COÂNG GIAÙO – TOÂNG
TRUYEÀN BẢN TIN GIÁO
HỘI SỐ 42 (I) (TUẦN TỪ 13.07
ĐẾN 20.07.2007)
|
Trong
số nầy.
1.
TIN TỨC HỘI THÁNH CÔNG-GIÁO
( CÓ ĐÍNH KÈM
THƯ ĐỨC THÁNH CHA GIẢI THÍCH TỰ SẮC)
2.
GIỚI THIỆU
► THẦN HỌC THÂN XÁC (II.2): THẦN HỌC
THÂN XÁC CỦA ĐỨC GIOAN-PHAOLÔ II
TIN MỪNG CỦA GIÁO HỘI VỀ THÂN
XÁC VÀ T̀NH DỤC
(2)
► T̀M HIỂU KINH THÁNH. ĐỀ 20: CÁC CHẶNG TRONG TIẾN TR̀NH
GIÁO HUẤN THẦN
HỌC CỦA THÁNH PHAOLÔ
► TÀI LIỆU HỖ TRỢ CÔNG TÁC MỤC
VỤ : NHỮNG QUY TẮC QUẢN LƯ (2)
◙ PHỤ LỤC :
GỢI Ư SUY
NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT XV TN.C
◙ PHỤ TRANG:
VIỆT-NAM 7 NGÀY QUA
TIN
TỨC HỘI THÁNH CÔNG GIÁO |
“NGÀY CHÚA NHẬT CỦA CÔNG BẰNG XĂ
HỘI”.
(Fides 04.07) Hội Đồng Công Giáo Úc V́ Công
Bằng Xă Hội chuẩn bị công bố văn kiện
các Giám mục Công giáo Úc mang tựa đề “Ai là
người láng giềng của tôi? Vai tṛ của
nước Úc như là công dân toàn cầu” vào dịp Chúa
Nhật Công Bằng Xă Hội diễn ra ngày 30.09.2007, trong
đó các giám mục suy tư về sự dấn thân
của các Ngài như là những công dân, những Kitô-hữu
và những người dân nước Úc, về những
vấn đề liên quan đến công bằng xă hội
trên thế giới. Bản văn sẽ được
công bố một tuần trước ngày đó.
HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG
CHỌN CÁC TÂN HỒNG Y DỰ KIẾN VÀO THÁNG 11
(CWNews 05.07) Đức Thánh Cha Biển
Đức XVI sẽ tổ chức một hội nghị
nhằm nâng các thành viên mới của Hồng Y Đoàn vào
ngày 24.11. Theo tin của nhật báo Al Giornale,cuộc họp sẽ diễn ra hôm
trước ngày lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ. Vatican
chưa chính thức thông báo các kế hoạch của
hội nghị,nhưng tin đồn về việc bổ
nhiệm các tân hồng y đă lan truyền ở Roma từ
nhiều tháng qua. Hiện có 183 hồng y c̣n sống,trong
đó có 105 vị tuổi dưới 80 và được
bầ u cử trong Mật Nghị [bầu]Giáo Hoàng
(nhưng có 2 Vị sẽ 80 tuổi vào mùa thu nầy và 3
Vị khác nữa sẽ tṛn 80 trong năm 2008). Tờ Al Giornale đưa ra một
danh sách những Vị có khả năng sẽ nhận
mũ hồng y: Đức TGM Leonardo Sandri (nguyên chủ
tịch Thánh Bộ Các Giáo Hội Đông Phương);
Đức TGM Giovanni Lajolo,
chủ tịch đương nhiệm Hội
đồng quản trị Thành Vatican; Đức TGM John
Foley, Vị giáo sĩ cấp cao người Mỹ từ
lâu đứng đầu Hội Đồng Giaó Hoàng
về Truyền Thông Xă Hội, trước khi
được bổ nhiệm làm Đại Sư Các
Hiệp Sĩ Mộ Thánh và Đức TGM Angelo Bagnasco,
chủ tịch HĐGM Ư.
MALAYSIA THÊM CÁC KHOẢN PHẠT ĐỐI VỚI
VIỆC CẢI ĐẠO TỪ ĐẠO HỒI.
(CWNews 05.07) Hăng tin AsiaNews đưa tin ở
Miền Bắc Mă-Lai, đảng Hồi giáo Liên Mă Lai đă
nâng các khoản tiền phạt đối với việc
cải đạo từ đạo Hồi. Trong một
quốc gia mà đạo Hồi chiếm hơn một
nửa dân số, việc cải đạo bị phạt
tù 5 năm và phạt tiền 3.000 USD. Một người
đạo Hồi kết hôn với một người
ngoài đạo Hồi và làm cho người ngoài đạo
Hồi cải đạo theo Hồi giáo sẽ
được thưởng m65t căn hộ,một
chiếc xe, được 2.700 USD nhận một lần
và hằng tháng nhận lương 270 USD.
GIÁM MỤC BỈ BỊ TỐ
GIÁC LÀ GHÉT NGƯỜI ĐỒNG TÍNH
(Belgique News 05.07) Những nhà hoạt
động đồng tính Bỉ đă kiện Đức
Cha André-Mutieb Léonard, giám mục Công giáo La Mă giáo phận Namur,
v́ sự ghét người, một tội h́nh sự ở
Bỉ chiếu theo Đạo Luật Chống Kỳ
Thị năm 2003 của nước Bỉ. Trong một
cuộc phỏng vấn cuối tháng 4 vừa qua của
tờ tuần báo Télé Moustique,
Đức giám mục bị cho là đă mô tả
đồng tính như là người “bất b́nh
thường”. Theo luật sư của những
người hoạt động đồng tính Michel
Graindorge, Đức giám mục có ư “bêu rếu” những
người đồng tính, mà “lư lịch và phẩm giá
của họ bị hạ thấp từ lúc Đức
giám mục coi họ là bất b́nh thường”.
Đức giám mục nói Ngài không bao giờ mô tả
người đồng gính như là “người bất
b́nh thường”, mà chỉ tham chiếu ứng xử t́nh
dục của họ lệch lạc ngoài mẫu mực
b́nh thường: “ phải biết phân biệt giữa con
người và cách cư xử của người đó”.
DỰ THẢO LUẬT CẤM CÁC
THIỂU SỐ TÔN GIÁO Ở TAJIKISTAN
(AsiaNews 05.06)
Quốc hội Tajikistan đang thảo luận
một dự luật có thể sẽ từ chối các
trẻ em dưới bảy tuổi quyền
được giáo dục tôn giáo và cấm dạy
đạo trong nhà. Chỉ có các nhóm tôn giáo hơn 400 thành
viên ở mỗi quận huyện trong nước mới
được đăng kư, gồm những Kitô-hữu mà
con số có ít ngàn. Để phản ứng lại
đạo luật, 22 nhóm thiểu số tôn giáo trong
nước, gồm Baha’is, Công giáo và các chi phái Tin Lành khác
nhau đă cùng gửi một bức thư tới tổng
thống,Quốc Hội và Ban Tôn giáo, trong đó bày tỏ
“sự lo âu sâu xa”về đạo luật. Cha Carlos
đứng đầu Giáo Hội Công giáo nhỏ bé ở
Tajikistan nói rằng cũng như các người tham dự
Hội nghị ngày 28.06, người Công giáo hy vọng
bức thư sẽ giúp cải thiện luật và cho phép
đáp ứng các nhu cầu của mọi cộng
đồng tôn giáo trong nước.
TUẦN TRUYỀN GIÁO Ở PHÁP
(Fides 05.07) Từ 14 đến 21 tháng 10
sẽ diễn ra ở Pháp “Tuần Thế Giới
Truyền Giáo” mà đỉnh điểm sẽ là Ngày
Truyền Giáo Thế Giới vào Chúa Nhật 21.10. Ở
nước Pháp, tất cả các giáo xứ và phong trào, mỗi
cái tùy theo cam kết của ḿnh, được mời
gọi tổ chức huy động trong Tuần Truyền
Giaó nầy để cung cấp những phương
tiện hành động cho các giáo phận đang thiếu
thốn nhất. Tuần Truyền Giáo sẽ có chủ
đề “ hăy chuyển đi Lời mà bạn nhận
được”. Như thông tư của Ban Điều
Hành Quốc Gia, Tuần Truyền Giáo “mời gọi chúng ta
một cách cấp bách theo đuổi tiếp tục
sứ mệnh lớn lao là giúp đỡ việc truyền
giáo, do Pauline Jaricot khởi xướng ở Pháp cùng
với những nhân vật như Than1h Nữ Terêxa Hài
Đồng Giêsu mà ta sẽ mừng lễ vào năm 2007
kỷ niệm 80 năm Thánh Nữ được
đặt làm quan thầy các xứ truyền giáo”.
LUẬT MỚI CHỐNG LẠI
VIỆC CẢI ĐẠO KHÔNG PHÙ HỢP VỚI HIẾN
PHÁP
(Zenit 06.07) Trong bang Madhya Pradesh ở Ấn
Độ, các Kitô-hữu vuimmừng v́ ư kiến của liên
bang tuyên bố luật mới ch61ng việc cải
đạo của bang không phù hợp với các nguyên
tắc của Hiến Pháp Ấn Độ. Với
Đức Cha Pascal Topno, tổng giám mục giáo phận
Bhopal, quyết định nầy cho thấy lập
trường của Giáo Hội là đúng đắn. Ngày
25.07.2006, chính quyền Bang do đảng Bharatiya Janata
nắm quyền (đảng nhân dân S61n Độ) đă cho
bỏ phiếu một dự án luật củng cố
luật chống cải đạo năm 1968 để
tranh đấ chống lại các cuộc cải
đạo ép buộc. Tuy thế, luật không thể có
hiệu lực v́ thủ hiến bang từ chối kư vào.
Hồ sơ được gửi cho phó ủy viên công
tố tối cao để xem luật nầy có trái với
ac1c nguyên tắc tự do tôn giáo ghi trong Hiến Pháp Ấn
Độ chăng.
CÁC GIÁO SĨ CẤP CAO CỦA ANH HỐI THÚC
SỬA LẠI ĐẠO LUẬT CHUYỂN GIAO
(CWNews 06.07) Các nhà lănh đạo Công giáo
Anh-quốc hối thúc Thủ tướng Gordaon Brown rút
lại Đạo Luật Chuyển Giao cấm
người Công giáo không được ngồi lên ngai vàng.
Tờ Guardian cho biết
Đức hồng y Keith O’Brien Giáo phận Thánh
An-rê,Xcốtlen, lên kê hoạch gay áp lực để đ̣i
rút lại đạo luật ra từ năm 1701 nầy.
Đức hồng y Cormac Murphy-O’Connor giáo phận Westminster
đă chỉ ra rằng trong quá khứ luật cho phép
một người thừa kế ngai vàng có thể kết
hôn với một tín đồ Ấn giáo,Phật giáo,bất
cứ ai ngoại trừ mố tín đồ Công giáo La Mă.
TÂN THÁNH ĐƯỜNG CÔNG GIÁO
KHÁNH THÀNH Ờ TÂY NAM TRUNG QUỐC
(Xinhua 05.07) Thánh đường Đức
Mẹ Vô Nhiễm mới xây cất đă khánh thánh ở
thành phố tự trị Chongqing,Tây Nam Trung Quốc, trên
diện tích 4.460 thước vuông với chi phí khoảng
7,35 triệu nhân-dân-tệ (# 967.000 đô la Mỹ), gồm 3
triệu nhân dân tệ qà tặng của Hoa-kiều Công giáo
và 3,25 triệu do chính phủ trung ương và chính
quyền thành phố tự trị Chongqing. Hơn 2.000 tín
hữu Công-giáo tha dự nghi
thức vào ngày 29.06,lễ Hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô
để đánh dấu hoàn tất công việc xây
dựng. Thánh đường là công tŕnh tái xây dựng
một nhà thờ cũ vốn được các linh
mục thừa sai người Pháp xây năm 1908.
GIA Đ̀NH : ĐỐI
TƯỢNG HÀNG ĐẦU CHO CÔNG CUỘC TÂN PHÚC ÂM HOÁ
(ESM 06.07)
Đức Thánh Cha đă tiềp kiến các thành viên
HĐGM Cộng Hoà Đôminica kết thúc viếng Mộ Ad Limina. Người nhắc
với các Vị ấy rằng nhiệm vụ ưu tiên
của các Vị là làm cho chân lư về Chúa kitô và về con
người thấm nhuần sâu xa vào xă hội. Cho dù
nước Cộng Hoà Đôminica đang có những
triệu chứng của tục hóa và đối với
nhiều người,”Thiên Chúa không c̣n là căn nguyên và cùng
đích cuộc đời”, th́ dân tộc nầy vẫn có
một tâm hồn Kitô-giáo sâu xa. Đối tượng
của cuộc Tân Phúc Âm hoá là Gia Đ́nh. V́ thế Giáo
Hội trợ giúp các gia đ́nh trong những vấn
đề lớn lao mà gia đ́nh phải đương
đầu. Giáo Hội khuyến khích các gia đ́nh trong
đức tin bén rễ trong một kế hoạch sống
Kitô-hữu thường bị đe doạ. Gia đ́nh
phải là nơi cha mẹ giáo dục đời sống,
chuẩn bị hướng con cái về những quan
hệ xă hội và các giá trị luân lư lành mạnh trong
một xă hội mang đậm dấu chủ nghĩa khoái
lạc và dững dưng với việc Đạo.
