COÂNG GIAÙO – TOÂNG
TRUYEÀN BẢN TIN GIÁO
HỘI SỐ 58 (Năm II) (TUẦN
TỪ 02.11 ĐẾN 09.11.2007)
|
THÁNG MƯỜI
MỘT: THÔNG CÔNG CÙNG HỘI THÁNH ĐANG ĐAU KHỔ
Trong
số nầy.
1.
TIN TỨC HỘI THÁNH CÔNG-GIÁO
2.
GIỚI THIỆU
► TÀI LIỆU THẦN HỌC:
+
NGƯỜI CHẾT ĐI VỀ ĐÂU?
+ Dưới
mắt vô thần : CON NGƯỜI SAU KHI CHẾT
► T̀M
HIỂU KINH THÁNH. ĐỀ 34.
AI LÀ
TÁC GIẢ THƯ TEXALÔNICA II ?
► VẤN ĐỀ HÔM NAY
T̀NH
YÊU & CÁC TÔN GIÁO KHÁC
◙ PHỤ LỤC :
GỢI Ư SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT
XXX TN.C
◙ PHỤ TRANG:
VIỆT-NAM 7 NGÀY QUA
TIN TỨC
HỘI THÁNH CÔNG GIÁO |
NƯỚC Ư CẢM ĐỘNG
V̀ EM THIẾU NHI DÂNG HIẾN CUỘC ĐỜI V̀ GIÁO
HỘI VÀ ĐỨC GIÁO HOÀNG
(CAN 25.10) Vào
tháng 10.2006,Carlo Acutis lên 15 tuổi và mau chóng héo tàn v́ bị
ung thư máu. Sinh ở Milan, Acutis khiến gia đ́nh và
bạn hữu cảm động với chứng từ
của cậu khi dâng các đau đớn của bệnh
tật v́ Giáo Hội và Đức giáo hoàng. Chứng từ
đức tin của Cậu có thể dẫn tới
việc phong chân phước cho Cậu trong những năm
tới đây, đă khiến cả nước Ư xúc
động.”Thánh Thể: con đường dẫn tôi
tới Thiên Đàng: Tiểu sử của Carlo Acutis” là
đề tựa của cuốn sách do Nicola Gori, một cây
bút của tờ Osservatore Romano viết,do NXB San Paolo phát
hành. Carlo “là cậu thiếu niên ở thời chúng ta,như
bao thiếu niên khác. Cậu rất siêng năng học hành,
với bạn bè và rất thích vi tính. Cùng lúc Cậu là
người bạn lớn của Chúa Giêsu Kitô,rước
lễ hằng ngày và pho thác cho Đức Trinh Nữ Maria.
Bị ung thư máu vào tuổi 15, Cậu dâng cuộc
sống v́ Đức giáo hoàng và v́ Giáo Hội”. Mẹ
Cậu kể lại :” Dù c̣n bé, nhưng cháu không bao giờ
bỏ Thánh Lễ và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày và
luôn ở lại viếng Thánh Thể một hồi.
Với đời sống thiêng liêng mănh liệt, Carlo đă sống
tṛn đầy và quảng đại mười lăm
năm cuộc đời, để lại một ảnh
hưởng sâu rộng trên tất cả những ai
biết Cháu…Gần với Carlo là gần với một
giếng nước mát lành”.
QUAN CHỨC LHQ ĐỔ LỖI CHO GIÁO HỘI
VỀ SỰ LÂY LAN CỦA BỆNH AIDS
(CWNews 25.10)
Một quan chức LHQ,Alberto
Stella, điều phối các nỗ lực
của LHQ nhằm pḥng chống Aids ở Trung Mỹ, đă
đổ lỗi cho Giáo Hội làm lây lan rộng vi
khuẩn HIV ở Nam Mỹ, do việc sử dụng bao cao
su bị các lănh đạo Công giáo trong vùng “biến thành
qủy” và cho rằng dịch Aids sẽ được
giải quyết nếu luôn dùng bao cao su. Ông nói rằn các
chương tŕnh tiết chế t́nh dục không cótác
dụng như một phương tiện cắt bỏ
việc lây lan Aids. Thống kê LHQ cho thấy 1,7 người
dân Nam Mỹ bị nhiễm HIV với hơn 400.000 ca
mới lây vào
HỒNG Y NGƯỜI XCỐTLEN VIẾNG THĂM
TRUNG QUỐC LÀM XÚC ĐỘNG CON TIM
(UCAN 26.10) Các
tín hữu ông giáo ở giáo phận Tây An,miền trung Trung
Quốc, cách Bắc Kinh 900 cây số về hướng Tây
Nam, nói rằng cuộc viếng thăm của Đức hồng
y Keith Michael Patrick O’Brien đă khích lệ họ rất
nhiều. ĐHY đến Tây An ngày 19.10 để bắt
đầu cuộc viếng thăm Trung Quốc kéo dài 12
ngày. Kể từ năm 1985, đây là thành phố kết
nghĩa với thành phố Edinbugh, thủ phủ
Xcốtlen. ĐHY 69 tuổi đến theo lời mời
của Ban tôn giáo nhà nước và dự trù sẽ đi
thăm Bắc Kinh vào ngày 23.10;thăm Thượng Hải
vào ngày 25.10 và Hồng Kông vào ngày 29.10 trước khi về
lại nhà vào ngày 01.11. Cuộc viếng thăm của Ngài
đến ba tuần sau khi ĐHY JB Phạm Minh Mẫn
thăm Trung Quốc các ngày 24 – 28 tháng 9. ĐHY cũng
tryền đạt phép lành của Đức Thánh Cha cho các
giáo phận, các linh mục, nữ tu,chủng sinh. Ngày
lễ Tryền Giáo 21.10, ĐHY tham dự một phần
Thánh Lễ ở nhà thờ chính toà từ sau bài giảng và
ngồi chung với giáo dân. Sau rước lễ, Ngài lên bàn
thờ và nói chuyện bằng tiếng Anh, được
một người phiên dịch.
