nghĩa vô thần là
sự xuyên tạc lư trí”; Kinh Thánh nói:”tự cho ḿnh là khôn
ngoan,họ trở thành điên rồ”. Theo lời tiên tri
của Daniel,cách nay đă 26 thế kỷ – sự hiểu
biết phải tăng thêm ở ngày tận thế” (Dnl
12,4)… Nhưng nhiều nhà bác học thật sự làm cho
chúng ta nghĩ đến những người bị mù
quáng đang leo lên một cầu thang phía ngược:
họ trèo từng bậc một với một tính ưa
gây gỗ khiến phải kính trọng,nhưng không v́
thế mà đến gần đích được:”càng khám
phá ra các sự vật, họ càng khám phá ra những sự
vật phải khám phá”. Oc đảo xa vời không chỉ
là một ảo giác: nó rời xa cũng mau chóng như
người ta đến gần nó”.
Đă 3.000
năm,vị vua khôn ngoan Salomon nói về loại nghiên
cứu nầy: “tôi đă đem hết tâm hồn
để t́m kiếm và thăm ḍ bằng sự khôn ngoan
tất cả những ǵ xăy ra dưới bầu trời:
đó là một sự chiếm ngự vô ơn mà Thiên Chúa
đă ban cho con cái loài người,để chúng vất
vả ở đó”(Kn 1,13). Rất nhiều người
lương thiện đă vất vả mệt nhọc
ở đó. Vậy tại
sao họ đă không muốn,với tư cách là những nhà
khoa học thực thụ,xem xét mọi giả thuyết
để khám phá ra Chân Lư? Sự nghiên cứu của họ
sẽ đă chẳng phải chịu điều
ấy,trái lại là khác; Lại nữa điều có ư
nghĩa là qua các thế kỷ, các khám phá lớn lao nhất
đều do những kẻ có niềm tin thực hiện.
Kinh Thánh
nói:”kẻ mất trí nói trong tâm hồn ḿnh,không hề có Thiên
Chúa” (Tv 14,1). Và như thế sự khẳng định
nhưng không về sự không hiện hữu của Thiên
Chúa tỏ ra như một sự thất bại của con
người chối bỏ nguồn gốc của ḿnh,ngay
nếu trong những địa hạt khác thường
tỏ ra một trí thông minh sáng chói,chứng từ gián
tiếp nhưng thú vị về những khả năng mà
Thiên Chúa đă ban cho con người đưộc
“dựng nên giống như Người”.
2. NHỮNG GIỚI HẠN CỦA CON
NGƯỜI.
Gạt bỏ
ư tưởng ngay cả về Thiên Chúa,con người không
thể biết và hiểu lịch sử thế giới và
lịch sử của chính nó; sự liều lĩnh sẽ
trở thành lớn lao khi kể về những câu
chuyện,có lô-gic,hay ho nhưng giả dối.
Không muốn
đụng chạm tới sự nổi tiếng hoặc
giá trị của các tác giả nỗi danh thế
giới,tôi chỉ muốn có vài nhận xét về cuốn
sách có tựa đề “Lịch sử thế giới
đẹp nhất. Các bí mật của nguồn gốc
chúng ta”(Nhà xuất bản Seuil 1995). Đây là những ǵ
người ta có thể đọc ở b́a 4 :” Chúng ta
đến từ đâu? Chúng ta là ǵ? Tại sao chúng ta
lại ở đó? Đó là những câu hỏi duy nhất
đáng đưộc đặt ra. Cho tới nay,chỉ
có tôn giáo và triết học trả lời những câu
hỏi ấy. Ngày nay,khoa học,cả nó nữa,cũng
đưa ra ư kiến: nó tái dựng lịch sử thế
giới.Đó là chính sự tiến hoá từ 15 tỷ
năm thúc đẩy vật chất tự tổ chức,từ Vụ Nổ Big Bang
tới trí khôn. Chúng ta xuống từ những con
khỉ,những vi khuẩn,những dăy ngân hà.Và cơ
thể chúng ta gồm những phần tử nhỏ
xuất phát từ đêm đen thời gian. Đ6ay là tŕnh
thuật đầu tiên đầy đủ về cội
nguồn của chúng ta,dưới ánh sáng những hiểu
biết hiện đại nhất: vũ trụ,sự
sống,con người… Ba hành vi của cùng một thiên
sử thi được kể lại trong một cuộc
đối thoại không có thuật ngữ chuyên môn. Đă
có những ǵ trước
đó? Làm thế nào sự sống sinh ra từ cái vô tri vô
giác? Sự tiến hoá nầy sẽ c̣n tiếp diễn
chăng? Nó có tương hợp với đức tin không”
Đó chắc chắn là câu chuyện hay nhất được
dâng tặng cho ta ở đây. Bởi v́ đó chính là câu
chuyện của chúng ta”.
( Tôi rất thích câu hai nghĩa cuối cùng
nầy. Người ta cũng có thể hiểu nó theo cách
nầy:”đây hẳn là câu chuyện đẹp nhất
dâng tặng cho ta ở đây,bởi v́ CHÍNH CHÚNG TA ĐĂ
CHẾ RA NÓ…”).
- Hubert Reevesmnhà thiên văn học,giảng
dạy vũ-trụ-học ở Montreal và Paris.
- Joel de Rosney,nguyên giám đốc Viện
Pasteur,hiện là giám đốc Thành Phố Khoa Học.
- Yves Coppens,giáo sư Trường Collège de
France,đồng khám phá Lucy…
- Dominique Simonnet,phó tổng biên tập tờ
Express…
Những
giới hạn của các các nhà khoa học vĩ
đại nhất hiện ra một cách hiển nhiên trong chính các tuyên bố
của họ.
2.1. TẠO GIẢ THIẾT MÀ KHÔNG CHỨNG
MINH.
Mặc
dầu cái tựa đề thông báo một cách thiếu
chính xác “những bằng chứng của Vụ Nổ Big
bang”,bản văn tŕnh bày nó như một lư thuyết khoa
học (trg 31 và 39),v́ vậy như là một giả
thuyết làm việc đơn thuần. Hăy ghi nhận
rằng khái niệm “bắt đầu” vốn bị
loại bỏ từ lâu,ngày nay lại được
chấp nhận một cách tổng thể bởi cộng
đoàn khoa học. Như vậy, sau nhiều ngàn năm
quanh co thoái thác,các nhà khoa học quay lại điều mà
Kinh Thánh tuyên bố đơn sơ cách nay 3.500 năm trong
quyển đầu tiên của Kinh Thánh,trong chương
đầu tiên,trong hàng chữ đầu tiên và trong từ
đầu tiên BÉRÉCHIT = “từ khởi thủy”Thiên Chúa
đạ tạo dựng trời và đất”.
2.2. TIN MÀ KHÔNG THẤY.
Cuốn sách
được giới thiệu,một cách khá sư
phạm,dưới h́nh thức hoỉ-đáp. Phóng viên
đặt câu hỏi và các nhà khoa học trả lời:
H : Làm sao người ta có thể mô tả
vụ Big Bang nếu người ta không thể nh́n thấy
nó?
T : Người ta nh́n thấy rất
nhiều các biểu hiện của vụ nổ…(trg 31).
Điều
ấy làm tôi đặt 2 câu hỏi:
Tại sao có nhiều người bác bỏ ư
tưởng về Thiên Chúa như vậy khi nói “tôi chỉ
tin điều tôi nh́n thấy”,trong khi những nhà khoa
học vĩ đại nhất của cuối thế
kỷ XX lại tin những điều họ không nh́n
thấy,nhưng họ có thể kiểm chứng các
biểu hiện của chúng?
Tại sao những kẻ tin vào Thiên Chúa
lại phải chấp nhận trong lănh vực khoa
học,điều mà một số nhà khoa học nói
rằng họ không thể chấp nhận trong lănh vực
đức tin? Đức tin trong lănh vực đức tin
là lô-gíc;đức tin trong lănh vực khoa học là phi
lô-gic.
2.3 NHẬN ĐỊNH MÀ KHÔNG GIẢI THÍCH.
H. Tại sao vũ
trụ đă không ở t́nh trạng nhăo? (Hăy nhớ
rằng Kinh Thánh nói về sự hổn mang). Điều ǵ
đă kích thích vũ trụ tự tổ chức?(trg 39)
T. Đó là 4
lực vật lư:
- Lực nguyên tử
- Lực từ tính
- Trọng lực
- Lực yếu
Điều
thú vị là các nhà khoa học t́m cách “thống nhất các
lực nầy” (trg 44),hiện tại chúng được
gom lại trong một “tam thể”đáng ngạc nhiên:
- Lực nguyên tử
- Trọng lực
- Lực từ tính yếu (gồm những
lực yếu và từ tính)
H. Nhưng các
LỰC nỗi tiếng nầy,chúng đến từ
đâu vậy?(trg 40)
T. Câu hỏi quá
rộng,giới hạn của siêu h́nh…
Tại sao có các lực?