VĂN KIỆN TÍN LƯ TÁI KHẲNG
ĐỊNH VAI TR̉ CỦA GIÁO HỘI
(CWNews 07.07) Theo các nguồn tin thông thạo
ở Roma, Vatican sắp công bố một văn kiện tín
lư mới nói về vai tṛ độc nhất của Giáo
Hội Công-giáo trong kế hoạch cứu độ
của Thiên Chúa. Văn kiện do Thánh Bộ Tín Lư
Đức Tin công bố, sẽ đề cập các
vấn đề về giáo huấn của Công Đồng
Varican II, trong Ánh Sáng Muôn Dân (Lumen Gentium), rằng Giáo Hội
do Chúa Kitô sáng lập “tiếp tục trong Giáo Hộu Công
giáo” Các câu hỏi về việc Giáo Hội đích thực
“tồn tại” thế nào trong Giaó Hội Công-giáo đă kéo
theo một loạt những câu trả lời từ
Vatican - mới đây nhất
là tuyên ngôn Domins Jesus,
được công bố năm 2000 với sự phê
chuẩn của Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II và
được Đức hồng y Joseph Ratzinger kư. Văn
kiện sẽ củng cố sứ điệp nền tảng của Dominus Jesus
rằng Giáo Hội được Chúa Giêsu Kitô sáng
lập hiện hữu trọn vẹn nơi một ḿnh
Giáo Hội Công Giáo mà thôi. Văn kiện nầy sẽ
phê b́nh khái niệm cho rằng các thực thể tôn giáo khác
cũng có thể đại diện Giáo Hội do Chúa Kitô
sáng lập và cảnh báo chống lại “thuyết
tương đối Giáo Hội” mà Đức Giáo Hoàng
Biển Đức đă phê b́nh trong qúa khứ.
GIÁO HỘI SẼ CÓ THÊM HAI VỊ
THÁNH VÀ NĂM CHÂN PHƯỚC
(Zenit 07.07) Đưc Giáo Hoàng
Biển-Đức XVI đă cho phép công bố các Sắc
Lệnh liên quan đến các phép lạ gán cho hai vị
Thánh sáng lập các Ḍng và năm vị chân phước
mới, cũng như sự tử đạo của
một nhóm các chân phước bị sát hại trong thù
hận cách nay gần 500 năm. Sau đây là danh sách, hai
Vị sắp được phong hiển thánh: GAETANO ERRICO,
linh mục người Ư (1791 – 1860) sáng lập Ḍng các
Thừa Sai Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria; MARIA BERNARDA BUTLER,
nữ tu người Thụy Sĩ (1848 – 1924), sáng lập
Ḍng Thừa Sai Phan Sinh Đức Bà Phù Hộ. và năm
vị được phong Chân Phước: Marie Rose
Flesch,nữ tu người Đức (1826 – 1906); Candelaria de
San José Paz Castillo Ramirez, nữ tu người Venezuela (1863 –
1940); Marta Maria Wiecka, nữ tu người Ba Lan ( 1874 – 1904);
Giuseppina Nicoli, nữ tu người Ư (1863 – 1924); Ceferino
Namuncúra,giáo dân người Á Căn Đ́nh (1886 – 1905). Cùng ác
Đấng tử v́ đạo : Antonio Primaldo và các bạn
giáo dân, bị ám sát ngày 13.08.1480 ở Ư.
TRUNG QUÓC VẪN TIẾP TỤC TỰ TẤN
PHONG CÁC GIÁM MỤC
(CAN 07.07)
Mặc cho Đức Thánh Cha Biển-Dức XVI đă
lập lại rằng việc tấn phong các giám mũc
không có ủy thác của Đức giáo hoàng là vi phạm
Giáo luật, nhưng một lănh đạo Giáo Hội
ở lục địa nói rằng Trung Quốc sẽ
tiếp tục tự chọn lựa và tấn phong các giám
mục. Anthony Lưu Bá Niên, phó chủ tịch Hội Công
giáo Yêu nước Trung Quốc tuyên bố tin nầy
với hăng tin UCA vào ngày 3 tháng 7: ”Chúng tôi chỉ tấn phong
các giám mục v́ lợi ích việc truyền giáo ở
lục địa. Không ai có thể băt chúng tôi ngưng
lại”. Theo ông, việc Roma phải làm là thừa nhận
các giám mục nầy. Thông thường vị ứng viên
giám mục được bầu chọn nộp
đơn xin Vatican phê chuẩn sau khi được
bầu chọn ở Trung Quốc, tuy nhiên ở một
số trường hợp,Vatican không phê chuẩn mà c̣n
đe doạ ra vạ tuyệt thông. Năm 2006 có ba vụ
tấn phong bất hợp pháp ở An Huy và Côn Minh. Vatican
đă ra hai văn kiện tố giác các cuộc phong chức
ấy. Được thiết lập năm 1957, năm
nay Hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc mừng Kim
Khánh ngày thành lập và tuyên bố giữ vững nguyên
tắc một Giáo Hội Trung Quốc “độc lập -
tự trị - tự cai quản”.
( Tóm tắt một số ) PHẢN ỨNG VỀ TỰ
SẮC CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG VỀ THÁNH LỄ TIẾNG
LA-TINH.
(Reuters 08.07) Tự sắc (motu proprio) của
Đức giáo hoàng Biển-Đức XVI cho phép các linh
mục Công-giáo La Mă làm lễ bằng tiếng Latinh
thường xuyên hơn, đă làm dấy lên hàng loạt
nhũng phản ứng trong Giáo Hội.
+ NHỮNG NGƯỜI DUY TRUYỀN THỐNG
LY KHAI
Đức Cha Bernard Fellay,cầm đầu
Huynh D0ệ Piô X (Thụy Sĩ):”Bức thư kèm theo
tự-sắc không dầu diếm sự kiện là các khó
khăn hăy c̣n đó. Tổ Chức Huynh Đệ Piô X hy
vọng bầu khí thuận lợi được các
biện pháp mới của Toà Thánh tạo nên sẽ giúp chúng
tôi – sau khi vạ tuyệt thông áp đặt lê các giám
mục của nó được cất đi - thảo luận một cách trong
sáng hơn những điểm tín lư đang tranh căi”.
+ NHỮNG NGƯỜI DUY TRUYỀN THỐNG
TRUNG THÀNH VỚI VATICAN
Michael Dunnigan, chủ tịch Una Voce America
(Chung một tiếng nói Hoa Kỳ): “Thánh Lễ
Truyền thống là một viên ngọc qúy đích thực
của di sản Giáo Hội và Đức Thánh Cha đă
đi bước quan trọng nhất hướng tới
việc làm cho nó hữu hiệu với thêm nhiều tín
hữu”.
+ PHONG TRÀO GIÁO DÂN.
-Mary Pat Fox,người cầm đầu Tiếng
Nói của Tín Hữu (Hoa Kỳ): “Một bước lùi
về Thánh Lễ La Tinh… không phải là một điều
ǵ đó có thể đem dân chúng vào nhà thờ hoặc
giữ dân chúng ở trong nhà thờ,nhất là những
người ở độ tuổi dưới 60”.
-Chúng tôi là Giáo Hội (Đức): “ Việc
Đức Giáo Hoàng t́m cách lấy ḷng những người
ly khai và duy truyền thống có thể dẫn tới
một sự chia rẽ trong nhiều giáo xứ,giáo
phận và toàn thể Giáo Hội Công-giáo La Mă”.
+ CÁC HỒNG Y.
-Hồng y Karl Lehmann,chủ tịch HĐGM
Đức: “ con số những Kitô-hữu có khuynh
hướng truyền thống không lớn lao như
thế. Tất nhiên, một số người ủng
hộ nó v́ những lư do rất khác nhau… Tôi hy vọng
những ac1i đầu nóng cả hai phía sẽ trở
lại thế trung dung”
-Hồng y Jean-Pierre Ricard, chủ tịch
HĐGM Pháp:” Chúng ta đang sống trong một cuộc
chiến các nghi lễ,theo nghi thức Công Đồng Vatican
II hay là nghi thức cũ. Đức Giáo Hoàng muốn
đưa chúng ta ra khỏi những cuộc bút chiến
một chiều chẳng muốn chấp nhận lư lẽ
của ai…Đa số các linh mục dưới tuổi 65
chưa bao giờ cử hành nghi thức cũ”.
+ CÁC NHÀ CHUYÊN MÔN CỦA GIÁO HỘI.
-Cha Keith Peckless, giáo sư Phụng Vụ
ở Đại Học Grêgôriana,Roma: Giáo Hội trong 25
năm vừa qua trở thành được phân cực
giữa tả và hữu…Có khả năng vấn đề
đặc biệt nầy sẽ dẫn tới sự phân
cực của Giáo Hội thêm nữa.
-Cha Tom Reese, giáo sự trung tâm thần học
tại Đại Học Georgetown,Mỹ: Đa số dân
chúng không thích phụng vụ xưa,họ muốn phụng
vụ mới. Trong những nơi có các nhóm không thích, th́ sẽ
hgây phiền toái thật sự cho linh mục quản
xứ, bởi v́ Ngài sẽ bị áp lực phải làm
lễ theo nghi thức cũ ấy.
+ NGƯỜI DO-THÁI.
Abraham Foxman,giám đốc quốc gia Liên Minh
Chống Phỉ Báng (Mỹ) :” Tôi không thể hiểu
tại sao Vatican lại có thể…muốn vặn đồng
hồ quay ngược lại một sự hoà giải
lịch sử như thế… (Lời cầu nguyện ngày
Thứ Sáu Tuần Thánh) tiếp tục nói người Do
Thái bị mù ḷa. Người Do Thái cần cải
đạo …Ngôn ngữ sử dụng có tính lăng
mạ..Quả là lạ lùng”
84 CHỦNG SINH THUỘC 12 CHỦNG VIỆN Ở
TRUNG QUỐC HOÀN TẤT CHƯƠNG TR̀NH ĐÀO TẠO
(Fides 10.07) Theo những con số thống kê
mới đây nhất được phổ biến trên
tờ “Đức Tin” (Faith),tờ thông tin Công giáo Hoa
Bắc, trong 12 chủng viện cả nước có
tổng cộng 84 chủng sinh đă hoàn tất
chương tŕnh đào tạo 7 năm về lư thuyết
và thực hành. Bảy chủng viện sau đây không có
chủng sinh tốt nghiệp năm nay: Bắc Kinh, Ji Lin,
Nội Mông, Shan Xi,Shaan Xi,Shan Dong và Si Chuan.
VĂN KIỆN MỚI CỦA
VATICAN KHẲNG ĐỊNH TÍNH CHẤT TRUNG TÂM CỦA GIÁO
HỘI CÔNG GIÁO
(CWNews 11.07 ) Vatican đă phổ biến
một văn kiện tín lư mới xác định vai tṛ
chủ yếu của Giáo Hội Công-giáo trong chương
tŕnh cứu độ của Thiên Chúa.Văn kiện
ngắn gọn do Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin tŕnh
được tŕnh bày dưới dạng hỏi – đáp,
đề cập những vấn đề về giáo huấn
của Công Đồng Vatican II rằng Giáo Hội do Chúa
Giêsu Kitô sáng lập tồn tại và tiếp diễn trong
Giáo Hội Công Giáo. Tài liệu mở đầu với
nhận định rằng các Giáo Huấn của Vatican II
“đóng góp một cách dứt khoát vào sự phục hồi
Giáo Hội Học Công giáo”, khuyến khích suy tư xa hơn
nữa vể bản chất của Giáo Hội. Tuy
nhiên,trong một số trướng hợp,các suy tư
nầy bị hư hại do “giải thích sai lạc gây ra
lẫn lộn và nghi ngờ” về Giáo huấn Giáo Hội.
Các cộng đồng Tin Lành “không được
hưởng sự kế thừa các tông đồ trong Bí
Tích Truyền Chức”, v́ họ “không duy tŕ ǵn giữ
bản thể chân thật và toàn vẹn của Bí Tích Thánh
Thể”, v́ thế “không thể được goị là “các
Giáo Hội: theo đúng nghĩa”.
HĐGM CÓ UY TÍN CỦA
PHI-LUẬT-TÂN HOAN NGHÊNH SỰ TRỞ VỀ VỚI THÁNH
LỄ LA-TINH
(GMANews 10.07) Trong một tuyên bố đưa
ra, Đức hồng y Angel Lagdameo,chủ tịch HĐGM
Phi Luật Tân nói rằng việc Đức Thánh Cha cho phép
hai h́nh thức cử hành Than1h Lễ - bằng tiếng
Latinh và “mới” - sẽ là một nhân tố hiệp
nhất trong Giáo Hội.Hai h́nh thức sẽ có cách của
ḿnh để dẫn đắt tín hữu đến
với việc thờ phương Thiên Chúa trong cầu
nguyện và trong phụng vụ”. Thánh Lễ bằng
tiếng Latinh được Chân Phước Giáo Hoàng Gioan
XXIII phê chuẩn năm 1962, đă được thay
thế bằng Thánh Lễ “mới” do Đức giáo hoàng
Phaolô VI phê chuẩn năm 1970 sau Công đồng Vatican II.
Đức Hồng Y ghi nhận Thánh Lễ “mới” đă
trở nên phổ biến hơn trong dân chúng v́ nó cho phép
sử dụng một số sửa đổi,thích nghi
được phê duyệt, gồm cả việc dùng ac1c
ngôn ngữ phổ thông và thổ ngữ.
THƯ CỦA ĐỨC CHA GUY DE KERIMEL,GỬI CÁC LINH MỤC
GIÁO PHẬN
(trích lời nhập)
(ESM 10.07) [Ngày 06,07.2007, tức là một ngày trước khi Đức Thánh Cha Biển-Đức XVI cho công bố Tự Sắc về việc sử dụng Thánh Lễ Triđetinô, Đức Giám Mục giáo phận Grenoble đă gửi thư đến các linh mục trong giáo phận, đề nghị đón nhận Tự Sắc trong đức tin , vâng phục và cộng tác.BTGH xin trích lời dẫn nhập lá thư]
Anh em linh mục quư mến,
Chúng ta đón nhận trong đức tin TỰ SẮC
(Motu Proprio) của Đức Giáo Hoàng Biển-Đức
XVI của chúng ta. Ư định của Đức Thánh Cha
trước hết là ưu tư của Người
đối với hoà giải nội bộ bên trong Giáo
Hội và Người giải thích trong thư Người
gửi các giám mục. Đức giáo hoàng đă dành thời
giờ suy tư và cầu nguyện: Người đă
lắng nghe những luận chứng của những
người tŕnh bày với Người những dè dặt
và lo sợ. Người đả công bố Tự Sắc
nầy với ḷng thanh thản, tiếp nối Tự
Sắc của Đức Gioan-Phaolô II, để có một
khung pháp lư rơ rệt hơn, tất nhiên có tính đến
sự tiến hoá của bối cảnh. Cho dù ư kiến cá
nhân của chúng ta thế nào đi chăng nữa, chúng ta
đă được truyền chức để nên tôi tớ cho sự hiệp
thông và nên những
người tác động sự hoà giải.