VATICAN PHÁT HÀNH BẢN IN SÁCH LỄ RÔMA 1962
(NS 26.10) Như
một phần của tập hợp các nghiên cứu
về các văn bản cũ phụng vụ, Nhà xuất
bản Vatican đă phát hành một bản sao Sách Lễ Roma
1962, sách các lời nguyện Thánh Lễ được dùng
cho Lễ Triđentinô vào ngày 19.10. Cuốn sách căn bản
là một lời chú giải uyên thâm về thánh lễ
cũ, nhưng ở phần
sau cũng có một bản sao nghi thức thánh lễ mà
Vatican đă đưa ra cách nay 45 năm. Trong sắc
lệnh tháng Bảy, Đức giáo hoàng Biển Đức
XVI nói rằng Thánh lễ Triđentinô được cử
hành theo Nghi thức Thánh Lễ 1962 có thể được
dùng trong mọi giáo xứ nơi có các nhóm giáo dân ước
mong. Thánh lễ từ Sách Lễ Roma sử dụng từ
1970 vẫ là h́nh thức thông thường của Thánh
Lễ, trong khi Thánh Lễ Triđentinô là h́nh thức
ngoại lệ.
TOÀ THÁNH THẮT CHẶT QUAN HỆ VỚI BOSNIA-HERZEGOVINA
(CAN 26.10) Các
quan hệ giữa các quốc gia Đông Âu Bosnia-Herzegovina và
Toà Thánh đă có bước tiến lớn khi Đức
Thánh Cha tiếp kiến tổng thống, củng cố một
thỏa thuận với chính
quyền và đă được tổng thống Zeljko
Komsic chính thức mời Người thăm viếng vùng
nầy. Đức Thánh Cha nêu bật rằng Giáo Hội
Công giáo đă giúp đem đến sự ổn
định cho miền đất bị chiến tranh xâu xé
nầy bằng việc hoà giải các nhóm dân tộc và tôn
giáo trong vùng, mà một trong những người giữ
rhế cân bằng tế nhị nầy là Đức
hồng y Vinko Puljic,TGM giáo phận Vrhbosna (cũng hiện
diện trong buổi triều yết). Thoả thuận
mới được thông qua nầy thừa nhận” quy
chế hợp pháp của Giáo Hội và các cơ sở
của Giáo Hội trong xă hội dân sự…sự
độc lập của Giáo Hội trong việc thờ
phượng và thực hành công việc tông đồ,..và
những đóng góp đặc trưng của Giáo Hội
trong các lănh vực văn hoá, giáo dục,mục vụ,quân
sự và từ thiện, cũng như trong các phương
tiện truyền thông đại chúng”.
TỔNG GIÁM MỤC
NGA HY VỌNG VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA CÔNG GIÁO
VÀ CHÍNH THỐNG
(CAN 26.10) TGM Tadeusz Kondrusiewicz,
người lănh đạo Công giáo Nga đă loan báo rằng
căng thẳng giữa Vatican và Chính Thống Nga sẽ có
thể vươ65t qua nếu chúng ta “đặt Chúa Kitô vào
trung tâm của mọi quan hệ của chúng ta’. Theo AP, Công
giáo La Mă và Chính Thống tiếp tục bất đồng:
Đức TGM công nhận rằng Chính Thống “đă có
thể tốt hơn với chúng tôi”, trong khi Giáo
Hội Chính Thồng quả
quyết rằng Công giáo La Mă đă t́m cách cải
đạo trong những khu vực Chính Thống Nga một
cách không thích hợp. Đức TGM nói:” Suốt trong
thời gian 15 năm phục vụ ở đây, chưa bao
giờ tôi nhắm quyến rũ những người
từ các tôn giáo khác vào đạo Công giáo”. Quan hệ
đang xấu đi giữa Vatican và Chính Thống Nga đă
gây trở ngại một cuộc gặp gỡ giữa hai
nhà lănh đạo các giáo hội,cũng như một cuộc
công du Nga của Đức Thánh Cha. Tổng thống Putin
đă hội kiến Đức Thánh Cha trong một
cuộc viếng thăm tới Vatican vào tháng Ba,hưng hy
vọn của Đức Thánh Cha đi Mạc Tư Khoa
bị xáo trộn th́ thiếu nhất trí với lănh
đạo Chính Thống Nga.
TỔNG THỐNG BUSH
SẴN SÀNG BỔ NHIỆM BÀ MARY ANN GLENDON LÀM ĐẠI
SỨ Ở VATICAN
(CAN 26.10) Theo tin từ hăng thông
tấn Ư ANSA, các nguồn tin từ chính quyền Ông Bush nói
rằng “có lẽ Tổng thống Bush sẽ bổ
nhiệm Bà Mary Ann Glendon làm tân đại sứ Hoa Kỳ
tại Vatican”. Bà Glendon là một người
được chẩn bị kỹ càng cho vị trí
nầy, v́ Bà làm việc thường xuyên với Vatican trong
quá khứ. Lư lịch củ Bà gồm cả việc
được Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II bổ
nhiệm vào Viện Hàn Lâm Gíáo Hoàng về Khoa Học Xă
Hội vừa được lập ra năm 1994, cầm
đầu phái đoàn Toà Thánh gồm 22 thành viên để
đi dự Da95i Hội Phụ Nữ LHQ lần Thứ
Tư ở Bắc Kinh vào năm 1995 và phục vụ trong
Uỷ Ban Trung Ương Năm Thánh 2000 của Toà Thánh.
Lần Vatican bổ nhiệm Bà Glendon mới đây nhất
là vào năm 2004, vào chức vụ lăn đạo Việ Hàn
Lâm Khoa Học Giáo Hoàng. Tháng Năm 2007, Phát biểu tại
LHQ, Bà Glendon nói về chủ đề ĐỨC TIN vá
CHÍNH TRỊ, một đề tài mà Đức giáo hoàng
Biển Đức XVI rất tâm đắc sau đó. Bà Glen
don c̣n là một luật sư xuất sắc và là giáo sư
thỉnh giảng Khoa Luật tại đại học Harvard,
giảng dạy và viế về nhân quyền, luật so
sánh và các vấn đề luật trong hiến pháp.