Tại sao các lực lại có h́nh thức
toán học mà chúng ta biết về chúng? Chúng ta biết
rằng các lực nầy ở đâu cũng như
thế,nơi đây hoặc ở tận cùng vũ
trụ,và chúng không thay đổi một chấm phẩy
nào kể từ vụ nổ Big Bang…
H. Làm sao có thể
giải thích rằng các lực bất biến ở
mức nầy? (trg 41).
T. Trên những bia
đá nào,như những bia đá của M6oisen,hiện
hữu các luật nầy?
Chúng có xếp
“bên trên” vũ trụ,trong thế giới của các ư
tưởng mà những môn đệ Platon ưa thích?
Các câu hỏi
nầy không mới mẻ;người ta bàn căi về chúng
từ 2.500 năm nay. Các tiến bộ của môn vật lư
học thiên thể đă đặt lại cuộc tranh
luận triết học nầy mà chẳng goúp ta giải
quyết đưộc ǵ hơn. Tất cả những ǵ
chúng ta có thể nói,đó là,trái ngược với vũ
trụ không ngửng đổi thay,các luật vậy lư
nầy,phần chúng, không thay đổi,trong không gian và trong
thời gian. Trong khuôn khổ lư thuyết Vụ Nổ Big
Bang,các luật vật lư nầy đă chỉ huy sự
khởi thảo phức tạp. Hơn nữa,những
đặc tính của các luật nầy c̣n gây ngạc nhiên
hơn : các h́nh thức đại số và các giá trị con
số của chúng dường như được
điều chỉng đặc biệt chính xác.
H. Chúng
được +điểu chỉnh” bằng cách nào” (trg
42)?
T. Những mô
phỏng toán học của chúng ta chứng minh điều
đó: nếu chúng đă khác biệt rất nhẹ nhàng mà
thôi,th́ vũ trụ đă chẳng bao giờ thoát khỏi sự
hổn mang thuở ban đầu. Không một cấu trúc
phức tạp nào có thể hiện ra. Ngay cả một
phân tử đường cũng không nốt. Một nhà
vật lư thiên thể khác, NGƯỜI MỸ GỐC
VIỆT, GS TRỊNH XUÂN THUẬN,Thuộc Đại
Học Virginia,được cả thế giới công
nhận là nhà vật lư “nguyên gịng”,ngay giữa một
công-tŕnh khoa học (GIAI ĐIỆU BÍ MẬT) đă dành cho
ḿnh một chương để biện hộ
về…SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚA. Và nói rằng vũ trụ có một
chương tŕnh.một chương tŕnh được
đặt ra và được chính Thiên Chúa điều
hành,bằng nhận định rằng “sự điều
hành ban đầu quả thật với một tŕnh
độ điêu luyện đến nghẹt thở:
người ta có thể so sánh nó với sự khéo léo
của một cung thủ thành công trong việc bắn
mũi tên trúng vào tâm bia mỗi cạnh 1 centimét,đứng
cách 15 tỷ năm ánh sáng..” (một năm ánh sáng #10.000
tỷ cây số. TLL)
KẾT LUẬN.
Ở vào
điểm những hiểu biết hiện nay,chúng tôi
chỉ muốn ghi nhận rằng rất nhiều nhà khoa
học có niềm tin hoặc không tin đều nhất trí
với điều mà Kinh Thánh đă nói từ nhiều thiên
niên kỷ đă qua,biết rằng:
- có một khởi thủy
- có thể chấp nhận tin những
điều người ta không nh́n thấy trong mức
độ chúng ta nh́n thấy những biểu hiện
của chúng.
- Con người bị hạn chế và không
thể giải thích moị sự.
- Có một “tam thể các lực” nằm ngoài
con người khác biệt,ở bên kia con người và
tạo vật,hiện diện khắp nơi,
hoàn chỉnh,bất biến.
Nhận
biết “Lực”nầy đă chủ tŕ ngay từ nguồn
gốc thế giới,phải chăng - đây không hề là tṛ chơi chữ- là công
nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa và quyền
năng của người trong việc tạo dựng?
Phải, hăy
ngẫm những lời tiên tri:
+ Hăy
ngước mắt lên cao và hăy nh́n xem! Ai đă tạo
dựng nên những điều nầy,làm cho ra hằng hà
sa
số? Vị
ấy đă goị tất cả chúng bằng tên. Bằng
sự cao cả của quyền năng Người và
bằng sức mạnh
quyền uy
của Người, không thiếu sót bất cứ vật
ǵ.
+ Không ai giống như Người,hỡi Đấng Vĩnh Hằng! Ngài cao cả và Dang Ngài uy dũng… Chính Người đă dựng nên trái đất bằng quyền năng Người,đă thiết lập thế giới bằng sự khôn ngoan và bằng thượng trí, đă trải rộng bầu trời” (Gr 10,6 – 12)
PIERRE ODON.
|
CẢM THỨC
CÙNG GIÁO HỘI . SENTIRE CUM ECCLESIA
MỘT GIÁO HỘI CHO TRUNG-QUỐC
PHẦN
II
Trong những ngày nầy, các tín hữu Công giáo Trung
Quốc đang nóng ḷng chờ đợi lá thư mà
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đă hứa.
Chắc chắn đó sẽ là câu trả lời
đối với chính phủ Trung Quốc, song chủ
yếu là những hướng dẫn quan trọng sống
c̣n đối với cả Giáo Hội chính thức và Giáo
Hội thầm lặng ở lục địa. Đức
Cha Dân (Jin Luxian) của Giáo phận Thượng Hải –
nhân vật thường được nhắc đến
và đề cao trong bài viết nầy, cũng quan tâm
rất nhiều đền bức tư đó. Trong bầu
khí nầy,BTGH xin giới thiệu phần II của bài
viết.
H. Trong khi Đạo
Công-giáo – và những tôn giáo chủ chốt đă tăng
trưởng về sức mạnh, điều ǵ xảy
đến cho các triết thuyết Trung Hoa vốn giàu truyền
thống, như là Đạo Khổng và Đạo Lăo? Các
tôn giáo nầy có cảm thấy sự phục hồi
của riêng họ chăng?
Đ. Ở đây có năm
tôn giáo được nhà nước công nhận, và mỗi
một tôn giáo đều có bộ máy hánh chính riêng: Phật
- giáo,Công-giáo,Tin Lành (điều đáng lưu ư ở
đây là tất cả mọi phái Tin Lành đều
được đặt dưới cùng một cái dù -
một câu chuyện lư thú theo cách riêng của nó), Đạo
Lăo và Hồi giáo. Đạo
Lăo nhận được nhiều nâng đỡ từ
phía chinh quyền ngay lúc nầy. Cũng có một ít phục
hồi xảy đến với cáctác giả kinh
điển Đạo Khổng Nho. Tôi không cho rằng chính
quyền cố gắng che dấu hoặc loại bỏ
nó. Rốt cuộc, Đạo Lăo và Đạo Khổng Nho
là những truiết thuyết cà tôn giáo chính thức của
hoàng đế chính bởi v́ chúng ủng hộ một khaqi
niệm vũ trụ rất ngăn nắp trật tự,
do một quyền bính đầy sức mạnh ở trên
chót cùng cai trị. V́ thế mà với tôi chẳng ngạc
nhiên ǵ khi chính quyền ủng hộ hai triết thuyết
nầy rất nhiều. Dù vậy sự hồi sinh thật
sự lư thú, theo ư tôi, đó là sự phục hồi của
các tôn giáo thiều số truyền thống - những cái
như là tín ngưỡng thần linh và đủ loại
bạn khám phá thầy ở nông thôn. Những thứ
nầy quay lại trog một con đường sai
lạc. Tôi không biết ǵ nhiều về thứ đó –
đó là một thứ mà tôi mong sẽ có dịp khảo sát
tỉ mỉ. Nhưng trong tổng thế, tôi nghĩ
rằng hoàn toàn trung thực để nói rằng Trung
Quốc đang cảm nghiệm một sự thức
tỉnh tôn giáo khổng lồ.
H. Một sự thức tỉnh như
thé có gặp sức kháng cự nào chăng?
Đ. Kể từ khi ông lên
cầm quyền, Hồ Cẩm Đào đă nhấn
mạnh rằng Trung Quốc cần xây dựng cái mà ông
gọi là “một xă hội hài hoà”. Và không lâ trước khi
nhấn mạnh nguyên tắc nầy, chính phủ bắt
đầu làm sáng tỏ rằng tôn giáo có thể là thành
phần của một xă hội hoà hợp như thế.
Phó chủ tịch Hội Công-giáo yêu Nước đă nói
rằng tôn giáo nên đóng góp. Một số người
cảm nhận sự ủng hộ của Bắc Kinh
đối với tôn giáo trong bối cảnh nầy như
là một thủ đoạn thâm hiểm để củng
cố vị thế của nó với dân chúng. Tuy nhiên không
một ai t́m thấy một thứ nhân tố Mác-xít
chống tôn giáo không khoan nhượng nơi những
người chóp bu chính phủ. Những ǵ bạn có thể
t́m thấy, quả thật, là một số đảng
viên (con số khá đông, đủ để các
đảng viên cao cấp hơn cũng như các
phương tiện truyền thông ở Hồng Kông
để tâm) là những Kitô-hữu hoặc tín đồ
Phật-giáo hành đạo. Kết quả là họ bị
khai trừ. Song những chuyện như thế vẫn
đang xảy ra.