KHÔNG PHẢI NHỮNG LƯ LẼ CAO SÂU, TỎ RƠ SỰ
THÔNG THÁI, CHỐNG ĐỐI ĐỨC THÁNH CHA,CÓ THỂ
XÂY DỰNG GIÁO HỘI VÀ THUYẾT PHỤC KẺ
ĐỐI NGHỊCH VỚI HỘI THÁNH, MÀ CHÍNH LÀ SỰ
VÂNG PHỤC TUYỆT ĐỒI ĐỨC GIÁO HOÀNG V̀ L̉NG
YÊU MẾN HỘI THÁNH, NHIỆM THỂ CHÚA KITÔ. |
(TÀI LIỆU ĐÍNH
KÈM)
ĐỨC THÁNH CHA BIỂN-DỨC XVI GỬI
CÁC GIÁM MỤC TOÀN THẾ GIỚI
ĐỂ TR̀NH BẦY TỰ SẮC LIÊN QUAN TỚI VIỆC DÂNG LỄ TIẾNG LATINH
Sáng thứ bảy 7-7-2007 Đức Thánh Cha Biển
Đức XVI đă cho công bố thư gửi các Giám
Mục toàn thế giới thông báo tự sắc liên quan
tới việc dùng phụng vụ Roma cũ trước khi
có cuộc cải tổ năm 1970.
Đức Thánh Cha cho biết đây là
kết qủa các suy tư, tham khảo và cầu nguyện
lâu dài. Ngài trả lời cho hai nỗi lo lắng: thứ
nhất có người sợ rằng việc dùng lễ
nghi phụng vụ cũ tiếng latinh gây thiệt hại
cho quyền bính của Công Đồng Chung Vaticăng II và
các quyết định của Công Đồng trong só có
quyết đinh liên quan tới việc canh cải phụng
vụ. Sự sợ hăi này không có nền tảng. Trước
hết sách Lễ do Đức Giáo Hoàng Phaolo VI cho in, và
được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II cho tái
bản hai lần, là h́nh thức b́nh thường của
Phụng Vụ Thánh Thể.
Ấn bản
Sách Lễ Roma do Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII cho phát thành
năm 1962 và được dùng trong Công Đồng sẽ
có thể là h́nh thức ngoại thường của
việc cử hành phụng vụ. Coi chúng như thể là
hai ”lễ nghi” th́ không đúng. Đúng hơn đó là hai
kiểu dùng của cùng một lễ nghi duy nhất.
Đức Thánh Cha nhắc lại rằng
Sách Lễ Roma ấn hành năm 1962, như là h́nh thức
ngoại thường của việc cử hành Thánh
Thể, đă không bao giờ bị hủy bỏ trên b́nh
diện pháp lư v́ thế, theo nguyên tắc, nó sẽ luôn luôn
được phép dùng. Khi đưa ra Sách Lễ mới,
đă không thấy có sự cần thiết phải
đưa ra các điều lệ riêng cho việc có thể
dùng sách lễ cũ. Chắc hẳn người ta đă
giả thiết là chỉ có ít trường hợp và có
thể giải quyết từng trường hợp
một. Tuy nhiên sau đó người ta nhận thấy có
không ít người gắn bó với việc dùng Lễ Nghi
Roma đă quen thuộc ngay từ ngày c̣n bé. Mọi
người đều biết trong phong trào do Đức
Tổng Giám Mục Lefevre hướng dẫn, sự trung
thành với lễ nghi này trở thành dấu chỉ bề
ngoài, nhưng các lư do của sự bẻ gẫy nảy
sinh từ đây, có nguồn gốc sâu xa hơn. Nhiều
người rơ ràng chấp nhận tính cách bắt buộc
của Công Đồng Chung Vaticăng II và trung thành với
Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục, nhưng cũng
ước mong t́m lại h́nh thức phụng vụ, mà
họ yêu thích. Điều này xảy ra v́ tại nhiều
nơi người ta đă không trung thành cử hành theo Sách
Lễ mới, mà c̣n hiểu rằng được phép hay
bắt buộc phải sáng chế ra phụng vụ,
dẫn đưa tới các sai lệch không chịu
nổi. Chính tôi cũng đă sống kinh nghiệm của
các chờ mong và các lẫn lộn trong thời kỳ này, và
tôi đă thấy các vết thương sâu rộng do các sai
lạc ấy gây ra nơi những người có ḷng tin sâu
xa.
Tiếp tục thư gửi các Giám Mục
toàn thế giới để giới thiệu tự
sắc liên quan tới việc dùng sách lễ Roma cũ
bằng tiếng Latinh, Đức Thánh Cha cho biết v́ các
lư do trên đây Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đă bắt
buộc phải công bố tự sắc “Giáo Hội
của Thiên Chúa” ngày mùng 2 tháng 7 năm 1988, liên quan tới
việc dùng Sách Lễ Roma năm 1962, nhưng không
đưa ra các chỉ dẫn chi tiết, mà chỉ kêu
gọi ḷng quảng đại của các Giám Mục
đối với các ”khát vọng chính đáng” của các
tín hữu xin dùng Lễ Nghi Roma. Qua đó Đức Gioan Phaolo
II muốn giúp Huynh đoàn Pio X t́m lại sự hiệp
nhất trọn vẹn với Người Kế Vị
Thánh Phêrô, và t́m cách chữa lành vết thương ngày càng
đau nhức. Nhưng rất tiếc là cho tới nay
nỗ lực đó đă không thành công.
Tuy nhiên, nhiều cộng đoàn đă sử dụng sách
lễ này với ḷng biết ơn. Nhưng v́ không có các
điều luật nên việc dùng Sách Lễ năm 1962
vẫn có khó khăn, v́ thường khi các Giám Mục lo
sợ nó nguy hại cho quyền bính của Công Đồng
Chung Vaticăng II. Do đó cần phải giải quyết
vấn đề pháp lư một cách rơ ràng hơn.
Nỗi lo sợ thứ hai cho rằng việc dùng Sách
Lễ cũ tiếng latinh năm 1962 có thể tạo ra các
hỗn loạn và chia rẽ trong các cộng đoàn giáo
xứ, cũng không có nền tảng. Việc sử
dụng nó giả thiết việc được đào
tạo về phụng vụ và khả năng có thể
hiểu tiếng latinh. Cả hai yếu tố này
đều không là điều thông dụng, v́ thế Sách
Lễ mới là h́nh thức b́nh thường của
việc cử hành.
Tiếp đến Đức Thánh Cha
nhấn mạnh rằng thật ra cả hai h́nh thức
sẽ làm giầu cho nhau: cần phải thêm tên các thánh
mới và vài kinh tiền tụng mới vào Sách Lễ Roma
cũ. Đó là các lư do khiến Đức Thánh Cha công
bố tự sắc để cập nhật tự
sắc năm 1988 của Đức Giáo Hoàng Giaon Phaolo II,
với mục đích tạo ḥa giải và hiệp nhất
trong ḷng Giáo Hội. Không có mâu thuẫn nào giữa hai ấn
bản Sách Lễ Roma cả. Trong Lịch sử Phụng
vụ có các tăng trưởng và tiến triển,
nhưng không có đổ vỡ. Điều thánh thiêng và cao
cả đối với các thế hệ đi
trước cũng vẫn thánh thiêng và cao cả
đối với chúng ta ngày nay. Thật là ích lợi khi duy
tŕ được các phong phú đó đă lớn lên trong ḷng
tin và lời cầu nguyện của Giáo Hội.
Sau cùng Đức Thánh Cha khẳng
định rằng các điều lệ mới này không
giảm thiểu quyền và trách nhiệm của các Giám
Mục trên phụng vụ cũng như trên mục vụ
đối với các tín hữu do các ngài phụ trách.
Nhiệm vụ của các vị là canh thức để
mọi sự tiến hành trong ḥa b́nh và thanh thản.
Đức Thánh Cha xin các Giám Mục viết
bản tường tŕnh về cho Ṭa Thánh liên quan tới các
kinh nghiệm thu thập được trong ba năm
tới sau khi tự sắc có hiệu lực (SD 7-7-2007)
Linh
Tiến Khải (Radio Vatican/ Chương
tŕnh Việt-Ngữ)
THẦN HỌC THÂN XÁC CỦA
ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN-PHAOLÔ II
Yves Semen
Ngày 05.02.2005, Yves Semen đă giảng cho những
người trẻ tham dự vào buổi tối “t́nh yêu
đích thực chờ đợi”, được tổ
chức ở Vétroz. Ông là tiến sĩ triết học
của đại học Sorbonne, giám đốc Viện
Nghiên Cứu Nhân Loại Học Châu Âu Philanthropos ở
Fribourg (Thụy Sĩ) và giáo sư Khoa Tự Do Triết Lư.
Ông cũng là tác giả cuốn T́nh Dục Theo Đức
giáo hoàng Gioan-Phaolô II (nhà xuất bản Phục Hưng,2004)
TIN MỪNG CỦA GIÁO HỘI
VỀ THÂN XÁC VÀ T̀NH DỤC
(tiếp theo và
hết)
2.2 Nam và nữ, Người tạo
dựng họ theo h́nh ảnh của Người.
Hai tŕnh thuật cuộc tạo dựng mà Sách Sáng
Thế kể lại cho chúng ta, tŕnh thuật thứ
nhất thực ra là mới hơn. Nó` được
chăm chút hơn và “có tính thần học” hơn tŕnh
thuật thứ hai, v́ nó tập trung ở công tŕnh của
Thiên Chúa:”Thiên Chúa phán: ta hăy làm con người theo h́nh ản
của chúng ta, giống như chúng ta và nó hăy ngự trị
trên cá biển,chim trời,các thú vật,tất cả các thú
vật hoang dă và các con vật ḅ trên mắt đất. Thiên
Chúa đă dựng nê người nam (ha-adam = danh từ
tập hợp = nhân loại) theo h́nh ảnh của
Người;Người dựng nên họ theo h́nh ảnh Thiên Chúa,
Người dựng nên họ nên người nam (zakar:
đực) và người nữ (quebah = cái). Thiên Chúa chúc
phúc cho họ và nói với họ; hăy sinh sôi nảy nở,
hăy tăng lên nhiều lần, hăy làm đầy mặt
đất và chinh phục nó, hăy cai trị trên cá
biển,chim trời và trên tất cả mọi con vật
ḅ trên mặt đất (…) Thiên Chúa thấy những ǵ
Người làm rất tốt đẹp. Có một
buổi chiều, có một buổi sáng, đó là ngày thứ
sáu” (St 1,26 – 31)
Đức Gioan-Phaolô II lưu ư rằng có một
sự đạn tuyệt trong chuỗi tiếp nối công
tŕnh tạo dựng với việc at5o dựng con
người. Với những ǵ xảy ra trước
đó, sách nói rằng:”Thiên Chúa phán …và Thiên Chúa làm”. Với
con người, Thiên Chúa phán:” Chúng ta hăy làm con người
theo h́nh ảnh của chúng ta”. Số nhiều nầy
đánh dấu rằng chính là Ba Ngôi Thiên Chúa trọn vẹn
cùng hành động trong việc tạo dựng con
người. Lại nữa, không hề nêu lên bất cứ sự giống nhau nào
giữa con người với tất cả các tạo
vật khác (animalia) nhưng chỉ giống Thiên Chúa và
sự khác biệt giới tính chỉ được
chỉ ra cho người nam và người nữ. Nếu
người nam và người nữ là h́nh ản của
Thiên Chúa, th́ chính là với giới tính của họ là thành
phần cấu tạo toàn bộ việc con người
nên giống Thiên Chúa và giới tính nầy ( = t́nh dục)
được Thiên Chúa chúc phúc.
Điều quan trọng đầu tiên phải
nhớ ở tŕnh thuật tạo dựng nầy v́
vậy,là sự khác biệt giới tính và các dấu hỉ
của nó phải nh́n từ khía cạnh sự giống
với Thiên Chúa, chứ không
phải với thú vật. Đó là một điểm
chính yếu: về khía cạnh “ư nghĩa thần học”
của nó, chúng ta không cần phải t́m kiếm để
hiểu được giới tính của chúng ta từ
những ǵ chúng ta nhận thấy trong sự ngự
trị của thú vật, trong đó giới tính hoà toàn
lệ thuộc vào sự sinh sản và t́nh dục con
người là một loại “thăng hoa văn hoá”.
Văn bản sách Sáng Thế mới gọi chúng ta t́m
kiếm ư nghĩa giới tính của chúng ta trong sự
kiện là nhờ nó, chúng ta - với tư cách là
người nam và người nữ - là h́nh ảnh của
Thiên Chúa. Đó là một cái nh́n lui về cội nguồn mà
Đức Gioan-Phaolô II mời gọi chúng ta trong
bước tiếp cận từ thực tế t́nh
dục khởi từ Sách Sáng Thế.
2.3 Sự cô đơn
khởi thủy, nền tảng của hiệp thông.
Tŕnh thuật tạo
dựng thứ hai, cổ hơn, và tŕnh bày cho chúng ta Thiên
Chúa một cách theo h́nh hài nhân loại, làm chứng về
một chiều sâu chủ thể và tâm lư to lớ hơn
nhiều. Nó mô tả cho chúng ta cách mà con người cảm
nhận ḿnh và hiểu biết ḿnh và theo ư nầy, con
người một cách nào đó là chứng từ
đầu tiên của ư thức nhân bản.