300 TÍN HỮU ANH-GIÁO BỎ
ĐẠO SANG CÔNG GIÁO LA MĂ SAU TRANH CĂI VỀ NỮ LINH
MỤC
(Independent 25.10) Hơn 300 tín hữu Anh-giáo
người Ái-Nhĩ-Lan có thể sớm gia nhập Công giáo
La Mă. Một bản tin trên tờ nhật báo “Tín Hữu Công
Giáo Ái Nhĩ Lan”khẳng định rằng ba giáo xứ
Giáo Hội Ái-Nhĩ-Lan hướng về Giáo Hội La Mă
và có thể mau được Đức Giáo Hoàng
Biển-Đức XVI đón nhận vào sự hiệp thông
trọn vẹn với Hội Thánh Công giáo. Sự thay đổi
ḷng trung thàn với giáo phái nầy là một phần của
một sự uất ức về tín lư kéo dài một
thời gian lâu dài do việc truyền chức linh mục
cho nữ giới. Cả ba giáo xứ rời bỏ Giáo
Hội Ái Nhĩ Lan vào năm 19991 sau khi Toà các giám mục
Giáo Hội Anh giáo ở Ái Nhĩ Lan qyết định
bắt đầu truyền chức cho nữ
giới,một thay đổi mà họ lên án là “công khai thách
thức Kinh Thánh và truyền thống”. Đầu tháng
10.2007, họ gửi một bức thư tới Vatican
để xin được “hiệp nhất trọn
vẹn, trong đoàn thể,bí tích” với Hội Thánh Công
giáo dưới quyền Đức Giáo Hoàng. Nếu
được Vatican chấp thuận, sẽ có 400.000 tín
hữu Anh giáo khắp thế giới được
nhận vào Hội Thánh Công giáo.
CÁC CHUYÊN GIA PHỤNG VỤ
THẢO LUẬN MỐI LIÊN HỆ GIỮA GIÁO LƯ,THAM DỰ
PHỤNG VỤ
(CNS 26.10) Đào tạo đức tin đă
được quyết định như một tiến
tŕnh liên tục khởi đầu với việc giáo
dục tôn giáo đến
suốt đời và được nuôi dưỡng
bằng sự tham dự phụng vụ tích cực và liên
tiếp. Tương quan giữa giáo dục đạo,
hoặc dạy giáo lư,và sự tham dự vào phụng vụ
được đề cập đến trong Hội
nghị toàn quốc Liên Đoàn các Uỷ Ban Phụng Vụ
Giáo phận ở Hartfors từ 09 đến 13.10.2007. Ngày
cuối cùng là một ngày phụng vụ cho Tổng giáo
phận. Đức TGM giáo phận Heartford nói trong bài
giảng lễ khai mạc rằng “Việc dạy giáo lư và
phụng vụ hợp lại thành sự tŕnh bày có hệ
thống về đức tin. Cả hai làm cho các tín hữu
Công giáo một ư nghĩa và đem các tín hữu lại
với nhau. Nhiều người cho rằng việc
dạy giáo lư và ph5ng vụ hiện hữu biệt lập
nhau,trong khi chúng khong phải như vậy”.
ỦY BAN HOA KỲ VỀ TỰ
DO TÔN GIÁO ĐẾN HÀ NỘI
(AsiaNews 26.10)
Việt-Nam hoàn toàn hiểu Công Ước Quyền Con
Người của LHQ,nhưng tin rằng nó phải
được dựa trên Hiến Pháp và Bộ Luật
của từng quốc gia. Đó là điều thủ
tướng Nguyễn-Tấn-Dũng duy tŕ khi ông tiếp
một phái đoàn đến từ Uỷ Ban về Tự
Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ tại Hà Nội. Trong khi
cầu chúc phái đoàn có thể hoàn thành công việc của
họ, Ông nhấn mạnh rằng phái đoàn phải
thực hiện các nghiên cứu và soạn thảo kỹ
càng các ư tưởng của họ về tinh trạng
tự do tôn giáo ở Việt-Nam một cách khách quan,
phản ảnh đúng sự thật và tránh những quan
điểm không cân xứng. Trong báo Nhân Dân của
đảng CS, thủ tướng Dũng khẳng
định rằng Việt-Nam mong thảo luận về
những bất đồng quan điểm về tôn giáo
với Hoa Kỳ:” Đảng và nhà nước luôn tôn
trọng tự do tôn giáo và lưông tâm của nhân dân,
nhưng mỗi quốc gia đều có lịch sử riêng
và các truyền thống văn hoá giải thích những quan
điểm khác nhau. Chính phủ Việt-Nam luôn muốn
lắng nghe và thương thảo với Hoa Kỳ về
những điểm khác biệt”.
NHỮNG NGƯỜI ĐẤU
TRANH NỮ GIỚI B̀NH QUYỀN KHÔNG NÓI V̀ NỮ GIỚI
(CAN 27.10) Đức hồng y Nicolas de Jesus
Lopez Rodriguez giáo phận Santo Domingo đă đáp lại
lời chỉ trích của những người đấu
tranh nữ giới b́nh quyền cực đoan, khi họ
tố cáo Ngài đă áp lực lên việc làm luật của
quóc gia để không hợp phap hóa nạo phá thai :”Cac
phụ nữ luôn có tất cả sự kính trọng
của tôi, nhưng không bao giờ tôi đă hoặc sẽ
đồng ư với loại người đấu tranh
b́nh quyền xấu xa, đam mê mọi chuyện,trừ
việc giúp đỡ nữ giới”. Theo Đức
hồng y, những người đấu tranh nữ
giới b́nh quyền, cùng chung với LHQ, mới chính là
những người áp lực các chính phủ trên thế
giới trong việc hợp pháp hóa nạo phá thai. Các tổ
chhức đấu tranh b́nh quyền không chiến
đấu v́ phẩm giá của nữ giới, nhưng
đúng ra là họ hạ thấp nữ giới với
sự giúp sức của một số bộ phận trong
xă hội”. Ngài nói :”Chỉ có một người ngu
ngốc, một người khờ dại, một kẻ
nào đó chẳng biết ǵ hết, mới bênh vực
lập trường nầy”.