H. Ông c̣ nhắc đến rằng
thực tế của của sống thường nhật
trong Giáo Hội thầm kín cón phức tạp hơn là
những người ngoài ngoài cuộc tưởng. Ông
nghĩ ǵ những báo cáo về những nhận thức sai
lầm vẫn c̣n tồn tại nơi rất nhiều
người Phương Tây khi họ nh́n Trung Quốc?
Đ. Tiên vàn tôi không phải là
một chuyên gia về Giáo Hội thầm lặng và
hiện vẫn không có nguồn tài liệu nào nơi đó.
Tôi chưa hề đưa tin vế nó. Nhưng tôi cho
rằng những h́nh ảnh phổ biến về Giáo
Hội thầm lặng là kết quả của một
số yếu tố. Một trong số đó lui lại
ở những chuyện kể khác nhau mà chúng ta nghe
được về những ǵ xảy ra ở đây sau
năm 1949, nhất là trong thời kỳ Cách Mạng Văn
Hoá khởi đầu từ 1966. Tất cả moị tôn
giáo đều đi vào
hoạt động bí mật thời kỳ đó - chúng hoàn toàn bị cấm
đoán. Bởi vậy nếu cón một việc hành
đạo nào đó, th́ rơ ràng là nó diễn ra trog các hầm
mộ. Có những chuyện ngạc nhiên kỳ lạ
về việc các nhóm tôn giáo khác nhau duy tŕ việc hành
đạo và tín ngưỡng của họ ra sao cho
đến năm 1976, khi Cách Mạng Văn Hoá kết thúc
và Trung Quốc bắt đầu chính sách mở cửa.
Một số người nghe tôi nói về bài viết
nầy – Larry Murphy ở Seton Hall, Jeroom Heyndrickkx – nói về
những ǵ xảy ra khi họ lần đầu
đến Trung Quốc vào cuối những na9m thập niên
70s và 80s, họ cho rằng Đạo Công-giáo bị nghiền
nát ra sao, rằng chẳng có ǵ c̣n lại và rằng
những ǵ c̣n lại hẳn là đi vào thầm kín lén lút.
Khi họ đă trải qua lâu ngày ở Trung Quốc, họ
bá8t đầu thấy rằng t́nh h́nh khác biệt và
phức tạp hơn hẳn. Đạo Công giáo sống sót – nhưng
điều đó không hề bị cha dấu trên cac1
phương tiện truyền thông. Trong chừng mực nào
đó, h́nh ảnh phổ biến của Giáo Hội Công-giáo
Trung Quốc bị đóng băng vào năm 1976, mặc cho
sự kiện là t́nh h́nh thực tế đang cải
thiện rất mau lẹ. Chắc chắn là có những
nhận thức sai về Giáo Hội thấm lặng,
nhưng một cách sâu sắc hơn, theo tôi, cũng có
những nhận thức sai lạc về Giáo Hội công
khai. Đó là một t́nh h́nh phức tạp.
H. Tại sao ông cho rằng đă
mất quá niều thời gian đối với Vatican và
Giaó Hội công khai để hoà giải một cách chính
thức với nhau? Ông có nghĩ đă có những cơ
hội trôi qua - những dịp may lẽ ra đă diễn
ra sớm hơn?
Đ. Rơ ràng rồi. Tôi không tham
gia vào cuộc thảo luận liên quan,nhưng đúng là
người ta cho rằng đă có thể có nhiều cơ
hội để đạt được một sự
thoả thuận sớm hơn. Lùi tận về năm
1981, đă có nhiều tin đồn quanh một sự hoà
giải khà dĩ nào đó. Nhưng rồi nó vỡ tan tành
khi Roma nâng giám mục Giáo phận Quang-Du, Đức Cha
Dominicọ Tang, lên thành Tổng giám mục mà không hoỉ ư
kiến Bắc Kinh. Điều đó làm tăng lên một
phản ứng to lớn ở Bắc Kinh và làm cho các
sự việc đóng băng nhiều năm. Một cơ
hội khác nữa cũng bị bỏ qua xảy ra vào
năm 2000, sau khi đă có sự ấm lên kha khá giữa Roma
và Bắc Kinh. Đó là khi Đức Cha Dân và Đức Cha
Phan ngồi lại để cùng chỉ định
một người kế nhiệm. Nỗ lực năm
200 ấy tan tành vào than1g 10, sau khi Vatican quyết
định phong thánh cho nhiều Đấng tử v́
đạo người Trung Hoa – trong đó có nhiều tín
hữu Công-giáo bị giết vào thời Cuộc Nỗi
Loạn Nghĩa Hoà Đoàn vào cuối thế kỷ XIX và
đầu thế kỷ XX, tự nó là một câu trả
lời cho chủ nghĩa đế quốc phương
Tây. Chính phủ Trung Quốc công kahi tuyên bố rằng
một số người mà Vatican dự kiến tôn phong
hiển thánh,là những người phạm tội
chống lại Trung Quốc. Nhưng Vatican vẫn cứ
thẳng tiến. Điều đó lẽ ra đă ổn,
nhưng rồi Rôma lại chọn ngày 1 tháng 10 – Ngày
Quốc Khánh nước Trung Quốc – như là ngày cho
sự kiện nầy.
Mọi sự đổ
vỡ hết.
H. Ông có cho rằng lúc nầy hẳn
Roma và Bắc kinh đă học được cách ngồi
lại với nhau chưa?
Đ. Bạn cứ tin
đi Một người bạn của tôi, một tu
sĩ Ḍng Tên, thích nói rằng Bắc Kinh và Rôma là hai tập
đoàn xưa nhất trên trái đất. Và nay vẫn
vậy! Nhưng họ vẫn chưa h́nh dung làm thế nào
để nói chuyện với nhau. Một số
người gợi ư rằng cả hai phía được
lợi nhiều về mặt chính trị bằng cách nói
chuyện chính trị và làm bộ làm điệu - giả
vờ như họ muốn có hoà giải, nhưng cuối
cùng lại khôg thật sự muốn có hoà giải.
Thật là khó khăn để nói các ư định có
tốt lành, các nỗ lực
có chân thành hay không.
H. Tôi đặc biệt bị lôi
cuốn với câu mà ông trich dẫn từ diễn văn của
Đức Cha Dân nói với các tín hữu Công giáo Đức
va năm 1987 về khủng hoảng nhận diện mà
rất nhiều người Công-giáo Trung-Hoa phải
đối diện năm 1949, sau khi nước Công Ḥa Nhân
Dân TQ tiuyên bố độc lập:” Để vẫn là
người Công-giáo,họ không thể vẫn là
người Trung Quốc”.
Đ. Vối tôi, câu trích dẫn
nầy đạt đến tâm cái mà Giaó Hội Công-giáo
ở Trung Quốc đă đấu tranh vật lộn
suốt thời kỳ nầy. Phóng đại sự oán
giận bên trong Giáo Hội về những ǵ xảy ra
đă từ lâu rồi, là điều không thể. Và nó
sẽ chẳng rời đi nếu như Rôma và Bắc
Kinh lúc nầy chọn việc lập lại quan hệ
ngoại giao. Không phải là những người thuộc
thế hệ Đức Cha Dân
- có rất nhiều oán giận có tính chất văn
hoá về việc Giáo Hội bị đối xử
thế nào trải qua thập niên 1950, cho tới khi các
thừa sai bị đuổi đi hết. Nó bắt
trở lại câu hỏi: Trung Quốc được
giải phóng hoặc đă có một cuộc Cách Mạng?
Tôi nghĩ rằng bạn sẽ gặp khó khăn để
t́m ra được bất cứ một người
Công-giáo nào trên thế giới
nói rằng họ nghĩ Mao là tốt cho Đạo Công-giáo Trung Quốc.
Nhưng mặt khác, sự kiện là Trung Quốc
đuổi hết các thừa sai và cho phép các tín hữu Công
Giáo người Hoa thực thi thẩm quyền trên các giáo
phận Trung Quốc là
rất quan trọng và cho đến ngày nay vẫn là một vấn đề hănh diện cho nhiều
người dân Trung Quốc. V́ thế khi Đức Cha Dân
nói về khủng hoảng nhận diện Ngài cảm
thấy vào năm 1949 và trong các thập niên tiếp theo, th́
Ngài cũng nói về sự căng thẳng mà Ngài và các
đồng sự của Ngài cảm nhận dưới
sự kiểm soát của Châu Âu – ư nghĩ rằng nếu
bạn là một người Công-giáo, th́ y như rằng
bạn phải tham gia công tŕnh thực dân của Châu Âu
vậy! Năm 1949 đến, tôi cho rằng rár nhiều
người Công-giáo Trung Quốc - nhất là những
người thuộc thế hệ Đức Cha Dân -
liều lĩnh muốn có một cách đ̣i quyền
lợi cho ḿnh .