“ Vào thời Yahvê Thiên Chúa
dựng nên trời đất (…) không có con người
để canh tác đất đai. V́ vậy Thiên Chúa đă
nặn ra con người bằng đất sét và thổi
vào lỗ mũi nó một hơi thở sự sống, và
con người trở thành một sinh vật só6ng
động (…).Yahvê Thiên Chúa phán : đàn ông ở một ḿnh
th́ không tốt. Ta phải làm cho nó một
trợ thủ xứng hợp với nó. Yahvê Thiên Chúa c̣n
nặn lên từ đất tất cả mọi thú
vật hoang dă và tất cả mọi chim trời và Người
dẫn chúng đến con người để xem con
người đặt tên cho chúng thế nào: mỗi con
vật phải mang cái tên mà con người đặt cho
nó. Con người đặt tên cho tất cả mọi
súc vật, chim trời và cho mọi dă thú, nhưng
đối với con người, nó không t́m ra
được trợ thủ xứng hợp với nó” (St
II 4 – 21)
Con
người được nặn từ đất sét
được chỉ ra trong tiếng Do Thái với từ ha adam. Đó là một danh
từ tập thể không nêu lên giới tính. Để tránh
hiểu hai nghĩa, người ta phải dịch từ
đó bằng “Con Người” hoặc “Nhân linh”. Yahvê
khẳng định rằng Nhân Linh nầy ở một
ḿnh th́ không tốt, nhưng việc tạo dựng
người nữ không can thiệp ngay lập tức.Và
chính nhân linh nầy sẽ trải nghiệm sự “cô
đơn thuộc bản thể ”(ontological). Kinh nghiệm
sự cô đơn khoét sâu trong con người bởi
sự kiện là nó biết tất cả thiên nhiên một
cách trọn vẹn và một cách nào đó “từ nội
tâm”. Điều đó được chứng nhận
bởi sự kiện là con người đặt tên cho
mọi thú vật và canh tác đất đai. Như thế
con người có khả năng cai quản một cách hoàn
hảo thiên nhiên và nó khám phá ra rằng nó là kẻ duy
nhất làm được điều đó và rằng do
vậy nó đượ đặt để trong một
trạng thái trọn hảo vượt xa tất cả mọi
sinh vật khác trong thiên nhiên. Sự hoàn hảo nầy không
chỉ về mặt cấp độ, mà đó là một
sự hoà hảo thuộc bản thể nhờ đó nó
được tách ra khỏi tất cả những ǵ
hiện hữu với nó trong cuộc tạo dựng.
Và truy thế
nó lại không khám phá ra “một trợ thủ xứng
hợp với ḿnh”. Từ Do Thái là ezed, nghĩa chính xác là một “đồng minh
giống nó về mặt nhân loại tính”. V́ vậy nó
thấy ḿnh bị một thứ “cô đơn thuộc
bản thể”. Nó không tự khám phá ra được
bằng thân xác của ḿnh và những hành vi mà nó có khả
năng thực hiện như la 2một sinh vật hoàn toàn
tách biệt trong thiên nhiên – nghĩa là một con
người – và nó khao khát t́m được trong thiên nhiên
ấy một tạo vật có thể thành một
đồng minh về nhân tính, có khả năng chia sẻ
thân phận con người với nó và có thể trao ban -
bởi v́ cái làm nên đặc thù của con người,
chính là nó được làm nên để trao ban – và nó không
t́m ra được một tạo vật nào khả dĩ
tiếp nhận nó trao ban. Đó c̣n hơn cả một
sự cô đơn t́nh cảm hoặc tâm lư. Đó là sự
cô đơn thuộc bản thể triệt để mà
con người trải nghiệm và làm cho con người
khiếp hăi theo đúng nghĩa tuyệt đối của
từ nầy. Chính sự cô đơn nầy mà bản
văn thánh nói là nó (sự cô đơn) không tốt, v́ nó
không cho phép con người biến ước mong sâu
thẳm từ bản thể của nó với tư cách là
con người, thành hiện
thực một cách trọn vẹn. Kinh ghiệm sự cô
đơn do đó, là một con đường dẫn
tới nỗi khát khao thực hiện sự hiệp
nhất trong sự hiệp thông những con người và
sự trao ban cho nhau. Đó c̣n là một kinh nghiệm chúng ta phải chấp nhận
đi qua nó và nó kèm theo một sự tinh luyện t́nh yêu khi
chúng ta ước ao tiến tới hôn nhân hoặc trao ban
ḿnh trong đời sống tận hiến.
Điề quan
trọng thứ hai phải lưu ư, đó là nhờ thân xác
ḿnh mà con người, trong kinh nghiệm sự cô đơn
nguyên thủy, khám phá ra ḿnh có khả năng làm những hành
vi cá nhân mà nó là kẻ duy nhất có thể thực hiện
trong thế giới hữu h́nh. Đức Gioan-Phaolô II nói
về vấn đề nầy:” Thân xác, nhờ nó mà con người
tham dự vào thế giới được tạo
dựng hữu h́nh, cũng đồng thời làm cho con
người ư thức được là “duy nhất”.
Quả thật, nó đă không thể đạt tới
sự xác tín nầy mà nó đă thủ đắc
được (…) nếu như thân xác nó không giúp cho nó
hiểu được điều ấy, bằng cách làm cho
sự việc ra sáng tỏ hiển nhiên. Sự ư thức
nỗi cô đơn hẳn đă có thể bị
đổ vỡ v́ chính thấn xác. Con người, adam, căn cứ trên kinh
nghiệm về thân xác của chính ḿnh, đă có thể
đi đến kết luận là nó về thực
chất giống như mọi sinh vật sống động
khác (animalia). Và như chúng ta đă đọc thấy
điều ấy, con người đă không đi
đến kết luận nầy: trái lại, nó tin
chắc rằng nó là “duy nhất”(…). Phân tich văn bản
ḍng Yavê cho phép chúng ta liên kết sự cô đơn nguyên
thủy của con người với ư thức về thân
xác qua đó con người phân biệt ḿnh với tất
cả moị sinh vật và tách biệt khỏi các sinh
vật nầy và nhờ nó [thân xác] mà con người là
một cá nhân” (Buổi triều yết ngày 24.10.1079).
Chính nhờ
thân xác của ḿnh mà con người khám phá ra rằng khát
khao sâu thẳm của bản thể nó với tư cách là
con người. là trao ban chính ḿnh cho một con người
khác giống như nó. Không có điều đó, nó không
thể thành toàn trong ơn gọi đặc thù của con
người.
2.4 Bài ca tân hôn thời kỳ nguyên thủy.
“Lúc ấy Yahvê Thiên Chúa làm cho giấc ngủ
sâu chụp xuống trên người nam. Người
lấy một trong những cạnh sườn của
người nam và khép thịt chỗ đó lại. Rồi
với cạnh sườn mà Người đă rút từ
người nam,Yahvê Thiên Chúa làm nên một người
nữ và dẫn nàng đến với người nam. Bâư
giờ người nam kêu lên “nầy là xương từ
xương tôi và thịt từ thịt tôi! Nàng sẽ
được gọi là người nữ, v́ nàng
được rút ra từ người nam! V́ thế
người nam ĺa bỏ cha ḿnh và mẹ ḿnh và gắn bó
với vợ ḿnh và họ trở thành một xác thịt
duy nhất”(St II,21 – 24). Đức Gioan-Phaolô II lưu ư
rằng giấc ngủ sâu chiếm lấy adam, không
phải là một giấc ngủ “b́nh thường”. Đó
là một “t́nh trạng mê mệt”,- Đức Gioan-Phaolô
II nói, - luôn là dấu chỉ
một sự can thiệp triệt để của Thiên
Chúa nhắm tạo dựng một giao ước giữa
Người và con người. Do vậy đó là thời
khắc long trọng nhất của cuộc tạo
dựng, thời khắc sắp ràng buộc tất cả công tŕnh của Chúa và
tất cả lịch sử của nhân loại.
Cũng cần
phải để ư rằng người nữ
được rút từ sườn người nam và
điều đó rất tượng trưng. Điều
đó muốn nói nàng là vật tương đồng hoàn hảo
về bản thể của người nam. Hơn
thế, trong tiếng sumêriêng,
dấu chữ h́nh nêm [kiểu chữ Ai Cập, Ba Tư
ngày xưa.BTGH] ‘cạnh sườn” cũng có nghĩa là
“sự sống”: người nữ cũng cùng “sự
sống” như người nam. Lúc người nữ
được tạo thành, Adam kêu lên:” Đây là xương
bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi! Nàng
sẽ được gọi là người ữ, v́
được rút ra từ người nam”. Đó là bài t́nh
ca đầu tiên của nhân loại làm nên – theo lời
của Đức Gioan-Phaolô II -
“nguyên mẫu” của sách Nhă Ca. Những từ
được dùng ish
(người nam - đực) và Isha (người nữ) chứng thực rơ
rệt rằng người nữ (Isha) được rút
ra từ người nam (Ish) [
sau nầy người La Mă cũng dùng kiểu đổi
từ giống đực sang giống cái, để nói
về sự gắn bó thề nguyền trong hôn nhân,
giữa người nam và người nữ: ubi Caius,ibi
Caia. Caius ở đâu, th́ Caia ở đâu. Chàng ở
đâu, th́ nàng ở đấy! BTGH]
“ Và họ nên một xác thịt duy nhất””
chính lúc khám phá sự thông hiệp trong thân xác nầy mà
người nam và người nữ trở nên h́nh ảnh
của Thiên Chúa một cách tṛn đầy. Hành vi nhục
thể, sự trao ban thân xác, diễn tả sự toàn
vẹn trao ban cho nhau của những con người, chính
nhờ đó mà người nam và người nữ,trong
xác thịt, là h́nh ảnh của Ba gôi Thiên Chúa: “Con
người trở thành h́nh ảnh và nên giống như
Thiên Chúa không phải bằng nhân tính của riêng nó, mà c̣n
bởi sự thông hiệp của những con người
mà người am và người nữ h́nh thành ngay từ
ban đầu (…). Con người trở thành h́nh ảnh
của Thiên Chúa ở thời điểm cô độc it1
hơn là vào lúc hiệp thông. Quả thật “ngay từ
khởi thủy” nó không chỉ là một h́nh ảnh phản
chiếu sự cô độc của một Cá nhân ngự
trị thế giới, mà c̣n và chủ yếu là h́nh ảnh
của một sự hiệp thông thăm thẳm khôn ḍ
của các Ngôi Vị Thiên Chúa (Buổi triều yết ngày
14.11.1979). Và Đức Gioa-Phaolô II nói thêm: “điều
nầy có thể sẽ là khía cạnh thần học xâu xa nhất
của tất cả những ǵ có thể được
nói về con người” (như trên).
Điều
thứ ba cần ghi nhớ là con người là h́nh ảnh
của sự thông hiệp cac1 Ngôi Vị Thiên Chúa do sự
thông hiệp mà nó có khả năng với tư cach là con
người hơn là bởi sự kiện nó là một
tạo vật được phú cho tính chất tinh
thần. Và sự thông hiệp nầy thâu tóm và đạt
đỉnh điểm trog sự thông hiệp thân xác. T́nh
dục là một điều căn bản tốt lành: nó là
cái mà nhờ đó con người là h́nh tượng trong
xác thịt của sự hiệp thông các Ngôi Vị Thiên Chúa.
2.5
Sự trần truồng, dấu hiệu của
hiệp nhất trong sự hiệp thông.
“ Nhưng cả hai trần truồng,
người nam và người nữ và họ không thấy
xấu hổ trước mặt nhau”(St II,25). Việc
nhắc đế sự trần truồng không phải là
ngẫu nhiên hoặc thêm vào. Đức Gioan-Phaolô II nhấn
mạnh điều ấy: nó tỏ cho thấy một t́nh
trạng ư thức so với sự trần truồng
của thân xác. Sự vắng bóng xấu hổ tương
ứng với kinh nghiệm sự tṛn đầy của
sự hiệp thông nam - nữ. Trong trạng thái thời
nguyên thủy, nghĩa là trước khi con người
phạm tội nguyên tổ, người nam và người
nữ có được khả năng hiểu rằng thân
xác của họ qua mọi dấu chỉ của nam tính và
nữ tính, được đặt định
để biểu lộ điều họ là với tư
ac1ch là những co người, nghĩa là những hữu
thể được mời gọi hiệp thông và trao ban
cho nhau. Sự tṛn đầy của cảm nhận bề
ngoài thấn xác bằng
sự trần truồng tương ứng như vậy
với sự tṛ đầy bên trong của nhă quan con
người trong tư cách là h́nh ảnh Thiên Chúa nhờ
khả năng hiệp thông và trao ban.
Sự không hề
xấu hổ v́ trần truồng chỉ cho thấy sự
cảm nhận rơ rệt trong ư thức của người
am và người nữ về ư nghĩa hôn hân của thân
xác họ vốn được làm ra để chỉ ư
nghĩa sự trao ban cho nhau một cách vô vụ lợi và
trong một sự minh bạch hoàn toàn và qua sự trao ban cho
nhau nầy, trở nên h́nh ảnh của sự trao ban hoàn
toàn của các Ngôi Vị hiện hữu trong Thiên Chúa. Không
có chỗ trong ư thức của các Ngôi Vị cho một
sự hạ giá bất kỳ người khác vào t́nh
trạng đối tượng.
Chính sự
hạ giá người khác nên trạng thái sự vật làm
xuất hiện sự xấu hổ trong ḷng con
người.Nhưng sự vô tội của thời kỳ
nguyên thủy, với ‘tâm hồn thanh sạch” kèm theo nó,
đă khiến cho sự hạ giá ấy không thể có
được. Sự vắng bónh xấu hổ là bằng
chứng cho thấy người nam và người nữ
thời kỳ nguyên thủy hiệp nhất nhờ ư
thức sự trao ban, là bằng chứng cho thấy họ
hoàn toàn ư thức được ư nghĩa quan hệ vợ
chồng của thân xác họ diễn tả sự tư do
trao hiến và biểu lộ tất cả sự phong phú
của cá nhân trong tư cách là chủ thể.