CHƯA BAO GIỜ HỘI THÁNH
PHONG CHÂN PHƯỚC MỘT SỐ ĐÔNG CÁC ĐẤNG TỬ ĐẠO
ĐẾN THẾ
.(Zenit 29.10) Khoảng 50.000 khách hành
hương đă tham dự tại Quảng Trường
Thánh Phêrô việc phong chân phước quy mô lớn nhất
lịh sử cho 498 Đấng tử v́ đạo bị
sát hại trong thời kỳ bắt đạo ở Tây
Ban Nha những năm thập niên 1930. Đức hồng y
José Saraiva Martino, Tổng trưởng Thánh Bộ Phong Thánh,
chủ lễ nhân danh Đức giáo hoàng, đă tuyên bố
:” Thông điệp của các Đấng tử v́
đạo là một thông điệp đức tin và t́nh
yêu”. Trái với thông lệ mới do Đức Thánh Cha
Biển-Đức XVI đưa vào, nhấ mạnh tính
chất địa phương trong việc phong
chân phước, nghi lễ ngày 28.10 nầy diễn ra ở Vatican,như là nơi gặp gỡ của 15 giao phận có các Đấng tử đạo. Hàng trăm người hành hương hiện diện trong nghi lễ nầy là thành viê gia đ́nh của các Đấng tử v́ đạo. Phái đoàn Tây Ban Nha chính thức do Bộ Trưởng Bộ ngoại giao dẫn đầu. Trong ngbi lễ, Đức hồng y Saraiva Martins đọc tông thư phong chân phước do Đức Thánh Cha viết, trong đó thông báo lễ mừng các chân phước được ấn định vào ngày 06 tháng 11. Tính luôn cả các tân chân phướ lần nầy, th́ Hội Thánh Công giáo đă phong chân phước tất cả 977 vị tử đạo do cuộc bắt đạo ở Tây Ban Nha thập niên 1930, trong đó có 11 Vị phong hiển thánh.
THÁNH LỄ CHO TÍN HỮU GIÁO
HỘI TRUNG QUỐC QUA
ĐỜI. KÊU GỌI THẢ CÁC GIÁM MỤC
(AsiaNews 30.10) Uỷ Ban Công Lư và Ḥa B́nh Hồng
Kông đă tổ chức một thánh lễ cầu cho
Đức Cha Gioan Hán Đ́nh Xương,GM giáo phận
Yongnian qua đời “trong những t́nh huống lạ
thường” rồi bị hoả táng ngay sau đó [BTGH đă
đưa tin trong số 57]. Kêu gọi tự do tôn giáo ngay
trước Thế Vận Hội và trả tự do cho các
giám mục Công giáo đang bị giam giữ một cách
bất công ở Trung Quốc. Thánh lễ do Cha Jacob Kwok dâng
trong một thánh đường ở Cao Long. Theo Cha Gianni
Criveller,thuộc Viện Giáo Hoàng về Truyền Giáo
Hải Ngoại, chuyên gia về Giáo Hội ở Trung
Quốc,” sáng kiế hành động nầy đánng ca
ngợi, v́ nó nhấn mạnh sự gần gũi giữa
tín hữu Công giáo ở Trung Quốc với tính phổ quát
của Hội Thánh”. Cái chết của Đức GM giáo
phận Yongnian gây ra sự bất b́nh rộng lớn
khắp thế giới Công giáo.
DƯỢC SĨ CÔNG GIÁO KHÔNG NÊN
GIỮ BẤT CỨ VAI TR̉ NÀO TRONG NẠO PHÁ THAI VÀ AN
TỬ
(AsiaNews 30.10) V́ là trung gian giữa bac sĩ và
bệnh nhân, các dược sĩ nên phả ảnh các
hậu quả đạo đức trong việc sử
dụng một số thuốc uống. Thí nghiệm không
được dẫn tới việcc dùng con người
như “đồ vật” hoặc chỉ dựa vào
việc theo đuổi tiến bộ khoa học mà thôi,
thay v́ nên quan tâm tới thiện ích của nhân loại. Trong
khi tiếp đón những người tham dự Hội
Nghị Quốc Tế các Dược Sĩ Công giáo lần
thứ 25, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đă
nói như thế. Đố với Đức Thánh Cha, các
dược sĩ Công giáo có một “vai tṛ giáo dục”
đối với bệnh nhân của họ và v́ thế
phải xem xét tính chất không thể chấp nhận
được của việc sử dụng con
người như là “độ vật” trong các thí
nghiệm và đề cập vấn đề từ
chối v́ trái đạo lư. Theo quan điểm của
Người, các dược sĩ phải gây ư thức [
trong công chúng] để tất cả mọi sinh linh
đều được bảo vệ từ khi
được thụ thai cho đến khi chết tự
nhiên và rằng thuốc thật sự giữa vai tṛ
điều trị”.
TÂN GIÁM MỤC MẠC-TƯ-KHOA
TRẤN AN VỀ “VIỆC TRUYỀN GIÁO” CỦA HỘI THÁNH
Ở NGA
(AsiaNews 30.10) Lễ nhận chức của
Đức Cha Paolo Pezzi làm Tổng GM và lănh đạo
Tổng giáo phận Mẹ Thiên húa ở Mạc Tư Khoa
diễn ra với sự hiệ diện của 1.500 tín
hữu,200 linh mục c4ng như hàng giáo sĩ Chính Thống,
các phái đoàn ngoại giao và phóng viên. Với thánh lễ
cử hành ở nhà thờ chính toà Đức Mẹ Vô
Nhiễm ở Mạc Tư Khoa ngày 27.10, Đức Cha Pezzi
đă thay thế Đức Cha Tadeusz Kondrusiewicz
được chuyển tới Minsk,Belarus. Trong nhgi
thức nầy, Linh mục tổng đại diện
Vsevolod Chaplin, quyền chủ tịch Văn Pḥng các Quan
Hệ Ngoại Vụ thuộc Toà thượng phụ
Mạc-Tư-Khoa, đă đọc lên thông điệp
từ Đức thượng phụ Alexy II, trong đó
vị lăn đạo Chính Thống Nga bày tỏ hy vọng
nhiệm kỳ của tân TGM sẽ là một thời
kỳ “quan hệ tốt đẹp giữa hai giáo hội”
và có giải pháp sớm cho các vấn nạn giữa hai Giáo
hội. Thông điệp kết thúc rằng mọi sự
tùy thuộc vào việc “ chúng ta làm chứng một cách
hữu hiệu cho thế giới về các giá trị
Kitô-giáo như thế nào”, rơ ràng ám chỉ về những
cáo buộc của Toà thượng phụ đối
với Giáo Hội Công giáo ở Nga và đối với
Vatican về cái gọi là làm
cho bỏ Chính Thống để gia nhập Công giáo,
một ngăn trở lớn cho cuộc gặp gỡ
giữa Thượng phụ Alexy II và Đức Gío Hoàng.