H. Ông có thể nói thêm về vai tṛ
của Joseph Zen,Tổng giám mục Hồng Kông chăng? Ông
có nhắc tới trong bài viết rằng Ngài rất
trực tính . Đó là ǵ vậy?
Đ. Đức hồng y Zen là
một nhân vật lư thú. Gia đ́nh Ngài vốn thành linh
mục và trở về Trung Quốc vào cuối thập niên
1980s để dạy tại chủng viện
Thượng Hải. Khi Đức Cha Dân trông coi
Thượng Hải, Ngài dạy học nhiều năm
trước khi trở về lại Hồng Kông, nơi
Ngài được Rôma bổ nhiệm làm Tổng giám
mục av2 hồng y năm vừa qua. Tôi nghĩ niềm hy
vọng là ở chỗ Đức hồng y Zen có thể
làm chiếc cầu nối giữa Giáo Hội Trung Quốc
Lục đaị và Rôma. Kể từ khi về lại
Hồng Kông,Ngài luôn thẳng tính và chỉ trích Lục
điạa về vụ Thiên An Môn và những lạm
dụng khác do đảng cộng sản. Nhưng tôi cho
rằng điều gây ngạc nhiên là từ khi Ngài lên
giữ chức hồng y như hiện nay, Ngài cũng
chỉ trích cả Giáo Hội Mở. Đối với
nhiều người Công-giáo Trung-Hoa, những lời phê
b́nh chỉ trích như vậy đến hầu như v́
đă bỏ cuộc và không người nào thật sự
biết nghĩ về những điều đó ra sao.
Điều đó cũng không chứng minh là có ích trong các
nỗ lực của Ngài để phục vụ như
một chiếc cầu không chính thức. Bắc Kinh nói rơ
là Ngài không được hoan nghênh ở đó và mối
quan hệ của Ngài với các nhà lănh đạo của
Hội Công giáo Yêu Nước bị suy thoái tận cùng. Tôi
không cho rằng đó là một lời tuyên bố có tính
chất gây tranh cải khi nói rằng Ngài đă thay
đổi từ khi trở thành hồng y. Và điều
đó đă gây ngạc nhiên cũng như làm tổn
thương nhiều người mà Ngài quen biết đă
nhiều thập niên. Dường như họ cảm
thấy Ngài phải biết nhiều hơn.
H. Bài viết nầy đan
xen những mô tả và cảm tưởng của quá
nhiều người trong nhiều thập niên với nhau.
Có chăng một bài viết nào đó về vấn
đề nan giải - hoặc khía cạnh của câu
chuyện – mà ông những ưốc ao bỏ nhiều
thời giờ hơn để đưa ra ánh sáng?
Đ. Điều nực
cười nầy là trong một số cách thế nào
đó, câu chuyện nầy được kể lại quá
trễ mấy năm. Qua đó tôi muốn nói là rất
nhiều trong số những người làm cầu nối
giữa Đức Cha Dân và Rôma từ lâu đă không c̣n
sống nữa. Rất nhiều người trong họ
đă qua đời trong ít năm vừa qua. Người
quan trịng nhất trong số đó là Đức hồng
y Tổng giám mục Albert de Courtray, từ Lyon,Pháp, qua
đời năm 1994. Đức Cha Dân và Hồng y de
Courtray là những bạn tốt của nhau suốt
thời kỳ cùng theo học tại Roma vào thập niên
1940. Khi Đức Cha Dân cuối cùng được ra tù vào
thập niên 1980s, th́ Đức Cha nối lại tiếp
xúc với Đức hồng y De Courtray và vị hồng y
mời Ngài sang Bỉ - một cuộc di chuyển mà v́ nó
Ngài đă bị phê b́nh nặng nề vào thời đó.
Nhiều người nói cho tôi biết rằng ĐHY De
Courtray là ch́a khoá trong việc giúp ĐC Dân dàn xếp các
sự việc với Roma và trong việc chứng thực
tính cách của Ngài. Nhiều người ab5n khác của
ĐC Dân trong thời gian Ngài học tập ở Châu Âu nay
cũng đă ra đi - lẽ ra họ cũng rất quan
trịng cho bài viết nầy. Trong những người
đă qua đời trước kia không phải là bạn
học, không có ai quan trọng hơn là Edward Malatesta, một
tu sĩ Ḍng tên ở San Francisco chết bất th́nh ĺnh vào
năm 1998. Đó là một tổn thất to lớn.
Malatesta là người trong Giaó Hội Mỹ khởi
đầu bắc các nhịp cầu nầy kể từ
năm 1984. Và Ngài giữ một vai tṛ đặc biệt
quan trọng trong việc ĐC Dân xích lại gần
với các tu sĩ Ḍng Tên. Đây là những điều làm
tôi hết sức thất vọng, song bạn phải làm
việc với những ǵ bạn đă có được.
Điều buồn cười. và những ǵ là khó
khăn nhất. đó là các chức sắc cao cấp
của Giaó Hội Công giáo không thật sự quan tâm
đến việc nói chuyện với những ǵ thông
tục. Đa số các Vị ấy - Tổng
trưởng Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin vào
thập niên 1990s hoặc Vị tổng giám mục chuyên viên
của Đức Giáo Hoàng về Trung Quốc đă không
muốn nói chuyện với tôi. Lẽ ra các Ngài đă có
thể đóng góp rất nhiều,thật là như thế.
May mắn là có người như Larry Murphy đồng ư
tham gia câu chuyện với tôi.
Nghe Larry Murphy
giải thích cho Adam Minter Ngài đă gặp Cha
Đỗng-Quang-Kính như thế nào và nhiều lần
chuyển thông điệp hoà giải của Cha Đỗng
đến Đức giáo hoàng ra sao.
C̣n về
những việc tôi những muốn bao gồm luôn trong bái
viết nầy nhưng đă không thể - có một câu
chuyện ngạc nhiên lư thú mà Larry Murphy kể với tôi
về Cha Đỗng-Quang-Kính ở tỉnh Hoa
Bắc,gần Vũ Hán. Vào năm 1958, Ngài là một trong hai
giám mục đầu tiên do chính quyền chỉ
định,tự chọn,tự phong trong Giaó Hội
mở. Nay th́ Ngài đă qua đời. Cha Đỗng
được chọn bời Giáo hội đă đăng
kư để trở thành một giám mục, nhưng v́
muốn hành động phù hợp với luật Giáo
Hội, cho nên Ngài đă gửi một bức điện
tín cho Vatican, giải thích t́nh h́nh nầy và cầu xin
Đức giáo hoàng phê chuẩn cho việc tấn phong. Ngài
đă nhận được một bức điện
trả lời, trong đó bày tỏ việc Roma từ
chối chấp nhận các kết quả của cuộc
bầu chọn và lập lại rằng chỉ có
Đức giáo hoàng mới là người chọn các giám
mục. Murphy nói với tôi – và tôi chẳng có lư do ǵ
đề nghi ngờ lời của Ngài - rằng sau đó
Ngài đă cgạy chọt ra sao để hoà giải ĐC
Đỗng với Đức Giaó Hoàng Gioan-Phaolô II, ngay
cả giữa những nỗi lo sợ rằng chính
phủ Trung Quốc sẽ khám phá ra việc nầy. Ngài
đă sang trung Quốc và t́m thấy ĐC Đỗng
đang sống với những nhà hcính trị không có
lập trường bền vững. Ngài cho tôi một
bản phân tích tỉ mỉ đă được ghi. Trong
mức độ tôi biết được, đó là
lần đầu tiên có một người ghi lại công
khai để giải thích v́
sao những điều như thế đă xảy ra – quá
tŕnh hoà giải một giám mục của Giáo Hội
mở,thuộc Hội Công giáo yêu Nước có đăng
kư, với Đức Giáo Hoàng. Bất hạnh thay, kh6ong có
không gian trong bài viết cho câu chuyện nầy. Nếu tôi
có thể thêm chừng 3.000 từ nữa, tôi hẳn đă
có thể h́nh dung cách làm cho nó khớp vào.
H. Bức thư sắp tới từ Vatican
được mong đợi là sẽ mở ra lại
khả năng cho sự hoà giải chính thức.hưng ông
nêu lên rằng một cuộc tái hợp như thế
cũng có thể sẽ khơi lại những vết
thương cũ. Ông có thể cho biết thêm chi tiết
về điều ấy không?