Từ đó
điều thứ tư cần ghi nhố: chúng ta có
một thân xác để trao ban và thực hiện ơn gọi
sâu xa của chúng ta, tức là trở nên h́nh ảnh của Thiên
Chúa trong sự trao ban thân xác,có nghĩa là trao ban tất
cả con người của chúng ta. Trong buổi triều
yết ngày 20.02.1980, Đức Gioan-Phaolô II tóm tắt
tất cả chương trính của Thiên Chúa về thân xác
và t́nh dục con người như là nó đă có thể
được sống “thời nguyên thủy”:
“Hữu
thể nhân loại xuất hiện trên thế giới
hữu h́nh như là sự diễn tả cao cả nhất
của sự trao ban của Thiên Chúa, bởi v́ nó nắm
giữa nơi nó chiều kích nội tại của
việc trao ban. Và với nó,con người đem vào
thế giới sự giống nhau đặc biệt
với Thiên Chúa (…).Điều cũng phản ciếu
sự giống nhau nầy, đó là ư thức ban đầu
của ư nghĩa quan hệ vợ chồng của thân xác, ư
thức thấm nhuần mầu nhiệm sự ngây thơ
vô tội khởi thủy. Và như vậy, trong chiều
kích nầy có một bí tích căn bản được coi
như là dấu hiệu truyề tải một cách
hiệu quả vào thế giới hữu h́nh mầu
nhiệm vô h́nh ẩ dấu nơi Thiên Chúa từ muôn
đời (…). Như là dầu hiệu hữu h́nh, bí tích
tạo thành với hữu thể nhân loại trong tư
cách là thân xác và sự kiện
tính chất nam và tính chất nữ hữu h́nh của con
người, thấn xác quả thật – và chỉ có thân
xác – là có thể làm cho hữu h́nh hững ǵ là vô h́nh: cái linh
thiêng và cái thần tính. Nó được tạo dựng
để chuyển vào thế giới hữu h́nh của
thế giới mầu nhiệm ẩ dấu từ muôn
thuở nơi Thiên Chúa và trở thành dấu chỉ hữu
h́nh của mầu nhiệm ấy”.
Đó là
chương tŕnh của Thiên Chúa thớ kỳ nguyên
thủy mà tội nguyên tổ đă đến phá hủy
mất.
2.6 Tội lỗi gây chia
rẽ và xấu hổ xuất hiện.
“…Họ biết ḿnh trần truồng, họ
kết lá cây vả và làm những cái khố che” (St 3,6 – 7).
Đoạn sách Sáng Thế nầy tiếp theo ngay
tường thuật tội nguyên tổ và xuất hiện
như là hậu quả đầu tiên của tội.
Tại sao
lại có đoạn văn về sự trần truồng
mà “họ không hề thấy xấu hổ” và muốn che
dấu sự trần truồng của họ? Sự
xấu hổ nầy có ư nghĩa ǵ vậy?
Tiên vàn phải
lưu ư rằng những hậu quả của tội
nguyên tổ trước hết không phải là đối
với Thiên Chúa, nhưng là đối với người
nam và người nữ với nhau: họ dấu nhau
những dầu hiệub về phái tính nam và phái tính nữ
của họ. Điều đầu tiên mà tội nguyên
tổ làm băng hoại, đó là thái độ của
người nam và người nữ đối với
nhau. Ư nghĩa trao ban thân xác bị sửa Do đó, cái mà nhờ đó
xưa kia họ là h́nh ảnh của Thiên Chúa qua các dầu
hiệu của thân xác bộc lộ họ như những
con người và là lời mời gọi đế
với sự hiệp thông của những con người,th́ nay dưới mắt họ
trở thành tối tăm, không thể hiểu, thú vật
và đáng xấu hổ. Lại nữa người nam và
người nữ nhận thấy rằng họ dễ
trở thành đối tượng của nhau; đối
tượng ham muốn nhục dục, chiếm
đoạt, thoả măn dục t́nh, chế ngự,v..v..Lúc
ấy các dầu hiệu giới tính nam và giới tính
nữ vốn khi c̣n vô tội là những dấn chỉ
của sự trao ban những cá nhân và mời gọi trao
ban, th́ nay trở thành những phương tiện
để làm lệ thuộc, giam hăm, lợi dụng và
đồ vật hoá nha…Chúng ta rơi vào sự đối
lập hoàn toàn của việc trao ban.
Do vậy,
đứng trước sự đe doạ có thể có
từ đó từ cái nh́n của người khác,
người ta đề pḥng nhau bằng cách ngụy trang
những dấu hiệu củq giới tính nam và giới
tính nữ, bởi v́ các dấu hiệu nầy có nguy cơ
không c̣n được nhận thức bởi người
kia trong ư định thuở nguyên thủy nữa : sự
trao ban của những con người và h́nh ảnh sự
hiệp thông của thiên Chúa qua sự trao ban nầy.
2.7 “Cái nh́n để thèm
muốn”
“ Có lời phán cùng các
ngươi rằng: ngươi chớ ngoại t́nh. C̣n Ta,
ta bảo các ngươi: kẻ nào nh́n một phụ
nữ để thèm muốn người nữ ấy, th́
nó đă phạm tội ngoại t́nh với nàng trong ḷng
rồi” (Mt 5,27 – 28). Từ đoạn nầy trong Bài
Giảng Trên Núi, Đức Gioan-Phaolô II nói:” ư nghĩa
của những lời nầy là chủ yếu cho toàn
bộ thần học thân xác chứa đựng trong giáo
huấn của Chúa Kitô” (Buổi triều yết ngày
22.10.1980). Cũng giống như trong câu trả lời
của người cho những người Pharisêu về
vấn đề ly dị, Đức Gioan-Phaolô II nói
với chúng ta rằng ở đây Chúa Kitô cũng nói
đến “phạm trù tâm hồn” trong đó có một
“dư âm xa xăm” của những cái từ khởi
thủy , hầu vượt qua mọi bước tiếp
cận hợp pháp của các tiêu chí đạo đức.
Rơ ràng là sự thèm muốn mà Chúa Kitô tố giác ở
đây, không muốn nói về sự lôi cuốn của
người nam đối với người nữ và
ngược lại: sự hấp dẫn nầy là
tốt và Thiên Chúa cũng
muốn điều đó. Ở đây, theo lời
Đức Gioan-Phaolô II, đó là một “hành vi nội
tại rất rơ rệt”: cái nh́n “để ước ao”,
nghĩa là cái nh́n đậu trên người khác để
chiếm đoạt làm của riêng. để sử
dụng, để
thoả măn. Nói cách khác cái nh́n “lợi dụng t́nh dục” và
“ cám dỗ” hạ thấp tha nhân xuống t́nh trạng
đối tượng thoả măn và đi đến
việc “đồ vật hoá” cá nhân mà từ việc
đang là chủ thể tự bản chất, trở nên
đối tượng đơn thuần mà người
ta t́m cách chiếm đoạt. Hành vi nội tại nầy
“của cái nh́n để thèm muốn” cũng dẫn
tới sự chối bỏ đức tính con người
nơi tha nhân với tư cách là chủ thể của
việc trao ban và dẫn đến xuyên tạc bóp méo
sự hiệp thông mà con người được
mời gọi qua sự hấp dẫn nhau. V́ vậy,
Đức Gioan-Phaolô c̣n đi tới chỗ nói :”Tội
ngoại t́nh trong tâm hồn nầy, con người cũng
có thể phạm nó đối với chính vợ ḿnh,
nếu người nam đối xử với vợ
chỉ như đồ vật thoả mănh các bản
năng của nó” (Buổi triều yết ngày 08.10.1980).
Khi người nam ư thức được t́nh
trạng nầy, nó có khuynh hướng tố cáo thân xác nó
chứ không nh́n t́nh trạng tâm hồn nó. Đó là nguồn
thuyết nhị nguyên [Manikê: thuyết nhị nguyên thần
học, bi quan khổ hạnh đối với xác thịt,mà
Thánh Augustinô đă chống lại. BTGH] và của sự làm
giảm giá trị của t́nh dục vốn là đặc
trưng của nó. Và phản ứng nầy hoàn toàn đối
lập với cách thức nh́n nhận thân xác đúng đắn
và Kitô-giáo.”Trong khi đối với năo trạng nhị nguyên
(bi quan khổ hạnh), thân xác và t́nh dục có thể nói là
làm thành một “phản giá trị’, th́ đối vơi Kitô-giáo,trái
lại, chúng luôn là ‘một giá trị quá ít được đánh
giá đúng đắn”. Và Đức Gioan-Phaolô kết luận
không chút lập lờ:” Cách thức điên thuyết nhi nguyên
hiểu và đánh giá thân xác và t́nh dục con người chủ
yếu xa lạ với Phúc Âm
và không phù hợp một chút nào với ư nghĩa chính xác của
những lời mà Chúa Kitô đă phán trong Bài Giảng Trên Núi”
(Buổi Triều Yết 22.10.1980).
Ngoại t́nh “trong tâm hồn” mâu thuẫn với ư nghĩa
hôn nhân của thân xác và Chúa Kitô kêu gọi mọi người
t́m lại nó,không phải v́ sự tôn trọng bề ngoài những
tiêu chí tuân thủ luật pháp, nhưng là v́ sự thanh luyện
tâm hồn ḿnh, nghĩa là với
thái độ khiết tịnh. “Trong Bài Giảng Trên Núi,Chúa
Kitô mời gọi con ngườimkhông phải là quay về
với t́nh trạng vô tội nguyên thủy – nhân loại đă
bỏ nó lại sau lưng một cách không thể thay đổi
nữa – mà là t́m lại trên nền tảng các ư nghĩa vĩnh
hằng và có thể nói là không thể hủy diệt được,
của cái “nhân bản”, những h́nh thức sống động
của con người mới. Bằng cách nầy một mối
dây liên hệ được nối (hoặc hơn thế
nữa, một tính liên tục được thiết lập)
giữa “nguyên thủy” và viễn cảnh của sự cứu
chuộc” (Buổi triều yết 03.12.1980).
Hôn nhân
dưới ánh sáng của Ơn Cứu Chuộc.
Vậy là chúng ta đi đến
Ơn Cứu Chuộc.
Dấu hiệu đầu tiên Chúa Giêsu ban từ đầu
cuộc đời công khai của Nười - chỉ có Thánh
Goan tường thuật lại – đó là trong một bửa
tiệc cưới. Đó là ở Cana, vùng Galilêa. Khi Đức
Trinh Nữ nhắc Chúa Giêsu lưu ư, Người trả lời:”
Ngài muốn ǵ ở con,thưa Bà? Giờ của con chưa đến”
(Ga 2,40. Người muốn nói về giờ ǵ vậy?
Dấu hiệu cuối cùng Chúa Giêsu ban,cũng là trong một bửa
ăn, trong đó Người lập Phép Thánh Thể và bửa
ăn nầy cũng là một bửa tiệc cưới.
Tại đó Người nói - khởi đầu lời
nguyện linh mục vĩ đại - :” Lạy Cha, giờ
đă đến. Xin hăy tôn vinh Con Cha” (Ga 17,1). Giờ của
Chúa Kitô, đó là
giờ hôn ước giữa Người và Giáo Hội của
Người, được ưng thuận do qùa cưới
mà Người trao từ chính Ḿnh và Máu Người. Đức
Gioan-Phaolô II khi chú giải quà tặng nầy của Chúa Kitô,
khẳng định rằng :” hôn nhân chỉ tương ứng
với ơn gọi của các Kitô-hữu nếu nó phản
chiếu t́nh yêu mà Chúa Kitô - Vị Hôn Phu ban cho Giáo Hội Hiền
Thê của người và Giaó Hội cố gắng để
trao ban lại cho Chúa Kitô” (Buổi triều yết ngày
18.08.1982)
Và tất cả ư nghĩa đoạn của chương
năm thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô (Eph 5) mà Đức
Gioan-Phaolô II noí cho chúng ta biết là nó phải được
hiểu “dưới ánh sáng của những ǵ Chúa Kitô nói với
chúng ta về thân xác con người” (Buổi triều yết
28.07.1982)
Có một mối liên hệ nền tảng giữa hôn
lễ Kitô-giáo và công tŕnh Cứu Chuộc,trong đó Chúa Kitô
tự hiến cho Giáo Hội như một vị hôn phu tự
hiến cho hôn thê của ḿnh. Và cũng như đó6i với
ac1c đôi vợ chồng Kitô-hữu, việc cử hành sự
trao ban chính họ trong bí tích hôn phối chỉ kết thúc
trên giường cưới trong sự trao ban thân xác thành sự,
cũng như việc cử hành lễ cưới giữa
Chúa Kitô và Giáo Hội chỉ kết thúc trên tấm gỗ cưới
là Thánh Giá.
Đạt đến thời khắc đỉnh điểm
sự dâng hiến cứu chuộc của Người,trên
tấm gỗ khổ nạn, Chúa Giêsu lúc ấy mới có thể
nói “mọi sự đă hoàn tất”, bởi v́ hôn lễ giữa
Người và Giáo Hội lúc ấy mới nên trọn vẹn.
Và ngay lúc ấy, Giáo Hội - Hiền Thê không ngừng lập
lại với Chúa Kitô-Hôn Phu lời mà mọi hiền Thê nói
với Hô Phu của ḿnh khi trao ban thân xác vốn trở thành
– theo cách diễn đạt của Đức Gioan-Phaolô II
– ‘chính ngôn ngữ của phụng vụ”: Hăy đến! Lời
không ngừng nầy, Giáo Hội tuyên bố trong mỗi Thánh
Lễ cho thấy mang nhiều ư nghĩa hôn ước nhất
trong các Bí Tích. Và sứ mệnh tiên tri của các Hôn phu là làm
cho nó hóa thành nhục thể cho đến ngày cuối cùng.