Hiện có khoảng 600.000 tín hữu Công giáo sống ở
Nga, cho dù một số chuyên gia cho rằng con số đó
phải là 1% dân số Nga,tức là 1,5 triệu, với 230
giao xứ có đăng kư và khoản 30 tổ chức, trong
đó khoảng 30% giáo xứ không có nhà thờ riêng do bị
quốc hữu hoá thời Xô-Viết. Hàng giáo sĩ có
khoảng 300 Vị.
GIÁO HỘI Ở BA-TÂY LẬP LẠI
ƯỚC AO ĐĂNG CAI WYD (ĐẠI HỘI GIỚI
TRẺ THẾ GIỚI)
(CAN
30.10) HĐGM Toàn quốc Ba Tây đă lập lại
ươc ao đăng cai tổ chức WYD kế tiếp
sau Sydney 2008. Các Ngài đă bày tỏ thỉnh nguyện
lần đầ,khi Đức Thánh Cha Biển Đức
XVI công du Ba-Tây. Theo AP, Đức Cha Geraldo Lyrio Rocha cho
biết Ba-Tây cùng với Tây Ban Nha,Anh quốc và cac quốc
gia khác đua tranh đăn cai WYD. Ngài lưu ư thêm rằng
việc thông báo địa điểm WYD lần tới
sẽ được thực hiện trong WYD ngay
trước và v́ thế phải đợi đến Tháng
Bảy năm sau mới có thể biết được.
WYD được tổ chức ba năm một lần.
Năm 2005 tại Cologne, Đức và năm 2008 sẽ là
Sydney, Úc.
CÁC NỮ TU BỊ ĐÁNH ĐẬP VÀ BỊ
KẾT ÁN THEO LUẬT CẢI ĐẠO
(CWNews 30.10) Các nhà lănh đạo Giáo Hội
Công giáo ở bang Madhya Pradesh, Ấn Độ, đă
phản đối việc đánh đập đầy ác
ư nhiều nữ tu. Ngay sau đó các Ngài nhận được
lời tố giác là các nữ tu t́m cách làm cho tín đồ
Ấn giáo trở lại Kitô-giáo. Năm nữ tu Ḍng Clara
bị những tay Ấn giáo quá khích tấn công gần thành
phố Indore vào ngày 27.10,khi các Chị đến nhà một
giáo dân Công gia để dự buổi họp nhau cầu
nguyện. Sau khi đă gay ra nhữg vết thương
nghiêm trọng cho ba nữ tu, những kẻ quá khích nầy
đem các nữ tu tới đồn cảnh sát và lên á các
Chị. Đức Cha George Anathil hỏi :” Làm sao các Chị
có thể bị kết án là cải đạo, khi mà các
nữ tu đến cầu nguyện tại nhà một tín
hữu Công giáo?”. Ngài cho rằng nhữn lời kết án
theo luật là “một cách để biện minh cho việc
tấn công các nữ tu của chúng tôi và làm lệch
hướng chú ư của công luận’
TỔNG THỐNG PARAGUAY VIÉNG
THĂM VATICAN
(CWNews 30.10) Tổng thống Paraguay Oscar Nicanor
Duarte Frutos đă hội kiên với Đức Th1nh Cha vào
ngàỳ 29.10. Trong cuộc trao đổi ngắn với
Đức Thánh Cha, - sau đó là với hồng y Quốc
Vụ Khanh Ṭa Thánh và với Thư Kư Quan Hệ với các
Quốc gia - Vị nguyên thủ Nam Mỹ đă nói về
sự hợp tác giữa quốc gia và Giáo Hội trong các
lănh vực giáo dục, y tế và phục vụ xă hội.
CẦN SỰ TRỢ GIÚP CỦA TRIẾT
HỌC ĐỂ CHỐNG LẠI CHỦ NGHĨA CỰC
ĐOAN HỒI GIÁO
(Fides 30.10) Triết học có thể là
một phương tiện chiến đấu tốt
chống lại chủ nghĩa cực đoan Theo lời
Cha Ḍng Tên Franz Magnis-Suseno,giáo sư triết học
đại học Công-giáo Djakarta, nếu người ta
dẫn các tín hữu và các trí thức Hồi giáo vào tranh
luận triết học, th́ sẽ giùp họ « xem xét
Hồi giáo theo một quan điểm khác biệt ». Ngài ghi nhận rằng
nhiều tín đồ Hồi giáo,với việc học
triết học,lịch sử và những môn học nhân
bản khác, được định hướng tới
một chân trời nhận thức và suy đoán rộng
lớn hơn nhiều, trong khi những kẻ chỉ
học các môn khoa học tự nhiên thường tỏ ra
cực đoan ».