Đ. Tôi cho rằng vấn đề lớn nhất, nh́n từ viễn cảnh Giáo Hội thầm lặng, là ư nghĩa của: Nều Bắc Kinh và Roma hoà giải, chúng ta đă thực hiện tất cả những điều nầy v́ cái ǵ? Tái lập một quan hệ chính thức sẽ đè nặng trên vết thương sâu đậm ấy. Một vấn đề liên quan lớn khác nữa, mà tôi không thật sự đề cập đến trong bài viết nầy, bao quanh vần đề kiểm soát giáo phận. Năm 1946, Vatican thiết lập các ranh giới giáo phận khi thông báo thành lập hàng giáo phẩm Trung Hoa. Nhưng khi Hội Công-giáo Yêu Nước cầm cương, th́ các đường biên mới được vạch ra. Do vậy mà ta có hai bộ về ranh giới giáo phận, nhiều cái trong số đó chồng chéo nhau – d6ăn đến việc có hai giám mục trên cùng một “lănh địa”. Khi đến thời điểm hiệp nhất, ai trong các giám mục là người có quyền bính? Đó là một vấn đề thật sự nhạy cảm trong Giaó Hội, nhất là trong những người Công giáo cao niên nay nhớ lại cuộc sống trước năm 1949. Bạn phải nhớ rằng rá6t nhiều người trong bọn họ - nay ở những phía cánh khác nhau, phải nói như thế - quen biết nhau từ lâu. Ví dụ ở Thương Hải, ĐC Dân và ĐC Dương thường làm việc với nhau. Tất cả những người nầy quen biết Kung từ những năm thập niên 1940s. Và ĐC Phan, một giám mục thuộc Giáo Hội tầm lặng ở Thượng Hải – là một người bạn thâm giao của ĐC Dân từ những ngày ở Ḍng Tên, khi ĐC Dân làm bề trên đại chủng viện; c̣n ĐC Phan làm bề trên tiểu chủng viện. Quả thật, họ gia nhập Ḍng Tên cùng một ngày! Hoà giải có thể khơi ra những vết thương cá nhân cho rất nhiều người.
T̀M HIỂU KINH THÁNH
ĐỀ TÀI 17.
VIỆC THU GÓP CÁC
THƯ CỦA THÁNH PHAOLÔ
------------------------
Cho tới nay
chúng ta đă t́m hiểu một số đặc thái trong
các thư của thánh Phaolô, các kiểu cách hành văn
cũng như việc biên soạn chúng. Nhưng lịch
sử h́nh thành của chúng không kết thúc với việc
biên soạn và gửi tới các giáo đoàn liên hệ. Sau
khi Phaolô qua đời, các cộng đoàn đă cẩn
trọng giữ ǵn các bức thư ấy như một
kỷ niệm và như là một kho tàng tinh thần qúy gía.
Một số thư bị mất đi, nhưng chúng ta
không biết trong các hoàn cảnh nào và tại sao. Các thư
khác được thu thập lại, và trong thời gian
thu thập này xảy ra sự kiện các thư xác thực
được sắp xếp chung với các thư không do
thánh nhân viết ra. Tập thu tích thư của thánh Phaolô
phát sinh từng bước từ đó. Nó có uy tín mau chóng
đến độ được tín hữu coi như là
các tác phẩm của Kinh Thánh. Thật thế, ngay trong thời
gian thư thứ hai thánh Phêrô được phổ
biến - đây lại là một trường hợp
gỉa tên khác - các thư của thánh Phaolo đă
được nhắc tới như là một tài liệu
mà mọi kitô hữu thuộc Giáo Hội tiên khởi
đều hay biết: ”Anh chị em hăy coi ḷng khoan dung
(sự kiên nhẫn lâu dài) của Thiên Chúa chúng ta như là
ơn cứu độ, cũng như người anh em
thương mến của tôi là Phaolô đă viết cho anh
chị em theo sự khôn ngoan được ban cho ông. Ông
cũng đă làm như vậy trong mọi thư đề
cập tới vấn đề này. Trong các thư đó có
vài điều khó hiểu và những kẻ dốt nát
cũng như những người hay thay đổi
thường xuyên tạc các điều này cũng như
họ xuyên tạc các tác phẩm khác trong Kinh Thánh, làm nguy
hại cho phần rỗi của chính họ (2 Pr 3,15-16).
Chắc hẳn là vào cuối thế kỷ thứ I hay
đầu thế kỷ thứ II tại Hy Lạp, Italia
và Tiểu Á các cộng đoàn Kitô đă có được
tập thu góp 13 thư của thánh Phaolô, trừ thư
gửi tín hữu Do thái (A. Wickenhauser, Introduzione al Nuovo
Testamento, Brescia 1963,34).
Chúng ta có
được văn bản tiếng hy lạp các thư
là nhờ nhiều thủ bản rất cổ xưa và uy
tín. Chẳng hạn như thủ bản viết trên
giấy làm bằng sậy papyrus số 46 thuộc
khoảng thời gian năm 200, các văn bản viết
chữ hoa như văn bản Sinaitico thuộc thế
kỷ thứ IV (văn bản này thuộc thư viện
của tu viện thánh nữ Catarina trong bán đảo Sinai,
do đó gọi là văn bản Sinaitico, viết tắt là
Aleph, theo mẫu tự Do thái. Hiện nó được
lưu giữ trong viện bảo tàng Luân Đôn), văn
bản Vaticăng cũng thuộc thế kỷ thứ IV
(văn bản này được lưu giữ trong thư
viện thuộc bảo tàng viện Vaticăng, viết
tắt là chữ B hoa theo mẫu tự latinh), văn
bản Claromontano thuộc thế kỷ thứ VI (văn
bản này thuộc quyền sở hữu của ông
Claromontano, viết tắt là chữ D hoa theo mẫu tự
latinh. Hiện nó được lưu giữ tại Paris).
Trên đây chỉ là một vài thủ bản cổ xưa,
quan trọng và đầy đủ đáng tin cậy
nhất. Thực ra, khi dùng các tiêu chuẩn khoa học
thuộc nhiều ngành khác nhau như ngữ học,
khảo cổ, thuật đọc và phân tích các văn
bản cổ vv... để biên soạn ra văn bản
Tân Ước hy lạp như chúng ta hiện có, các học
giả Tân Ước và giới chuyên viên Tân Ước
đă nghiên cứu, so sánh và dùng hàng ngàn tài liệu và thủ
bản khác nhau. Các tài liệu và thủ bản này hiện
được lưu giữ trong các bảo tàng viện
đó đây tại các nước châu Âu như Italia, Pháp,
Anh Ai len, Đức, Áo, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, hay bên Hoa
Kỳ, hoặc bên Nga và Ai Cập.
Trừ các
thủ bản viết trên da thuộc, hay các chất
liệu bền, đa số được viết trên các
chất liệu rất ḍn mỏng như giấy làm
bằng sậy papyrus, do đó rất dễ hư hại.
V́ sợ chúng hư hại hay bị đánh cắp nên các thủ
bản chính thường được chụp lại
rồi được cất giữ rất kỹ. Các
thủ bản trưng bày cho công chúng trong các viện
bảo tàng thường là bản chụp facsimile, chứ
không phải là thủ bản chính.
Văn bản
Tân Ước hy lạp thường được dùng
hiện nay để dịch ra các thứ tiếng khác nhau
trên thế giới là The Greek New Testament, do các học
giả Kurt Aland, Matthew Black, Carlo Maria Martini, Bruce M. Metzger và
Allen Wikgren xuất bản với sự cộng tác của
Học viện nghiên cứu văn bản Kinh Thánh Tân
Ước Muenster bên Đức.
Tưởng
cũng nên biết để dựng lại văn bản
các sách hay các thư của toàn Tân Ước tiếng hy
lạp, các học giả đă phải nghiên cứu và
đối chiếu hàng ngàn tài liệu và thủ bản
lớn nhỏ khác nhau. Các tài liệu và thủ bản
đó là các bản sao chép được lưu giữ
lại đó đây trên thế giới. Dựa vào các
thủ bản này và các bản dịch cổ, giới
học giả có thể dựng lại văn bản chính
một cách chắc chắn đối với các yếu
tố ṇng cốt, nghĩa là các yếu tố đảm
bảo cho sự xác thực của nội dung, và gần
chắc chắn đối với các yếu tố riêng
tư nhỏ nhặt khác của văn bản.
Có thể chia
các tài liệu và thủ bản này thành hai loại chính:
loại trực tiếp và loại gián tiếp. Loại
trực tiếp bao gồm bốn thứ thủ bản.
Thứ thủ bản thứ nhất gọi là ”Codici”,
tức các thủ bản được viết trên các
mảnh da thuộc. Thứ thủ bản thứ hai
gọi là ”Papiri”, tức các văn bản được
viết trên giấy làm bằng loại sậy papyrus, là
chất liệu thông thường, rẻ dễ mua và
dễ t́m, v́ được Ai Cập xuất khẩu trong
toàn vùng Trung Đông Cổ ngày xưa. Thứ thủ bản
thứ ba gọi là ”Lezionari”, tức các thủ bản
được biên chép và sắp xếp thứ tự
để dùng như bài đọc trong các lễ nghi
phụng vụ. Thứ thủ bản thứ tư gọi
là ”Ostraca”, tức các câu Kinh Thánh Tân Ước
được viết trên các mảnh vại hay mảnh
sành bằng đất sét nung. Loại tài liệu và thủ
bản gián tiếp là các câu trích nguyên văn, mà các soạn
giả đem vào trong các tác phẩm của ḿnh, hay các
bản dịch.
Các thủ
bản ”Codici” c̣n được chia thành hai loại.