(BTGH chuyển ngữ. HẾT)
T̀M HIỂU KINH
THÁNH . T̀M HIỂU KINH THÁNH
. T̀M HIỂU KINH THÁNH |
ĐỀ TÀI 20
CÁC CHẶNG TRONG
TIẾN TR̀NH
GIÁO HUẤN
THẦN HỌC CỦA THÁNH PHAOLÔ
--------------------------
Như chúng ta đă thấy cho tới nay,
thần học tŕnh bầy trong các thư của thánh Phaolo
không phải là nền thần học hệ thống, mà là
thần học thực dụng. V́ là các câu trả lời
cho các vấn nạn tín hữu gặp phải trong cuộc
sống ḷng tin của họ, nên giáo huấn thần
học của thánh Phaolô cũng theo tiến tŕnh hoạt
động truyền giáo và mục vụ của thánh nhân.
Thư thứ
nhất gửi tín hữu Thêxalônica là bức thư
đầu tiên và có lẽ là tài liệu cổ xưa
nhất của Kinh Thánh Tân Ước. Thánh Phaolô đă
viết bức thư này giữa năm 50-51 với mục
đích củng cố ḷng tin của các tín hữu và bổ
túc các giáo huấn mà ngài chưa kịp giảng giải cho
họ. Đề tài nổi bật là các biến cố
của thời cánh chung, sự sống lại của Chúa
Kitô và của các tín hữu. Phaolô đă tới Thêxalônica rao
giảng Tin Mừng và thành lập cộng đoàn kitô.
Nhưng chưa được bao lâu th́ cộng đoàn do
thái tại đây phát động phong trào chống
đối bách hại, bằng cách gây rối loạn trong
thành phố, rồi đổ tội cho các thừa sai kitô
là chống lại các chỉ thị của hoàng đế
Roma. Chưa hết, họ c̣n lôi một số kitô hữu
ra trước mặt các quan ṭa. Trước làn sóng bách
hại này, tín hữu Thêxalônica đă buộc ḷng phải
đưa Phaolô và các cộng sự viên sang Berea. Nhưng
nhóm do thái Thêxalônica cũng theo sang tận Berea để
phản đối công tác truyền giáo của thánh Phaolô.
Phải xa rời tín hữu của một cộng đoàn
mới được thành lập như thế, thánh Phaolô
âu lo cho số phận của họ. Do đó ngài viết
thư củng cố và khuyến khích họ kiên tŕ trong gian
nan thử thách. Thánh nhân khuyên họ noi gương Chúa Giêsu
Kitô Người tôi tớ khổ đau của Giavê Thiên
Chúa. Riêng đối với người do thái Thêxalônica,
Phaolô đă đưa ra những lời kết tội
rất nặng.Ngài gọi họ là những kẻ đă
giết Chúa Giêsu và các ngôn sứ,là thù địch của
mọi người và là dụng cụ của Satan (1 Tx
2,14)
Năm
năm sau đó, trong cộng đoàn Côrintô nảy sinh
một vấn đề điển h́nh của công tác
truyền giáo thuộc mọi thời đại. Đó là
vấn đề hội nhập Tin Mừng vào nền
văn hóa địa phương. Các thừa sai và cộng
đoàn Kitô phải đối diện với sự cách
biệt hay khác biệt văn hóa của môi trường,
trong đó Tin Mừng được rao giảng. Cho tới
lúc ấy Tin Mừng đă chỉ được loan báo
trong môi trường do thái Palestine. Giờ đây, Tin
Mừng được rao giảng trong thế giới hy
lạp. Sự chuyển tiếp này làm phát sinh ra t́nh
trạng khủng hoảng, mà chúng ta có thể gọi là
cuộc khủng hoảng trưởng thành. Nhưng nó
cũng có thể dẫn tới nguy cơ biến thái,
nghĩa là khiến cho Tin Mừng bị lệch lạc
đi và không c̣n tinh tuyền nữa. Và đây đă là
trường hợp xảy ra tại Côrintô. Với các
cơ chế và kiểu cách sống của các môi
trường ngoại giáo không do thái, thế giới hy
lạp Côrintô t́m tiêu hóa Tin Mừng theo kiểu tiêu hóa sinh
vật lư, nghĩa là chọn lựa, thu hút từ Tin
Mừng kitô những ǵ thích hợp với ḿnh, và loại
bỏ tất cả các yếu tố khác. Đây là khuynh
hướng thường xảy ra trong các trào lưu kitô
ngộ đạo thuộc thế kỷ thứ II và trong
ḍng lịch sử Giáo Hội tại những nơi nào công
tác rao truyền Tin Mừng đă được thi hành
một cách hấp tấp vội vă. Hậu qủa là tín
hữu duy tŕ các tín ngưỡng cổ xưa họ đă
có, và trộn lẫn chúng với một số yếu
tố của Kitô giáo. Hiện tượng trộn lẫn
tôn giáo này chúng ta có thể t́m thấy tại nhiều
nước trên thế giới như tại Brazil bên châu
Mỹ Latinh, tại Haiti, và một số nước khác
bên Phi châu. Điển h́nh là thứ tôn giáo trộn lẫn
Kitô giáo với tôn giáo Phi châu cổ truyền gọi là
”Vudu”.
Trước các
lệch lạc này của cộng đoàn kitô hy lạp
Côrintô, thánh Phaolô đă tỏ ra rất cứng rắn và
mạnh mẽ lên án mọi tâm thức và thái độ
sống không phù hợp với tinh thần Tin Mừng
của Chúa Giêsu Kitô. Phaolô nhắc cho tín hữu Côrintô
biết rằng khi tin nhận Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của
Ngài, họ đă dứt khoát bẻ gẫy với qúa
khứ và việc tôn thờ các thần linh khác. Do đó
họ phải trung thành với ḷng tin và các giáo huấn
của Chúa Giêsu mà Phaolô đă rao truyền cho họ.
Dưới ánh sáng của nguyên tắc này thánh nhân đă
duyệt xét một số thái độ sống lệch
lạc của tín hữu Côrintô. Chẳng hạn như thái
độ chia rẽ phân biệt giai cấp giầu nghèo,
tâm thức sống theo cái khôn ngoan của con người trần
gian, thái độ khinh miệt thân xác và hôn nhân hay
ngược lại kiểu sống tính dục buông
thả, vấn đề ăn thịt dâng cúng cho các
thần linh hay tham dự các lễ nghi tiệc tùng trong khung
cảnh tôn thờ các thần linh ngoại giáo, các lộn
xộn, lạm dụng và lệch lạc xảy ra trong các
buổi cử hành bí tích Thánh Thể như thói quen dùng
dịp này để chia bè chia nhóm giàu nghèo và ăn uống
say sưa. Sau cùng là vấn đề người chết
sống lại. Do thái giáo và Kitô giáo quan niệm con
người như một bản vị duy nhất. Do
đó, sự sống lại liên quan tới cả xác
cả hồn. Nhưng đó là quan niệm khó chấp
nhận đối với môi trường hy lạp, mang
nặng ảnh hưởng của các triết lư nhị
nguyên.
Phaolô
khẳng định với các tín hữu rằng mọi
người sẽ sống lại, cả hồn lẫn
xác. Nhưng trong cuộc sống hiện tại trên
trần gian này tín hữu phải mang dấu vết của
yếu đuối và sự ḍn mỏng tạm bợ
của kiếp người. Tính chất mới mẻ
của Thần Linh như là nguyên lư cuộc sống của
thế giới, tiềm ẩn trong các mâu thuẫn của
lịch sử. Và cộng đoàn Giáo Hội
được dựng xây trên nền tảng vững
chắc của sự hiệp thông của mọi tín
hữu, là khung cảnh và môi trường đặc
biệt được Thần Linh Chúa ưa thích dùng
để diễn tả sự mới mẻ ấy. V́
thế, để đừng đánh mất ơn cứu
độ, tín hữu phải cố gắng noi gương
sống vâng lời của Chúa Giêsu Kitô trong mọi khó
khăn của cuộc sống thường ngày, chứ
không được có thái độ tươi vui, vô lo
trốn chạy sự thật của những
người không dám nghĩ tới số phận mai sau
của ḿnh.
Chẳng bao
lâu sau khi viết lá thứ thứ nhất cho tín hữu
Côrintô, thánh Phaolô phải đương đầu với
các thách đố mới. Trước hết là lời
nguyền rủa của một tín hữu xúc phạm
tới thánh nhân và toàn cộng đoàn. Tiếp đến là
sự cạnh tranh và các vu khống tấn công của nhóm
thừa sai kitô gốc do thái cũng như của các
thừa sai ngoại giáo khác. Những nhóm này đề cao
các khả năng và đặc sủng cá nhân cũng như
các buổi phụng tự chữa bệnh và xuất
thần. Họ lấy sứ điệp cá nhân lấp liếm
sứ điệp Tin Mừng của Chúa và đề cao
một thứ đặc sủng lệch lạc nhằm
thay thế tinh thần tông đồ phục vụ khiêm
tốn, mà mọi thừa sai chân chính đều phải có
đối với cộng đoàn dân Chúa. Cuộc chiến
chống lại ảnh hưởng tiêu cực của các
nhóm này trên cộng đoàn Côrintô đă vô cùng cam go
đối với thánh Phaolô. Thánh nhân viết cho tín hữu
nhiều lần để khuyến khích họ trung thành
với h́nh ảnh vị tông đồ trung thực, mà
họ đă thấy nơi con người và qua cung cách
sống của ngài. Trên b́nh diện nhân loại mà nói, dù ngài
có là người yếu đuối và tật bệnh,
bất toàn thế nào đi nữa, Thiên Chúa nhân từ
cũng đă dùng thánh nhân như dụng cụ quyền
năng cứu độ của Ngài. Nói cách khác,
trường hợp của Phaolô cũng giống như
trường hợp của Đức Giêsu Kitô. Trên b́nh
diện nhân loại mà nói, Đức Giêsu Kitô bị đóng
đanh trên thập gía là dấu chỉ của sự
yếu đuối, bất lực và thất bại.
Nhưng Thiên Chúa đă lại dùng chính cuộc khổ
nạn, cái chết và thập gía hổ nhục của Chúa
Kitô, nghĩa là sự yếu đuối, bất lực và
thất bại đó để tỏ lộ quyền
năng cứu độ và t́nh yêu thương vô bờ
của Ngài đối với nhân loại tội lỗi.
Bởi v́ Thiên Chúa là ”Đấng trao ban sự sống cho
người đă chết và khiến cho những ǵ không có
được hiện hữu” (Rm 4,17; Cf. 2 Cr 13,4). Trong nhăn
quan đó, thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô tŕnh bày
với chúng ta một nền thần học phục vụ
sống động cụ thể phát xuất từ
quyết tâm của thánh Phaolô đối chiếu các
hoạt động tông đồ mục vụ và cung cách
hành xử của ngài với các hoạt động phá
hoại của nhóm thừa sai giả hiệu, khua môi múa
mỏ, lợi dụng thái độ thơ ngây dễ tin
của tín hữu để trục lợi và củng
cố địa vị cá nhân. Họ là dụng cụ Satan
dùng để đánh phá cộng đoàn tín hữu.
Bầu khí
trong đó thánh Phaolô viết thư cho tín hữu cộng
đoàn Galát vào giữa năm 56-57, lại c̣n sôi bỏng và
căng thẳng hơn. Phaolô thẳng mặt đốp
chát với nhóm thừa sai kitô gốc do thái và lột
mặt nạ của họ. Nhóm thừa sai này chủ
trương bắt buộc mọi tín hữu không phải
gốc do thái tuân giữ luật lệ Môshê, chấp
nhận lễ cắt b́ và mọi lễ nghi phụng
tự do thái khác. Thánh nhân mắng tín hữu Galát là ”ngu
đần dại dột”, v́ đă nghe theo lời giảng
dạy của nhóm thừa sai chủ trương tái
lập Do thái giáo trong cộng đoàn kitô. Thế là từ
chỗ được Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, mà
thánh nhân rao giảng cho họ, giải phóng, giờ đây
họ lại chấp nhận quay trở về kiếp
sống nô lệ luật lệ do thái, như khi chưa
biết và tin nhận Chúa Giêsu.Cuộc tranh luận này cho
thánh Phaolô có dịp khai triển đề tài thần
học liên quan tới công chính hóa dựa trên ḷng tin vào Chúa
Kitô,để kéo tín hữu cộng đoàn ra khỏi t́nh
trạng chối bỏ Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài (Gl
1,6).
Một
phần nào đó thư gửi tín hữu Philiphê (c.3)
cũng nhằm mục đích cảnh cáo tín hữu
trước các mưu chước thâm độc của
nhóm tông đồ kitô do thái nói trên, nhằm biến họ
trở thành nô lệ của luật Môsê. Họ không chỉ
đối nghịch với Phaolô, mà là dụng cụ
của Satan trong cuộc chiến đánh phá Giáo Hội Chúa.Thánh
Phaolô cho tín hữu thấy nỗi âu lo đối với
ơn cứu rỗi của họ, thường xuyên ám
ảnh ngài ngay trong lúc bị tù tội nữa (Gl 1,1-3).
Vào cuối
sứ mệnh truyền giáo tại vùng Cận Đông, khi
sửa soạn lên đường về Giêrusalem
để chuyển tới giáo đoàn mẹ sự trợ
giúp của tín hữu các giáo đoàn khác, Phaolô viết
thư cho tín hữu Roma với một chủ ư đại
kết rơ rệt. Phaolô muốn cho tín hữu thấy
rằng Tin Mừng yêu thương đại đồng của
Chúa Kitô nối kết tín hữu thuộc mọi quốc
gia và nền văn hóa với nhau và đạp đổ
mọi bức tường ngăn cách. Giáo Hội Chúa, dân
riêng mới của Thiên Chúa, quy tụ người thuộc
mọi dân nước chấp nhận sống ḷng Tin, ḷng
Cậy và ḷng Mến theo tinh thần Tin Mừng cứu
độ đại đồng của Chúa Kitô trong môi
trường cụ thể thường ngày.