RẤT ÍT
NGƯỜI Ư ĐỌC PHÚC ÂM
(CWNews 31.10)Theo một
cuộc điều tra của nhật báo La Stampa, xấp xỉ 70% tất cả
người dân Ư không đọc Bốn Phúc Âm. Cuộc
thăm ḍ do Coesis Research cho nhà xuất bản Editrice San Paolo
điều khiển, cho thấy rằng đa số
người Ư tuy thế lại ủng hộ tôn giáo,
với 90% nói rằng họ ủng hộ việc giáo
dục tôn giáo trong các trường công lập. Mẹ Têrêxa
Calcutta là người được đông đảo dân
Ư đọc nhất hiện nay. Các Thánh Nữ Têrêxa Avila và
Catarina Sienna cũng được xếp vào Top 5 các tác
giả đạo được yêu thích. Trong giới
trẻ Ư th́ Đức giáo hoàng Biển-Đức XVI là tác
giả tôn giáo c̣n sống được ưa chuộng
nhất, trong khi lớp có tuổi lại thích Đức
hồng y Carlo Maria Martini, TGM giáo phận Milan đă nghỉ
hưu, từ lâu vốn là một người
được những kẻ cấp tiến ưa thích.
Trong những năm vừa qua, hai cuốn sách nỗi
tiếng nhất ở Ư là cuốn Chúa Giêsu Nazaret của Đức Thánh Cha
Biển Đức XVI và cuốn A life with Carol của Đức hồng y
Stanislaw Dziwisz, thuật lại những năm Ngài làm thư
kư cho Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II.
NHỮNG
KẺ THEO PHÁI LEFÈBVRE YÊU CẦU « SỬA » CÔNG
ĐỒNG,CHỨ KHÔNG PHẢI GIẢI THÍCH.
(CCNA 31.10) Trong một
cuộc phỏng vấn với nhà báo Ư Paolo Luigi
Rodari,Bề Trên Tổng Quyền của tổ chức Huynh
Đệ Linh Mục Thánh Piô X, Bernard Fellay, nói rằng phong
trào ly khai nầy yêu cầu không chỉ một
« giải thích đúng đắn » và Công Đồng
Vatican II, mà là phải thay đổi thực sự các
văn kiện Công Đồng. Fellay biện hộ cho giám
mục bạn đồng sự của ông đă bị
vạ tuyệt thông.Ricard Williamson, bị một số các
phương tiện truyền thông coi như là thủ lănh
của « cánh không khoan nhượng » của tổ
chức huynh đệ nầy : « Williamson và tôi
đă nhất trí rằng sẽ khó mà vào lại Giáo Hội
nếu Giáo Hội vẫn
cứ như hiện nay . Các lư do thật đơn
giản, v́ Đức Biển-Đức XVI đă nới
rộng tự do cho nghi lễ cũ,nhưng Ngài [Williamson]
vẫn bị đa số các giám mục chỉ trích. Chúng
tôi nên làm ǵ bây giờ ? Gia nhập lại Giáo Hội
chỉ để bị những người nầy
lăng mạ ư ? ». Ngài nói
tiếp : Đức giáo hoàng nên chuẩn bị cho
một sự rà soát lại trực tiếp các văn
kiện Công Đồng, chứ không phải chỉ tố giác việc giải thích chúng
không đúng. Bellay kể ra để làm ví dụ một
tuyên bố về tự do tôn giáo Dignitatis Humanae (Phẩm giá con người) mà theo
Ngài, văn kiện nầy khiến Giáo Hội lệ
thuộc vào quốc gia,trong khi lẽ ra phải
ngược lại. Ngài cho biết vẫn duy tŕ thư tín
với Đức hồng y Dario Castrillon Hoyos, chủ
tịch Uỷ Ban Giáo Hoàng « Ecclesia Dei », nhưng
chưa có văn kiện làm việc chung.
ĐỨC
HỒNG Y ORTEGA THÔNG BÁO CHUYÊN THĂM CUBA CỦA QUỐC
VỤ KHANH TOÀ THÁNH
(CNA 31.10) Đức TGM
giáo phận Havana, Hồng y Jaime Ortega, đă thông báo rằng
Quốc Vụ Khanh Vatican, Đức hồng y Tarcisio
Bertone, sẽ viến thăm Cuba vào tháng 01.2008. Ngài nói
rằng chuyến thăm sẽ làm « hồi sinh tinh
thần của việc Đức Gioan-Phaolô hiện
diện ở Cuna vào năm 1998 », đồng thời
cũng là sự thừa nhận tất cả những ǵ
mà chuyến công du của Đức giáo hoàng đă muốn
nói lên. Đức hồng y Ortega nói rằng quan hệ
giữa Giáo Hội và nhà nước Cuba « tốt
đẹp,nhưng vẫn có thể tốt đẹp
hơn nữa » và lưu ư rằng ngày 08 tháng 9 vừa
qua,nhằm lễ Đức Bà Bác Ái, Giao Hội đă
được phát một thôn điệp của các giám
mụ Cuba trên chín đài phát thanh, đồng thời kêu
gọi các tín hữu tham gia các cuộc rước kiệu
cũng như các sự kiện khác. Trong một số giáo
phận, Giáo Hội c̣ đươc phép thăm viếng và
làm mục vụ với các tù nhân.
400 NGƯỜI
RỬA TỘI CÙNG NHIỀU DỰ T̉NG CHỈ TRONG 10 NĂM
TRUYÈN GIÁO
(Fides 30.10) « Một
cộng đoàn nhỏ như các con đă truyền giáo cho
400 đồng hương chỉ trong 10 năm. Thật
tuyệt vời và các con thật dũng cảm.Nhưng
chúng ta phải luôn nhớ rằng trong đất
nước hơn 1,3 tỷ dân của chúng ta, người
Công giáo chưa đến 1%. Đây là một con số
đầy thách đố, đ̣i hỏi chúng ta phải
nỗ lực trong mọi lănh vực ». Đó là lời
cổ vũ của Đức GM giáo phận Thái
Dương trong dịp cử hành trọng thể kỷ
niệm 10 năm truyền giáo của Công đoàn Bắc
Hán, vào ngày 20.10 với hơn 1.000 tín hữu tham dự cùng
16 linh mục đồng tế. Cách đây 10 năm không có
người Công giáo,nhưng nay cộng đoàn đă có 400
tín hữu và 12 Nhóm truyền giáo. Năm nay sẽ có thêm khoảng
60 tân ṭng. Công cụ giúp thành công chính là sự hiệp
nhất của cộng đoàn với một mục tiêu rơ
rệt : Truyền giáo. Mặt khác phải cầu
nguyện,học hỏi nhiều để xứng tầm
với những đ̣i hỏi truyền giáo.