Một loại gọi là ”Codici unciali”, tức các thủ
bản viết bằng chữ hoa lớn đều như
nhau từ đầu tới cuối. Loại thứ hai goi
là ”Codici minuscoli” hay “corsivi”, viết theo kiểu chữ
thảo thông thường, liền nhau và lớn nhỏ khác
nhau. Cho tới thế kỷ thứ VII-VIII các thủ
bản Codici thường là các thủ bản unciali,
tức viết chữ hoa lớn đều nhau từ
đầu tới cuối. Sau thế kỷ thứ X th́ kiểu
viết chữ thảo thông dụng hơn. Có tất
cả là 266 thủ bản ”Codici unciali”, hơn 2.750 thủ
bản ”Codici corsivi” hay ”minuscoli”, 81 thủ bản Papiri,
2.100 thủ bản Lezionari. Thủ bản Ostraca rất ít.
Tổng cộng như thế chúng ta có tất cả
khoảng 5.000 tài liệu và thủ bản liên quan tới
Kinh Thánh Tân Ước. Trong số đó chỉ có 53 Codici,
tức các thủ bản viết trên da thuộc là có
đầy đủ mọi tác phẩm Tân Ước. Các
thủ bản Codici khác chỉ chứa đựng một
phần các tác phẩm Tân Ước, như bốn Phúc Âm,
sách Khải Huyền vv... Các thủ bản Papiri hầu
hết đều ngắn. Các thủ bản Lezionari
chứa đựng các văn bản Kinh Thánh Tân Ước
khác nhau. C̣n các câu viết trên Ostraca tức các mảnh
đất sét nung th́ rất ngắn.
Để có
thể nhận diện các tài liệu và các thủ bản
kể trên giới học gỉa và chuyên viên phê b́nh văn
bản đă đặt ra các hệ thống viết
tắt và ghi số thứ tự. 51 thủ bản ”Codici
unciali” đầu tiên được gọi thứ tự
theo một mẫu tự hy lạp hay latinh viết hoa.
Nhưng cũng xảy ra là thường khi một mẫu
tự cũng ám chỉ ba thủ bản khác nhau. Chẳng
hạn chữ ”F” ám chỉ nhiều thủ bản chữ
hoa khác nhau: một thủ bản lưu giữ trong bảo
tàng viện Utrecht bên Ḥa Lan chỉ gồm 4 Phúc Âm, một
thủ bản lưu giữ trong bảo tàng viện
Cambridge bên Anh quốc chỉ gồm các thư của thánh
Phaolô, và một thủ bản thứ ba lưu giữ trong
tu viện của các thầy ḍng chính thống trên núi Athos
bên Hy Lạp, chỉ gồm sách Khải Huyền. Tất
cả các thủ bản ”Codici unciali” khác th́ được
ghi số thứ tự bắt đầu với số 0
đứng trước. Các thủ bản ”Codici minuscoli”,
tức loại thủ bản viết chữ nhỏ
thường không phải là chữ hoa, th́ được
ghi thứ tự theo số A rập. Các Papiri th́
được đánh dấu bằng chữ ”P” hoa, và
tiếp theo ở trên cao là số thứ tự của
thủ bản. Các ”Lezionari” th́ được ghi dấu
bằng chữ ”l” thường và theo sau là số thứ
tự.
Linh mục LINH-TIÊN-KHẢI
TẾ BÀO GỐC MÁU CUỐNG RỐN *
- TRIỂN VỌNG TRONG CHỮA TRỊ NHIỀU
LOẠI BỆNH NAN Y
- ĐẠO ĐỨC SINH HỌC
Thời gian qua,
mặc cho các Giáo Hội Kitô-giáo, nhất là Giáo Hội
Công-giáo, phản đối quyết liệt về việc
sử dụng tế bào gốc phôi thai nghiên cứu và nhân
bản để chữa trị, bởi v́ những
việc ầy buộc phải xâm phạm đến
sự sống của phôi thai, cũng chẳng khác nào hành vi
nạo phá thai, nhiều quốc gia đă thông qua luật cho
phép sử dụng tế bào gốc phôi để nghiên
cứu,nhân bản vô tính với mục đích điều
trị (hầu như cũng chính là những nước
hợp pháp hoá nạo phá thai). Xin giới thiệu một
bài viết ngắn gọn đăng trong báo Thanh Niên
số ra ngày 18.06 về Tế Bào Gốc MÁU CUỐNG
RỐN, là cái được Giáo Hội Công – Giáo hoan nghênh
v́ hiệu quả cao của nó,trong khi vẫn tôn trọng và
bảo vự sự sống.
Tế bào gốc (TBG) là tế bào của chính
con người, có khả năng phát triển thành nhiều
loại tế bào khác trong cơ thể. Có nhiều loại
TBG hiện đă được áp dụng cũng như
đang trong quá tŕnh nghiên cứu để chữa trị
bệnh cho con người. Các nhà chuyên môn trên thế
giới đang kỳ vọng vào khả năng trị
bệnh của TBG.
TBG và TBG máu cuống rốn
Vừa qua, bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc
Phượng (nguyên Giám đốc BV Từ Dũ, TP.HCM,
hiện là Tổng giám đốc BV Ngọc Tâm, TP.HCM) đă
kư kết với một đơn vị chuyên về
lưu trữ, nghiên cứu TBG của Malaysia về việc
hợp tác xây dựng Ngân hàng tế bào gốc tại BV
Ngọc Tâm, và dự kiến đến cuối năm nay,
ngân hàng này sẽ được đưa vào hoạt
động. Theo BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng:
"Bên cạnh việc lưu trữ TBG từ máu cuống
rốn và từ các nguồn khác, chúng tôi sẽ có một
đội ngũ nghiên cứu để sử dụng TBG
vào việc điều trị các loại bệnh tật,
mà thế giới đă sử dụng, cũng như
đang nghiên cứu".
Có nhiều loại TBG hiện đang
được nghiên cứu, áp dụng trong chữa trị
bệnh, trong đó TBG từ máu cuống rốn là
loại tế bào được xem có nhiều tiềm
năng nhất trong điều trị. TBG máu cuống
rốn là ǵ? Theo các bác sĩ, khi phụ nữ có thai, bánh
nhau và máu trong bánh nhau đi qua cuống rốn, đóng vai
tṛ nuôi dưỡng bào thai.
Lâu nay, sau khi sanh, bánh nhau, cuống rốn và
máu trong bánh nhau thường bị bỏ đi, trong khi máu
trong cuống rốn có chứa rất nhiều TBG - là các
tế bào dùng điều trị được nhiều
loại bệnh khác nhau. TBG máu cuống rốn có những
đặc tính sinh học khá đặc biệt, đó là
khả năng phát triển cao gấp từ 8 - 10 lần so
với TBG tủy xương; TBG máu cuống rốn là
loại tế bào chưa biệt hóa nhiều về
miễn dịch, nên có thể sử dụng để
điều trị cho các thành viên khác trong cùng gia đ́nh, mà
không bị đào thải; TBG máu cuống rốn vẫn
giữ nguyên các đặc tính sinh học đặc
biệt của nó từ khi mới đưa vào lưu
trữ cho đến lúc sử dụng.
TBG được sử dụng trong
chữa trị những bệnh ǵ?
Theo BS Hồ Mạnh Tường - nguyên
Trưởng khoa Hiếm muộn (BV Từ Dũ, TP.HCM):
"Tiềm năng chữa bệnh của TBG là rất
lớn, nhất là từ máu cuống rốn. Em bé sinh ra
sẽ được lấy ngay máu cuống rốn
để lưu trữ, sau này trong gia đ́nh có ai mắc
bệnh, th́ có thể dùng nó để chữa bệnh. Ngoài
ra, cũng có thể dùng TBG đó chữa trị cho
những người khác, nếu phù hợp. TBG
được các nước trên thế giới ứng
dụng trong điều trị nhiều bệnh lư như:
các bệnh lư lành tính và ác tính về máu (như ung thư
máu); bệnh tai biến mạch máu năo; chấn thương
cột sống; chấn thương sọ năo; bệnh lư
tim mạch (nhồi máu cơ tim, thiếu máu cơ tim...),
bệnh tiểu đường; bệnh gan...
Cho đến nay, các nhà khoa học trên
thế giới đă ghi nhận có cả thảy 69
loại bệnh lư khác nhau đă và đang được
nghiên cứu để điều trị bằng TBG máu
cuống rốn. Cách thức điều trị đơn
giản, các bác sĩ sẽ lấy TBG lưu trữ ra làm
thành dung dịch rồi tiêm truyền cho bệnh nhân. TBG
sẽ t́m đến các cơ quan bị tổn
thương để hồi phục nó. Hiện nay, Trung
Quốc đă sử dụng TBG để điều
trị bệnh về thần kinh; Thái Lan th́ mạnh về
sử dụng TBG trong điều trị bệnh tim
mạch. Châu Á là nơi phát triển mạnh về lĩnh
vực này".
BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng cho
biết thêm: "Hiện Trung Quốc có hơn 10 ngân hàng máu
cuống rốn; Đài Loan cũng đă có 3 ngân hàng này;
Malaysia 3; Hồng Kông 2; Singapore 2; Thái Lan 1... Riêng tại
Mỹ, măi đến năm 2005, chính phủ mới kư thông
qua luật về TBG. C̣n tại Việt Nam, Bệnh
viện Truyền máu - Huyết học (TP.HCM) đă lưu
trữ được 1.800 mẫu máu cuống rốn. Và
gần đây, trong nước cũng đă có một
số buổi hội thảo khoa học nói về sử
dụng TBG trong điều trị bệnh".
TBG có thể lưu trữ được
trong bao lâu?
TBG gốc được lưu trữ
bằng Ni-tơ lỏng ở nhiệt độ âm 196
độ C (cũng giống với nhiệt độ
lưu trữ tinh trùng trong điều trị vô sinh). Cho
đến nay, thế giới vẫn chưa đưa ra
giới hạn về thời gian lưu trữ TBG ở
nhiệt độ như trên, nhưng về lư thuyết
th́ TBG vẫn sống vĩnh viễn, nếu được
lưu trữ, bảo quản lạnh tốt. Và, trên
thực tế đă có trường hợp TBG gốc
lưu trữ hơn 10 năm đă được sử
dụng điều trị thành công
(hiện trên thế giới chỉ có khoảng 330.000 mẫu cuống rố, quá ít so với nhu cầu nghiên cứu và chữa trị. Tựa đề và chú thích do BTGH)
◙ PHỤ LỤC :
GỢI Ư SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA
NHẬT XII TN.C
Lc
1.57 – 66.80
ĐỐI VỚI BẠN VÀ TÔI, ĐỨC
GIÊSU LÀ AI?
Ngay từ chương đầu Phúc Âm Thánh
Luca (1,66), tất cả mọi người tự hỏi
về Gioan Tẩy Giả:” Đứa
trẻ nầy rồi sẽ ra sao?”. Và về sau :”Tất
cả tự hỏi trong ḷng phải chăng Gioan là
Đấng Messia” (3,15). Theo ḍng các sự kiện, bầu
khí Thiên Sai lớn nhanh đến mức có thể sờ
thấy được.
Các thiên thần đă nói với các mục đồng:”Hôm nay một Đấng Cứu Thế đă sinh ra cho các người”(2,11). Nhưng những người dân Nazaret th́ lại tự nhủ:” Đó chẳng phải là con của Ông Giuse sao?” . Nếu Người tha cho tội nhân, người ta lại tự hỏi:”Người nầy là ai,mà nói những lời phạm thượng?” (2,21). Ngay cả Gioan cũng sai người đến hỏi Chúa Giêsu:” Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi c̣n phải đợi một người khác?” (7,18). Trước cơn giông băo được dẹp yên, các tông đồ vẫn c̣n ngạc nhiên:” Người là ai vậy nhỉ?” (8,25)
Người ta
cảm thấy rằng căn cước của Chúa Giêsu
là câu hỏi-ch́a khóa cho thông điệp Phúc Âm. Trong tám
chương đầu tiên theo Thánh Luca, chỉ có ma qủy
mới chọc thủng mầu nhiệm:” Tôi biết Ngài là
ai rồi!”, lời của tên qủy ở trong nhà hội.
Ngay các môn đệ của Chúa Giêsu cũng thường coi
Người như một nhà
giải phóng chính trị.
Sau một
thời gian cầu nguyện thân mật với Cha
Người, Đấng Messia đặt câu hỏi
tương tự cho nhóm các môn đệ đến xin theo
Người. Người hỏi họ trong một
thời gian đầu: “Đám đông bảo Thầy là
ai?”. Ở đây người ta cảm thấy cái chết
của Gioan Tẩy Giả đă gây nhiều ấn
tượng với đám đông: đó là tên đầu
tiên hiện ra trong tâm trí họ. Elia, về phía ḿnh,
tượng trưng cho truyền thống ngôn sứ trong
Kinh Thánh, với những phép lạ của Êlisê vào thế
kỷ thứ IX trước Công-nguyên, trong sách các Vua
quyển thứ hai.
Chúa Giêsu nh́n sâu
vào mắt các môn đệ và mời gọi họ nhận
rơ đức tin của ḿnh. Thánh Phêrô trả lời thay
cho cả nhóm:” Đấng
Messia của Thiên Chúa”.
Sự trao
đổi nầy đánh đấu một khúc quanh trong
tŕnh thuật, dù cho các hoạt động của Thầy
vẫn không thay đổi. Từ nay, một nhóm nhỏ các
môn đệ nhận ra rằng Ngài là Đấng
được Thiên Chúa sai, Đấng Messia của Thiên
Chúa được hứa ban và được chờ
đợi từ bao thế hệ. Với tŕnh thuật
Hiển Dung (tiếp sau bài đọc hôm nay), các môn
đệ lớn lên trong đức tin: Chúa Giêsu quả
thật là Đấng Messia. Nhưng câu hỏi nầy
vẫn chưa trọn vẹn. Hai sứ giả sẽ
phải giải thích cho họ lần nữa ở ngày
lễ Vượt Qua:”Con Người phải bị
nộp vào tay những người tội lỗi, phải
chịu đóng đinh và ngày thứ ba sẽ sồng
lại” (24,7)
Bernard Lafrenière, C.S.C
◙ PHỤ TRANG:
VIỆT-NAM 7 NGÀY QUA
+ (Tuoitre 16.05) Doanh nhân
'nướng' hàng triệu USD vào chiếu bạc
Ban chuyên án xác định, hơn 20 con bạc
hằng đêm đă "quăng" vài chục ngh́n USD vào
5 casino tại TP HCM và Vũng Tàu. Trong đó các
"đại gia", nữ giám đốc, phó giám
đốc... từng thua vài triệu USD
+ (VnExpress 15.06) Ngày 14.6
tại Hà Nội, Đại sứ Hoa Kỳ tại VN
Michael Marine và Thứ trưởng Bộ Y tế Trịnh
Quân Huấn đă công bố thỏa thuận hợp tác
thực hiện dự án "Tăng cường giám sát và
pḥng chống đại dịch cúm người
2007-2012" do Mỹ tài trợ, triển khai tại 9
tỉnh của VN. Trong năm đầu tiên (2007-2008), kinh
phí cho dự án là 1,15 triệu USD. Dự án nhằm tăng
cường năng lực cho hệ thống giám sát và pḥng
chống đại dịch cúm người, sẵn sàng
ứng phó và hạn chế thấp nhất tỷ lệ
mắc, tử vong khi có đại dịch cúm; nâng cao
năng lực chẩn đoán, xét nghiệm và năng
lực dịch tễ học...
+ ( Thanhnien 15.06) Hôm qua
(14.6), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đă
công bố kế hoạch lấy ư kiến nhân dân về
dự thảo luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) bắt
đầu từ 15.6 - 15.8.2007. Có 6 vấn đề chính
trong dự thảo luật thuế TNCN được
đề nghị trưng cầu ư kiến nhân dân, các ngành
các cấp. Để có thời gian chuẩn bị, Chính
phủ đề nghị luật thuế này khi
được thông qua sẽ có hiệu lực từ
1.1.2009.
+ ( Thanhnien 15.06) Trong
cuộc gặp mặt các điển h́nh xuất sắc
trên mặt pḥng chống tội phạm ma túy giai
đoạn 1997-2007, Bộ Công an công bố: qua gần 10
năm (1997 - 2007), lực lượng cảnh sát
điều tra tội phạm ma túy toàn quốc đă phát
hiện bắt giữ 111.300 vụ, 190.768 đối
tượng phạm tội ma túy, thu 1,2 tấn heroin; 4,3
tấn thuốc phiện; 17,7 tấn cần sa; hơn 1
triệu viên, ống tân dược gây nghiện; hơn
840.000 viên ma túy tổng hợp cùng số tài sản trị
giá hàng trăm tỉ đồng. So với 10 năm
trước khi thành lập lực lượng cảnh sát
pḥng chống tội phạm về ma túy, những con
số này tăng 5 lần số vụ; 4,7 lần số
đối tượng; 1,5 lần số heroin; 3,6 lần
số cần sa. Hiện trên toàn quốc đă lên danh sách
gần 160.000 người nghiện nặng, đưa vào
diện quản lư trên 20.000 đối tượng có liên
quan hoạt động tội phạm ma túy.
+ (VnExpress 15.06) Hôm nay,
Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết, trong chuyến
thăm Mỹ, Chủ tịch nước Nguyễn Minh
Triết sẽ hội đàm với Tổng thống George
W Bush tại Nhà Trắng ngày 22/6 và gặp gỡ lănh
đạo hai viện Quốc hội.Theo người phát
ngôn Bộ Ngoại giao Lê Dũng, trong chuyến thăm Hoa
Kỳ diễn ra 18 - 23/6, người đứng
đầu Nhà nước cũng sẽ tham gia buổi
gặp gỡ với cộng đồng người
Việt tại Mỹ; gặp các doanh nghiệp Mỹ.