Linh-mục Linh-Tiến-Khải
TÀI LIỆU HỖ TRỢ CÔNG TÁC MỤC VỤ
NHỮNG QUY
TẮC QUẢN LƯ
QUẢN LƯ NHÓM
Tất cả chúng ta đều phải làm
việc với người khác. H́nh thức hợp tác này
có thể gọi một cách nôm na là làm việc theo nhóm,
pḥng, ban, tổ, đội, hoặc thậm chí là một
đội vũ trang nhóm.
Việc gọi tên
thế nào không quan trọng. Sai lầm mà nhiều nhà
quản lư thường mắc phải họ cho rằng
nhân viên là những người để cho họ sai
khiến. Họ cho rằng nhân viên là công cụ, đồ
nghề của họ. Họ cho rằng cứ sử
dụng nhân viên một cách thành thạo th́ họ sẽ
trở thành nhà quản lư thành công.
Nhưng thật không may
quan niệm trên là điều sai lầm. Chúng ta cần
biết rằng vai tṛ thực sự của người
quản lư là quản lư tiến tŕnh chứ không phải là
quản lư con người. Mọi người có thể
tự quản lư bản thân nếu bạn tạo cơ
hội cho họ. Những ǵ bạn cần tập trung vào
là vai tṛ thực sự của người quản lư đó
chính là quản lư chiến lược. Nhóm của bạn
chỉ là phương tiện để thực hiện
chiến lược bạn đề ra. Nếu như
tất cả nhân viên của bạn có thể thay thế
được bằng máy móc và có mấy người trong
chúng ta lại không mong muốn điều này xảy ra th́
chúng ta vẫn phải có chiến lược, vẫn
phải quản lư tiến tŕnh.
Công nhân có thể bị
thay thế bằng máy móc tự động nhưng công
việc quản lư thực sự th́ không thể thay thế
được. Người quản lư giỏi là người
quản lư những thay đổi, phương pháp,
chiến lược, tiến tŕnh và quản lư sự cân
bằng. Trong tất cả những điều trên, chúng ta
có thể rất cần tới “nhân sự” song cũng có
thể chúng ta sẽ không cần đến họ. Tất
nhiên là chúng ta không thể không chú ư tới nhân viên nhưng
chúng ta nên trao cho họ quyền tự quản trong phạm
vi có thể.
Tất nhiên với
tư cách là những nhà quản lư, chúng ta phải làm
việc với những con người bằng
xương bằng thịt và chúng ta phải biết
điều ǵ thúc đẩy họ. Chúng ta cũng cần
biết họ mong đợi và suy nghĩ ǵ, tại sao
họ làm cho bạn, tại sao họ làm việc một
cách tốt nhất (hoặc kém hiệu quả nhất),
họ e ngại điều ǵ, họ hy vọng và mong
ước điều ǵ.
Chúng ta phải
động viên họ, dạy và cung cấp cho họ
phương tiện để làm việc và tự quản
lư chính họ; đồng thời chúng ta phải quản lư
tiến tŕnh công việc và đưa ra chiến
lược cho họ. Chúng ta phải chú ư tới họ,
quan tâm, luôn ở bên cạnh và hỗ trợ họ. Tuy nhiên
chúng ta không quản lư họ. Chúng ta để cho họ
tự quản và chúng ta chỉ tập trung vào vai tṛ
thực sự của chúng ta với tư cách một nhà
quản lư.
QUY TẮC 4
TỔ CHỨC
NHỮNG BUỔI HỌP HIỆU QUẢ,
NHẤT ĐỊNH
PHẢI THẬT SỰ HIỆU QUẢ
“Những ư
tưởng từ các cuộc họp vội vàng
thường là những ư tưởng hời hợt, nông
cạn và không sáng tạo. Các ư tưởng này không mấy
khi hữu ích. Thế nhưng, các cuộc họp như
vậy dường như lại làm cho những kẻ
không có tính sáng tạo lầm tưởng rằng họ
đă có được những cải cách vượt bậc
và rằng những người khác đang lắng nghe
họ”.
Harvey Block, Tổng giám đốc, Tập
đoàn Bokenon
Tất cả chúng ta đă từng tham dự
những buổi họp kiểu như: buổi họp kéo
dài, bài phát biểu hời hợt, chương tŕnh nghị
sự th́ được viết vào sau phong b́ hoặc không
được chuẩn bị trước nói. Nội dung
cuộc họp sơ sài, lạc đề, thiếu thông
tin và không có thông báo đầy đủ.
Là người quản
lư bạn phải tổ chức được những
buổi họp thật hiệu quả. Bạn hăy xác
định trước mục đích của buổi
họp là ǵ và đảm bảo chắc chắn ḿnh sẽ
đạt được mục đích đó.
Về cơ bản th́
các buổi họp có 4 mục đích:
* Thành lập và
kết hợp nhóm làm việc
* Phổ biến
thông tin
* Đóng góp sáng kiến
(và đưa ra quyết định)
* Thu thập thông tin
(và đưa ra quyết định)
Một số cuộc
họp có thể có một hay nhiều hơn những
mục đích trên nhưng bạn vẫn phải ư thức
được các mục đích và thêm nó vào danh sách mục
đích của bạn. Nếu cuộc họp của
bạn là để phổ biến thông tin th́ hăy phổ
biến thông tin. Nếu nó là để bàn luận về
thông tin mà bạn muốn th́ đây lại là một
kiểu họp khác và kiểu họp này phải có những
mục tiêu khác nhau. Bạn cần lưu ư rằng một
số cuộc họp là để thành viên trong nhóm bạn
gặp gỡ nhau, giao lưu, t́m hiểu nhau và để
gặp gỡ bạn trong vai tṛ là một người lănh
đạo thực sự.
Nếu bạn muốn
các cuộc họp của bạn có hiệu quả th́
bạn phải giữ vai tṛ kiểm soát một cách
triệt để. Bạn không thể để xảy ra
t́nh trạng dân chủ một cách thái quá. Nói tóm lại,
bạn là nhà quản lư, bạn là người chịu trách
nhiệm. Để cuộc họp có hiệu quả th́
bạn không được cho phép ai ngồi im, không nói ǵ
hoặc là nói dông dài, nói huyên thuyên không dứt. Những
người như vậy th́ bạn phải nhanh chóng
“tống” ra khỏi cuộc họp càng nhanh càng tốt.
Bạn không nên “lạc
sang vấn đề khác” trong quá tŕnh họp. Nếu đó
là vấn đề quan trọng th́ bạn hăy đưa nó
vào chương tŕnh nghị sự. Nếu không quan
trọng th́ không nên đề cập.
Xác định trước mục tiêu
của cuộc họp và đảm bảo chắc
chắn rằng bạn sẽ đạt được
mục tiêu đó
Tổ chức các
cuộc họp vào cuối ngày làm việc th́ tốt hơn
là vào đầu ngày. Vào cuối giờ làm việc của
một ngày, mọi người đều vội vàng muốn
về nhà do đó cuộc họp sẽ diễn ra ngắn
gọn; vào đầu giờ làm việc, mọi
người thường nói miên man không vào chủ
đề chính và thường tán gẫu với nhau.
Tất nhiên, trừ khi là buổi gặp mặt để
duy tŕ quan hệ thân mật trong công ty th́ bạn nên tổ
chức vào thời gian đầu ngày làm việc.
Bạn nên cân nhắc xem
những cuộc gặp nào có thể thực hiện thông
qua thư điện tử, điện thoại, hoặc
gặp riêng từng người (hạn chế phải
gặp những người không thực sự cần
thiết).
Mọi cuộc họp
phải được bắt đầu đúng giờ.
Không bao giờ chờ đợi bất kỳ ai. Không bao
giờ nói lại những phần đă nói cho người
đến muộn. Nếu như họ không
được nghe những phần quan trọng, sau
cuộc họp họ có thể hỏi lại những
người khác. Làm như vậy th́ họ sẽ học
được bài học đáng nhớ và lần sau
họ mới đến đúng giờ. Lời khuyên
hữu ích dành cho bạn đó là đừng bao giờ quy
định cuộc họp bắt đầu chính xác vào
giờ chẵn. Bạn nên quy định theo kiểu 3h10
th́ tốt hơn là vào đúng 3h. Bạn sẽ thấy
mọi người đến đúng giờ hơn
nếu bạn quy định vào giờ lẻ. Bạn có
thể thử quy định thời gian họp vào lúc 3h35
nếu như bạn muốn tạo phong cách thật
độc đáo.
Bạn hăy thông báo
sớm thời gian diễn ra cuộc họp nhưng
đừng quá sớm để không một ai có thể
lấy cớ là sẽ bận vào hôm đó. Bạn cần
xác định lại ngày giờ cuộc họp
trước tất cả mọi người để
chắc chắn rằng họ sẽ nhớ và đến
tham dự đông đủ.
Tiến hành cuộc họp đúng giờ
không bao giờ đợi bất cứ ai
Bạn chỉ
định người ghi biên bản cuộc họp và
phải chắc chắn rằng họ làm tốt và làm
đúng ư bạn. Bạn không phải ra vẻ hống hách
hay hùng hổ về vấn đề ghi biên bản.
Bạn hăy cư xử một cách nhất quán, thân thiện
và dứt khoát.
Bạn phải chắc
chắn rằng tất cả các mục trong chương
tŕnh nghị sự phải kết thúc bằng một
kế hoạch hành động. Không có kế hoạch hành
động th́ buổi họp chỉ là buổi tán gẫu
đơn thuần. Nếu không có kế hoạch hành
động th́ buổi họp phải đưa ra
được quyết định về đường
lối hành động.
Nếu cuộc họp
có quá đông người, từ sáu người trở lên,
bạn hăy chia nhỏ họ thành từng nhóm và yêu cầu
các nhóm báo cáo lại cho bạn.
Bạn hăy ghi nhớ
điều quan trọng này là cuộc họp nào cũng
phải có một mục đích cụ thể. Cuối
buổi họp, bạn phải xem xem ḿnh có đạt được
mục đích hay không. Và c̣n một điểm nữa,
bạn hăy tổ chức các buổi họp trong pḥng.
Ghế ngồi họp không nên dùng loại sang trọng,
thoải mái quá và đừng chọn địa
điểm họp sang trọng quá, như vậy sẽ
giúp cho cuộc họp diễn ra nhanh hơn.
TRONG
SỐ 43 : HĂY CA NGỢI
|
◙ PHỤ LỤC :
GỢI Ư SUY
NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT XV TN.C
Luc 10,25-37
AI LÀ NGƯỜI THÂN CẬN
CỦA TÔI?
Trên nguyên tắc,”thân cận” là nói về
không gian: thận cận là người ở gần bên. Ta
hăy gút lại nữa: thận cận là kẻ không ở
ac1ch xa và cũng là người mà chúng ta không để ra
xa. Ta thấy ngay, không phải chỉ laà không gian, mà c̣n là
thái độ tâm lư. Liên hệ họ hàng thân thích thoi
chưa đủ: trong một gia đ́nh, một số
người có thể rất gần gũi; một số
khác lại rất xa cách, về mặt t́nh cảm hoặc
về mặt địa dư. Khi vị tiến sĩ
luật hỏi Chúa Giêsu “Vậy ai là người thân
cận của tôi?”, ông ta nói như thể người thâ
cận đă được cho từ trước, như
thử có thể nhận diện người ấy từ
một số nguyên tắc, ví dụ như nguồn
gốc,quốc tịch,tôn giáo,chủng tộc,tŕnh
độ văn hóa. Dụ ngôn Người Samaritanô
buộc chúng ta phải lật lại viễn cảnh. “Một
người đi từ Giêrusalem xuống Giêricho…”. Một
người, bất kể là ai. Có phải người đó
là dân Giuđa không? Bản văn không nói ǵ hết, nhưng
nếu chúng ta giả dụ như thế căn cứ theo
địa lư (đi từ Giêrusalem xuống Jericho), thầy
tư té và lê-vi đi qua đường,là đồng hương
của anh ta, những “người thân cận”. Hăy lưu ư
rằng hai nhân vật nầy là các nhà chuyên môn về Luật
và câu hỏi được đặt ra từ đầu
tŕnh thuật chính là liên quan đến Luật. Một Luật
mở ra cho hơn những ǵ là nó bởi v́ nó không nói cho biết
ai là người thân cận mà ta phải yêu mến như
chính ḿnh.
Kẻ tiến lại gần.
Người
thân cận như vậy là không phải đưộc
ấn định trước. Ai là người thân
cận của kẻ bị đả thương? Là kẻ
tiến lại gần nó. Trước kia không ai trong cả
hai là người thân cận của người kia. Từ
nay, người bị thương có thể yêu mến Người
Samaritanô như chính ḿnh, bởi v́ người Samaritanô nầy
đă làm cho ḿnh gần gũi với anh ta. Ta thấy đó:
người thân cận là một bổn phận phải hoàn
tất, là hoa trái của một sự dịch chuyển.
Hai đối at1c đều bị sự dịch chuyển
nầy biến đổi. Dụ ngôn nầy tạo ra một
việc dấn thân đáng kể. Quả thật, với
việc đưa ra nhân vật là một tiến sĩ Luật,
với việc xác định điều kiện phải
chu toàn để có được cuộc sống vĩnh
cửu, với việc đặt lên phía trước hai Điều
Răn nên một và tóm tắt Mười Điều Răn
mà không thuộc vào đó (điều thứ nhất được
rút ra từ Sách Đệ Nhị Luật 6,5; trong khi điều
thứ hai được rút ra từ Sách Levi 19,18), bản
tŕnh thuật đặt ra vào ngay giữa Đạo Do Thái,
trong tôn giáo Vương quốc miền Nam (chi tộc Giuđa).