BTGH SỐ 56
ĐĂNG TIN: LIÊN ĐOÀN
CÔNG GIÁO CẢNH BÁO “CHỦ NGHĨA VÔ THẦN CHO TRẺ EM”
”Chủ nghĩa vô thần cho
trẻ em. Đó là
những ǵ Philip Pulman bán ra. Tác phẩm bộ ba
được viết để thúc đẩy chủ
nghĩa vô thần và bôi
nhọ Kitô-giáo, nhất là Công giáo La Mă. Cử toạ
được nhắm tới là trẻ em và thiếu niên.
Cứ thêm mỗi cuốn sách lại trở nên hiếu
chiến hơn trong việc phỉ báng Kitô-giáo và thúc
đẩy chủ nghĩ vô thần”.
SÁCH và PHIM CHẮC
CHĂN SẼ BÁN VÀ CHIẾU Ở VIỆT-NAM. Xin tóm tắt
về tác phẩm nầy và kính mong theo dơi các bài phê b́nh
ở các số BTGH tiếp theo. Đa tạ
The Golden Compass là quyển đầu
tiên nằm trong bộ truyện ba tập của tác giả
người Anh Philip Pullman gồm The Golden Compass (có tên
gốc là The Northern Lights), The Subtle Knife và The Amber Spyglass. The
Golden Compass đưa người xem trở về bối
cảnh Châu Âu thời Trung Cổ nhưng có những con tàu
kỳ dị bay lượn trên không cùng những thuật
giả kim nhiệm màu. Lyra Belacqua (Dakota Blue Richards) là
một cô bé mồ côi sống cùng với linh thú của cô,
một con thú được chia sẻ một phần linh
hồn của người chủ, tại trường
Jordan, Anh quốc. Một hôm, t́nh cờ cô bé nghe thấy chú
của ḿnh, Lord Asriel (Daniel Craig), tiết lộ với
những học giả về một loại bột vàng có
tên là Dust với nhiều khả năng thần bí. Lyra không
ngờ rằng loại bột đó lại gây ra sự
mất tích của rất nhiều trẻ em trong
trường và chính cô cũng bị rơi vào âm mưu
của nữ học giả độc ác Coulter (Nicole
Kidman) cùng con khỉ vàng linh thú quỷ quyệt của
mụ. Tại cực Bắc, nơi Lyra t́m thấy các
bạn và chú Asriel, cô bé và người chú đă t́nh cờ
tạo ra một lỗ hổng lớn thông sang một
thế giới khác, tồn tại song song với thế
giới này, chứa đầy bí ẩn huyền diệu...
Kinh phí của tập đầu tiên The Golden Compass
ước tính vào khoảng 150 triệu USD và có khả
năng tăng thêm khi phim bước vào giai đoạn
hậu kỳ. Bộ phim cũng quy tụ được
dàn diễn viên nổi tiếng gồm Nicole Kidman, Eric Bana,
Sam Elliott, Kevin Bacon. Đặc biệt, Daniel Craig và Eva Green
h́nh như có duyên nợ với nhau khi họ đều có
mặt trong Casino Royale. The Golden Compass dự
kiến sẽ được khởi quay tại Anh vào
đầu tháng 9 và ra mắt khán giả vào cuối năm
2007.
NGƯỜI CHẾT ĐI VỀ
ĐÂU ?
Và tại sao lại là luyện
ngục, hoả ngục?
A. NGƯỜI
CHẾT Ở TRONG TAY CHÚA
(Câu trả
lời của Jean-Michel Maldamé,OP)
Chúa Giêsu không nói về luyện ngục, v́ khái niệm
nầy không nằm trong các niềm tin của Đạo Do
Thái thời ấy một cách rơ ràng. Sự im lặng nầy giải thích tại sao khái
niệm luyện ngục chỉ có trong tuyền thống
Công giáo và bị truyền thống Tin Lành loại trừ.
Niềm tin vao
luyện ngục ( giai đoạn thanh luyện bằng
một ngọn lửa thanh luyện) dự trê một
bản văn của Thánh Phaolô trong thư gửi tín
hữu Côrintô ở chương 3,11 – 15. Thánh Phaolô nói
rằng ai đă hoàn tất kém bổn phận của ḿnh,
cũng vẫn được cứu rỗi cả khi công
tŕnh của người ấy không đứng vững;
người ấy sẽ được cứu “như qua
lửa” - lửa nầy ở đây là một ngọn
lửa có tính chất thanh luyện. Tiếng la-tinh purgatorius cho ta từ luyện ngục (Purgatoire].
Trong Cựu Ước, người ta cho
rằng người chết biến mất không quay
trở lại. Người ta diễn tả t́nh trạng
của họ bằng cách nói rằng họ yên nghỉ và v́
thế họ bị biến đổi thành chẳng có ǵ
hoặc đại loại như
vậy. Từ ngữ « hoả ngục »
được dùng ở số nhiều đặt tên cho
chuỗi ngày nầy của người chết - tiếng
Do Thái có nghĩa là « cái hố ». Chính trong
nghĩa nầy mà biểu tượng đức tin nói lên
rằng « Chúa Kitô xuống ngục » để
nhận về Người tất cả mọi
người quá cố.
Ngược lại, trong truyền thống Kitô
giáo,người ta nói theo Khải Huyền rằng các
Kitô-hữu « ở trong tay Chúa ». H́nh ảnh nầy
nói lên rằng họ được an toàn, v́ bàn tay Chúa là
một sức mạnh. H́nh ảnh nầy cũng nói lên
rằng họ được b́nh an, bởi v́ bàn tay là
dụng cụ vuốt ve, âu
yếm..H́nh ảnh nầy đ̣i phải được
lắng nghe cách uyển chuyển.
Bởi v́ những người chết ở
trong tay Chúa, họ có thể được nối kết
bằng lời cầu nguyện. Người ta cầu
nguyện với những kẻ đang ở trong giai
đoạn thanh luyện và những người đă
được vinh quang,cầu nguyện cho chúng ta.