Tại điểm dừng chân ở New York, dự kiến
ông sẽ có cuộc hội
+ (Tuoitre 18.06) Theo phóng
viên TTXVN tại Đức, tối 16-6, Hội nghị
thượng đỉnh phụ nữ toàn cầu diễn
ra tại Berlin, với sự tham dự của gần 1.000
đại biểu nữ đến từ 95 nước
trên thế giới, đă bế mạc sau ba ngày làm
việc. Hội nghị ra tuyên bố sẽ tổ chức
Hội nghị thượng đỉnh phụ nữ toàn
cầu năm 2008 lần thứ 18 tại VN. Phó chủ
tịch nước Trương Mỹ Hoa cho biết
hội nghị sẽ được tổ chức
tại TP.HCM
+ (Tuoitre 18.06) Kết
luận của Ban chỉ đạo quốc gia về CNTT
tại hội nghị tổng kết năm năm
(2001-2005) thực hiện chỉ thị 58 ngày 15-6: Sau năm
năm thực hiện chỉ thị 58 của Bộ Chính
trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát
triển công nghệ thông tin (CNTT) phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, triển
khai bốn chương tŕnh, 14 đề án, dự án CNTT trọng
điểm với tổng số tiền khoảng 12.000
tỉ đồng (800 triệu USD vào thời điểm
đó), CNTT VN vẫn c̣n tụt hậu khá xa so với các
nước trong khu vực khiến mục tiêu đề ra
tới năm 2010 đưa CNTT VN đạt tŕnh
độ tiên tiến trong khu vực đang là một thách
thức rất lớn.
+ (Thanhnien 18.06) Tháp tùng
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đi Mỹ ngày 18-23/6 sẽ có 120
doanh nghiệp trong các lĩnh vực ngân hàng tài chính, dệt
may, thủy sản... Dự kiến, nhiều hợp
đồng lớn với tổng giá trị lên tới 4,5
tỷ USD sẽ được doanh nghiệp hai
nước kư kết. Chú ư nhất là hợp đồng mua
bán máy bay giữa Hăng hàng không VN và Tập đoàn Boeing và lễ kư giữa Trung tâm giao
dịch chứng khoán TP HCM với Sàn giao dịch chứng
khoán Mỹ NYSE. Theo số liệu của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, nếu tính cả đầu
tư qua nước thứ 3 th́ Mỹ đă đầu
tư vào VN 396 dự án với tổng vốn đầu
tư trên 4,7 tỷ USD, đứng thứ 6/77 quốc gia và
vùng lănh thổ có đầu tư trực tiếp vào VN.
Lượng khách Mỹ đến Việt Nam cũng đă
tăng nhanh, đạt trên gần 386 ngh́n lượt
người, đứng thứ ba trong các nước và
vùng lănh thổ. Thời gian lưu trú dài, mức chi tiêu khá,
nên tổng số tiền khách Mỹ chi tiêu ở Việt
Nam lớn nhất, lên đến trên nửa tỉ USD,
chiếm 16% tổng số tiền chi tiêu của khách quốc
tế.
+(VnExpress 18.06) Mốc
doanh thu 500 triệu USD trong kế hoạch 8.000 tỷ
của ngành phần mềm VN chỉ hoàn thành 50% trong giai
đoạn 2001-2005 v́ đầu tư không tương
xứng với mục tiêu đưa ngành này thành mũi
nhọn kinh tế quốc gia. Trong báo cáo của Vinasa
tại Hội nghị tổng kết chỉ thị 58
của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát
triển CNTT hôm 15/6, Hiệp Hội Doanh Nghiệp Phần
Mềm VN cho biết nhiều
quốc gia có xuất phát điểm thấp như Ấn
Độ, Thái Lan, Trung Quốc... đă thành công v́ họ biến
tham vọng trở thành trung tâm công nghiệp phần
mềm thành hiện thực: Năm 2005, Thái Lan đạt
530 triệu USD phần mềm đóng gói, 520 triệu USD
phần mềm xuất khẩu; Ấn Độ
đạt giá trị xuất khẩu 23,4 tỷ USD trong
năm 2006. C̣n Việt Nam năm 2005 mới xuất khẩu
được 70 triệu USD trong tổng số 250
triệu USD doanh thu từ phần mềm.
+ (Thời Báo Kinh
Tế VN 18.06) Theo Bộ Lao động - Thương binh Xă
hội, từ ngày 1 – 15.07 sẽ tiến hành điều tra
thực trạng việc làm và thất nghiệp năm 2007
trên phạm vi cả nước. Cuộc điều tra này
sẽ được tiến hành đối với 100.680
hộ gia đ́nh trên 3.350 địa bàn thuộc 64 tỉnh,
thành phố (30 hộ/địa bàn) với kinh phí 3,9
tỷ đồng. Qua đó, nhằm đáp ứng yêu
cầu thông tin về cơ cấu, chất lượng lao
động, t́nh trạng việc làm và thất nghiệp
của người lao động. Hiện nay tỷ
lệ thất nghiệp ở thành thị vẫn c̣n cao,
khoảng 7,28%, vùng nông thôn khoảng 10,98%. Hàng năm có trên
1,7 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao
động và chỉ có trên 35 vạn người ra
khỏi độ tuổi lao động, trong khi đó
mỗi năm chỉ giải quyết việc làm cho
khoảng trên 1 triệu người đă tạo ra áp
lực rất lớn về đào tạo nghề và
giải quyết việc làm
+ (TuoiTre 18.06) Hộ
gia đ́nh, cá nhân không được “tích tụ” quyền
sử dụng đất nông nghiệp “thoải mái” như
trước đây, thay vào đó là một hạn mức
nhất định. Đó là nội dung chính tại
nghị quyết (có hiệu lực thi hành từ 1-7-2007) qui
định về hạn mức nhận chuyển
quyền sử dụng đất nông nghiệp của
hộ gia đ́nh, cá nhân để sử dụng vào mục
đích nông nghiệp vừa được Ủy ban
Thường vụ Quốc hội thông qua sáng 18-6 trong ngày
khai mạc phiên họp thứ 50 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội khóa XI tại Hà Nội.
Đối với đất trồng cây lâu năm, mỗi
hộ gia đ́nh, cá nhân được nhận chuyển
quyền không quá 20ha tại các xă, phường, thị
trấn ở đồng bằng; không quá 50ha tại các xă,
phường, thị trấn ở trung du, miền núi.
Đối với đất rừng sản xuất là
rừng trồng, mỗi hộ gia đ́nh, cá nhân
được nhận chuyển quyền không quá 50ha
tại các xă, phường, thị trấn ở
đồng bằng; không quá 100ha tại các xă,
phường, thị trấn ở trung du, miền núi.
+ (TuoiTre 19.06) Ngày 18-6,
tại khu vực biên giới Việt Nam - Lào thuộc xă
Hồng Vân, huyện A Lưới (Thừa Thiên - Huế) và
Cô Tài, tỉnh Salavan (Lào), đại diện lănh đạo
hai tỉnh Thừa Thiên - Huế và Salavan đă tổ
chức lễ kư kết các văn bản ghi nhớ và
cắt băng khai trương cửa khẩu chính Hồng
Vân - Cô Tài.
+ (TuoiTre 19.06) Sau
hơn 2 năm chờ đợi, phiên điều trần
phúc thẩm vụ kiện các công ty hóa chất Mỹ
của các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam
đă diễn ra vào lúc 1g30 chiều ngày 18-6 (giờ NY). Phiên
điều trần kết thúc lúc 3g10, các thẩm phán
đă cám ơn sự có mặt của các nạn nhân
chất độc da cam Việt Nam, những
người đă có một cuộc hành tŕnh đi
t́m công lư từ rất xa. Phán quyết sẽ
được đưa ra trong khoảng từ 3-6 tháng
tới.
+ (VnExpress 20.06)
Tượng đồng tốn kém nhất Việt Nam
bị nứt.Trên khối tượng xuất hiện hàng
chục điểm nứt và sùi ra những thứ màu
như gạch cua tạo thành vệt xanh nham nhở. Cả
khối tượng đồng như bị ai đó dùng
sơn xanh vảy lên. Ngay sau khi khánh thành vào năm 2004,
khối tượng đài đúc bằng đồng
nặng 220 tấn được đánh giá là quy mô và
tốn kém nhất Việt Nam đă xuống cấp.
+ (TuoiTre 20.06) Xin hạ chỉ tiêu khai thác
dầu năm 2007: Bộ trưởng Bộ Công nghiệp
đă báo cáo với Thủ tướng về khả
năng VN sẽ không đạt mục tiêu khai thác 17,5
triệu tấn dầu thô trong năm 2007 và xin điều
chỉnh chỉ tiêu xuống c̣n 16,8 triệu tấn.
Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí VN cho
biết như vậy tại cuộc gặp gỡ với
báo chí tại Hà Nội . Trong sáu tháng đầu năm,
tập đoàn đă khai thác 7,68 triệu tấn dầu thô,
tương đương 46,5% kế hoạch
năm. Như thế xuất khẩu dầu thô năm
nay có khả năng giảm 1 tỷ USD.