Một vũ trụ gần như hoàn toàn xa lạ với
Samaria, vương quốc Miền Bắc. Bằng việc
chọn một người Samaritanô như một tấm gương
cho những ai hoàn thành những ǵ phải làm để “được
sống đời đời” (c. 25), Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu
rằng việc đến được với Thiên Chúa
không phải là chuyện một nhăn hiệu tôn giáo, chũng
chẳng phải là thuộc về
một nhóm được xác định rơ, kể cả
nhóm nầy mang trong ḿnh một chân lư không thể chối cải
được. T́nh yêu, vố là sự hiện diện của
Thiên Chúa, có thể nẩy sinh bất cứ nơi đây, nơi
bất cứ người nào, với điều kiện
người đó không gây ra những vật cản. Hăy ngợi
ca sự liều lĩnh của Chúa Giêsu v́ Người dám bắt
một tiến sĩ Luật phải bắt chước một
người Samaritanô.
Vượt bên kia dụ ngôn
Tất nhiên chúng ta có thể dừng lại
thêm ở sự ân cần của người Samaritanô, về
việc nhận lo cho người bị thương, về
sự gửi gắm ghi lại với chủ quán trọ,v..v…
Một chi tiết có thể làm chúng ta suy nghĩ: người
Samaritanô sẽ trở lại. Ai là người đă nhận
tar1ch nhiệm về chúng ta và sẽ trở lại để
hiàn tất công tŕnh của Người, nếu chẳng phải
là chính Chúa Kitô? Đă hẳn, loại suy tư nầy vượt
quá bài học trực tiếp của dụ ngôn. mặc kệ,
chúng ta cứ tiến tới! Người bị bọn cướp
đả thương nầy và nằm vất vưởng
trong hố, chính là chúng ta. Bị hư hoại, chẳng chút
sức lực, không c̣n khả năng chỗi dậy nữa.
Nầy đây Chúa Kitô một cách nào đó, nên người
ngoại quốc tuyệt vời đối với chúng ta.
Người đến nhận lấy vào ḿnh sự khốn
cùng của chúng ta, như là chính Người bị cùng quẫn
và chữa lành ta. Người sẽ c̣n đi xa hơn Người
Samaritanô, bởi v́ Người nhận sự dữ của
ta trong chính thân xác Người. Hăy đổi ngược các
vai: nầy là Chúa Kitô bị trấn lột, bị cầm tù,
bị đói khát, mang đầy tương tích, bị vứt
nằm trong hố sâu. Một cách riêng lẽ, ở ngoài con đường
mà người ta qua lại mà chẳng để ư đến
sự hiện diện của Người, không thấy Người.
Liệu chúng ta sẽ làm cho ḿnh thành người thân cận
của Người không? Người ta nhớ lại Phúc Âm
theo Thánh Matthêu (mt 25, 34 -45): “ Ta đă đói và các con đă
cho ta ăn; Ta đă khát và các con đă cho ta uống; Ta không
có chỗ ở, vá các con đă đón tiếp Ta…”. V́ ;uật
bác ai (trong bài đọc 1)rất gần gũi và chẳng
cần t́m kiếm đâu xa bởi v́ nó ở ngay trong tâm hồn
chúng ta, Chúa Kitô không ở xa chúng ta: Người ở đó,
dưới mắt chúng ta, trong những cái hố sâu mà chúng
ta đào ra và trên những thập tự giá mà chúng ta dựng
lên.
Marcel
Doumergue
(BTGH
chuyển ngữ và giới thiệu)
|
◙
PHỤ TRANG:
VIỆT-NAM 7 NGÀY QUA
+ (Thanhnien 06.07) Theo
nguồn tin một tờ báo đă đưa ngày hôm qua, 5.7,
một số hành khách nước ngoài trên chuyến bay
của Vietnam Airlines (VNA) mang số hiệu VN535, hành tŕnh Hà
Nội - Paris hôm 17.6 đă rất bất b́nh khi 2 doanh
nghiệp trẻ người Việt Nam xem phim sex suốt
nhiều giờ trong chuyến bay từ máy tính cá nhân
của họ, bất chấp sự cực lực
phản đối của một nữ hành khách
người Pháp có chỗ ngồi liền kề, cùng hàng
ghế với họ.
+ (Thanhnien 06.07) Trung tâm
Dự báo khí tượng thủy văn T.Ư cho biết,
sáng 5.7, áp thấp nhiệt đới h́nh thành trên biển
Đông đă mạnh lên thành băo - cơn băo số 1.Hồi
19 giờ ngày 5.7, vị trí tâm băo số 1 ở vào khoảng
21,7 độ vĩ bắc; 107,4 độ kinh đông, trên
địa phận phía đông bắc tỉnh Quảng Ninh.
Ở phía đông Bắc Bộ có mưa vừa, mưa to,
riêng khu đông bắc và vùng núi phía bắc có nơi mưa
rất to. Cần đề pḥng lũ quét, sạt lở
đất và tố lốc. Vùng ven biển các tỉnh
Quảng Ninh - Hải Pḥng đề pḥng nước dâng sau
băo kết hợp với thủy triều 3 - 5 mét
+ (TTXVN 06.07) Khai mạc Hội nghị lần
thứ năm BCH Trung ương Đảng: Giới
thiệu nhân sự lănh đạo các cơ quan Nhà
nước
+ (Thanhnien 06.07) Ngày 5.7,
tại buổi họp báo nhân kỷ niệm ngày Dân số
thế giới (11.7), Ủy ban Dân số, Gia đ́nh và
Trẻ em cho biết: mức giảm sinh dự kiến
đă đề ra cho năm nay sẽ không đạt
được.Trong 5 tháng đầu năm có tới 42
tỉnh thành có số trẻ mới sinh tăng so với
cùng kỳ 2006. Tổng số mới sinh là 440.000 bé,
tăng 5%. Xu hướng tăng này đă bắt
đầu từ những tháng đầu năm 2007. Nguyên
nhân chủ yếu do các bậc cha mẹ quan niệm,
trẻ sinh năm Heo vàng - Đinh Hợi 2007 sau này sẽ có
cuộc sống an nhàn, khá giả
+(TTXVN 08.07) Chính phủ và các tổ
chức quốc tế hỗ trợ 5,5 triệu USD
để phát triển kinh tế -xă hội vùng đồng
bào các dân tộc. Giám đốc Ban Quản lư dự án
"Tăng cường năng lực trong công tác lập,
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xă
hội và cung cấp các dịch vụ xă hội cơ
bản tỉnh Kon Tum" cho biết thông tin trên. Cụ
thể là: Chương tŕnh phát triển Liên Hiệp
Quốc (UNDP), Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) và
Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) nhận
hỗ trợ 5 triệu USD và Chính phủ Việt Nam đóng
góp 500.000 USD để thực hiện dự án nói trên trong
giai đoạn từ nay đến năm 2010. Mục tiêu
của dự án : phát triển các dịch vụ bảo
trợ xă hội như giáo dục, chăm sóc sức
khỏe gồm sức khỏe sinh sản, dinh
dưỡng, nước sạch, vệ sinh môi trường
+ (Website Chính phủ
07.07) Việt Nam đăng cai Olympic Toán học quốc
tế lần thứ 48. Đây là lần đầu tiên
Việt Nam tổ chức kỳ thi Olympic Toán học
quốc tế (IMO) với quy mô lớn nhất từ
trước đến nay. Kỳ thi IMO 2007 sẽ diễn
ra từ ngày 19-31/7/2007 tại Hà Nội với sự tham
gia của hơn 520 học sinh từ 95 quốc gia và vùng
lănh thổ trên thế giới.Việt Nam lần
đầu tiên tham gia thi Olympic Toán quốc tế vào
năm 1974. Năm 2008, Việt Nam cũng sẽ đăng
cai tổ chức kỳ thi Olympic Vật lư quốc tế
+ (Tuoitre 07.07) TP.HCM
hiện có trên 70.000 người nhiễm HIV. Đó là
số liệu được Ủy ban Pḥng chống AIDS
TP.HCM - đưa ra tại buổi làm việc với
đoàn liên ngành của Ủy ban Các vấn đề xă
hội của Quốc hội và Ban Tuyên giáo trung ương
sáng 6-7. Theo dự báo, con số này sẽ lên gần 90.000 vào
năm 2010. Lây truyền HIV sẽ tiếp tục tăng
trong nhóm khách làng chơi, nhóm nam quan hệ t́nh dục
đồng giới nhiễm HIV.
+ ( Tuoitre 07.07) Tổng
lănh sự Mỹ mới tại TP.HCM, ông Kenneth Fairfax, hôm
qua đă tŕnh ủy nhiệm thư của ông lên Bộ
Ngoại giao VN và chính thức được công nhận là
tổng lănh sự Mỹ ở TP.HCM.Ông Fairfax là vị
tổng lănh sự thứ tư từ khi Tổng lănh
sự quán Hoa Kỳ được thành lập tại TP.HCM.
Là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, đă phục
vụ trong ngành ngoại giao Mỹ 20 năm, Ông làm tổng lănh sự Mỹ tại Krakow,
Ba Lan.
+ (VnExpress 09.07) Đồng loạt
tăng lăi suất ngoại tệ.Gần 10 ngân hàng
thương mại cổ phần lớn nhỏ vừa
tăng lăi suất huy động, một diễn biến
ngược chiều với tác động từ chủ
trương tăng mạnh tỷ lệ dự trữ
bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước mới ban
hành.Cuối tháng 6, đại diện các ngân hàng
thương mại đă ngồi lại với nhau
để nhận định về diễn biến lăi
suất. Hiệp hội Ngân hàng cũng vừa đưa ra
thông điệp b́nh ổn công cụ huy động này theo
thỏa thuận từ tháng 4-2007. Nhưng ngay sau đó, các
ngân hàng thương mại cổ phần đă
đồng loạt đẩy lăi suất ngoại tệ
lên một mức cao mới.
+(TTXVN 09.07) Thị
trường điện thoại di động VN đang
bùng nổ. Theo nghiên cứu của EIU, tính đến
cuối năm 2006, Việt Nam đă có 11,8 triệu thuê bao
điện thoại di động và dự kiến
đến năm 2011 sẽ đạt tỷ lệ 27,4
thuê bao điện thoại di động/100 dân, cao gấp
đôi so với mức 12,3 thuê bao điện thoại
cố định. Số lượng máy tính cá nhân/1000 dân
dự kiến sẽ tăng gấp 3 lần trong thời
gian tới, từ 22 máy/1000 dân hiện nay lên 75 máy/1000 dân vào
năm 2011 và mức tăng trưởng này sẽ làm bùng
phát nhu cầu sử dụng dịch vụ internet.
+ (Người Lao Động 09.07) Người
có bảo hiểm y tế được thanh toán 100% chi phí
khám chữa bệnh. Những người nghèo (theo tiêu
chí người nghèo do Nhà nước ban hành), người
có công với cách mạng, người đang sinh sống
hoặc công tác ở vùng sâu, vùng xa được thanh toán
chi phí vận chuyển khi chuyển tuyến điều
trị.Ngoài ra, người tham gia bảo hiểm y tế
sẽ được thanh toán 100% chi phí khám chữa
bệnh (trừ các dịch vụ kỹ thuật cao) thay v́
chỉ được thanh toán 80% tổng chi phí
điều trị như hiện nay
+ (TuoiTre 11.07) Mỗi
năm, VN có thêm 1,6 triệu trẻ em mới sinh. Đây
là thông báo của Ủy ban Dân số, gia đ́nh và trẻ em
tại cuộc mittinh kỷ niệm Ngày dân số thế
giới 11-7.2007. Hiện dân số VN ở mức trên 84
triệu người, mật độ 252 người/km2
vào loại cao nhất thế giới. Năm 2003, pháp
lệnh dân số mới ban hành có nội dung chưa
chặt chẽ, tỉ lệ sinh con thứ ba trong cán
bộ, đảng viên đă tăng mạnh và tỉ
lệ phát triển dân số tăng 0,15% chỉ trong
một năm. Năm 2007, năm “heo vàng”, mức tăng dân
số trong các tháng đầu năm đă tăng 5,5% so
với cùng kỳ 2006, khả năng mức giảm sinh
không đạt được chỉ tiêu đề ra.
+ (VnExpress 11.07) Vịnh
Hạ Long nằm trong danh sách đề cử kỳ
quan thế giới. Các nhà tổ chức chiến
dịch bầu chọn bảy kỳ quan mới đă
tiếp tục mở cuộc b́nh chọn bảy kỳ
quan mới của thế giới nhưng lần này là
các kỳ quan thiên nhiên. cần vào địa chỉ www.natural7wonders.com và
liệt kê bảy lựa chọn của ḿnh. Kết
quả sẽ được công bố vào ngày 8-8-2008.
+ (Website Chính phủ
10.07) Bộ Ngoại giao đă có công văn 2243/BNG-CM gửi
Website Chính phủ xác nhận tên gọi chính thức
đầy đủ của Hoa Kỳ. Hiện nay, tên gọi
"Hợp chúng quốc Hoa Kỳ" được dùng
khá phổ biến trong các văn bản của Việt Nam,
cũng như các văn bản của phía Hoa Kỳ khi
được dịch sang tiếng Việt. V́ vậy, Bộ
Ngoại giao đề nghị thống nhất sử
dụng tên gọi "Hợp chúng quốc Hoa Kỳ".
+ (Website Chính phủ
11.07) Trong tháng 6 đầu năm 2007, lượng khách
quốc tế đến Việt Nam đạt 2.117.466
lượt khách, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm
trước và đạt khoảng 50% kế hoạch
năm. Khách du lịch nội địa ước
đạt 9 triệu lượt người. Thu nhập
của ngành du lịch 6 tháng đầu năm 2007
ước đạt khoảng 28.000 tỷ đồng