Điều nầy
đúng với tất cả mọi người đă
khuất.Nhưng mối liên
hệ với một người thân nầy hoặc với
một người bà con nọ của chúng ta khiến cho
mối liên hệ của ta với họ được
mang tính chất của những ǵ ta chia sẻ.
Giáo Hội vầu nguyện cho người quá
cố và mỗi người được mời gọi
làm như thế cho những người thân của ḿnh và
cho những người khác tùy theo tấm ḷng bác ái mở
rộng.
B. SỰ SỐNG SAU KHI CHẾT
Trao
đổi với Bernard Sesboué.Nhà thần học Ḍng Tên nầy có nhiểu công tŕnh
về đại kết,Kitô họv và sự cứu
chuộc. Ngài c̣n là tác giả của cuốn « Phục
sinh và sự sống. Bài giáo lư nhỏ về những
sự gày sau hết »
CÂU HỎI (H) Làm thế nào
mà tư duy Kinh Thánh có thể đi đến chổ xem xét
tỉ mỉ hy vọng sống lại ?
Cha BERNARD SESBOUE
(Đ) Trong
tín ngưỡng thời cổ xưa, điều tốt
lành lớn nhất của con người, chính là sự
sống và cái chết xuất hiện như một tai
hoạ. Tuy vậu, không phải mọi sự kết thúc
với cái chết. Khi chết, con người đi vào
« âm phủ » (sheol) hoặc « ngục »,
tương đương với từ « hadès »
trong tiếng Hy Lạp, nghĩa là một nơi tối
tăm,bụi bặm và im lặng. Một loại nhà tù
với những canh cửa, nơi đó các bóng ma sống
một cuộc sốn hết mực xanh xao vàng vọt,
tựa như một giấc ngủ buồn. Cái « âm phủ »
nầy không phải là một nơi trừng phạt.
Đó là một chốn bị lăng quân,một chỗ mà con
người không c̣n có thể biết Thiên Chúa nữa.
Cũng như thân xác bị phân hủy, hơi thở
sự sống (sinh khí) cũng suy yếu trong một
giấc ngủ bị tước mất đi mọi
hạnh phúc. Khái niệm nầy đă dần dà tiến hóa
dưới một sưc đẩy gồm ba phần.
Trước hết là t́nh yêu : dân Do Thái muốn sống
không bị gián đoạn và không có tận cùng với Thiên
húa. Kế đến là sự công bằng : « Âm
phủ » san bằng vĩnh viễn mọi con
người, cho dù hành vi của họ trước đây
ra sao, những ǵ đáng xấu hổ với cái nh́n công lư
của Thiên Chúa và ngượ lại với niềm hy
vọng của những người tử đạo.
Cuối cùng là sự sống : Đấng Thiên Chúa
của sự sống th́ mạnh hơn sự chết. Hành
tŕnh nầy tượng trưng cho những giai
đoạn mà chúng ta cũng phải trải qua cho dù
đức tin của chúng ta có mạnh mẽ đến
đâu đi nữa, kể từ sự nhận thức
về cái chất và kinh nghiệm đau thương về
sự chia ly rất giốn với việc bị rơi
vào cơi hư không, cho tới sự quan tâm tới niềm hy
vọng của chúng ta vào một sự sống ở bên kia
cuộc sống nầy, niềm hy vọng vốn ở
tận sâu thẳm trong bất cứ người nào.
(H) Tân
Ước đă vượt qua được
ngưỡng cửa nào ?
(Đ) Chúa Giêsu loan báo Vương
Quốc Thiên Chúa đến. Người công bố Bát Phúc,
hiến chương của Vương Quốc nầy và
kể cho nghe các dụ ngôn nhằm cho phép mỗi
người ăn năn thống hối về với Tin
Mừng. Nhưng Người không chỉ nói mà thôi.
Người hành động. Vương quốc mà người
loan báo, Người khánh thành nó bằng sự hiện
diện và bằng các hành vi của Người.
Người chữa lành các bệnh nhân và làm cho người
chết sống lại : con trai của bà goa Naim, con gái
ông Giairô, Lazarô. Trước câu
hỏi : « Nước Trời gồm những
ǵ ? », Người đă đưa ra một câu
trả lời đơn giản : những ai tin vào
Nước trời,sẽ trở lại với sự
sống. Chính Chúa Giêsu đă vượt qua thử thách cái chết.Nhưng
Người đă làm cho nó thay đổi ư nghĩa bằng
việc yêu thương cá môn đệ đến cùng. Cái
chết của Người đă là một « cái chết
v́ chúng ta ». Người đă trao sự sống của
Người để ban sự sống cho chúng ta. Sau
cuộc phục sinh của Người, chúng ta tới
được trung tâm của suứ điệp Kitô giáo
về con người và ơn cứu độ con
người.
(H) Sự
phục sinh của Chúa Kitô có ư nghĩa ǵ ?
(Đ) Trước hết,
nhận định đầu tiên : ngôi mộ
được t́m thấy bị mở ra và trống
rỗng. Thân thể của Chúa Giêsu đă biến mất.
Nhận định thứ hai : với việc sống
lại, Chúa Giêsu khôn trở lại t́nh trạng đời
sống trước đó nữa. Người tỏ ḿnh
ra một cách đột ngột và tuỳ ư, vượt
thoát các luật lệ không gian và thời gian của húng ta.
Nhưng Người không phải là một linh hồn
hoặc một con ma : sự sống lại bao gồm
toàn thể con người của Người, kể
cả thân xác con người của Người. Những
điểm nầy có tầm quan trọng quyết
định đối với chúng ta, v́ sự sống
lại của Chúa Giêsu một cách nào đó là dự ngôn
bằng hành động của những ǵ sẽ là sự
sống lại của chúng ta. Người đă sống
lại thế nào, th́ chúng ta cũng sẽ sống lại
như vậy.
(H) Người
chết sóng lại như thế nào ? Với thân xác
nào ?
(Đ) Thánh Phaolô (I Cor 15) đă
so sánh : một hạt giống nhỏ chết đi, tan
trong đất, trước khi sinh ra thân h́nh hoàn toà mới
mẻ của cây. Đối với Thánh Phaolô và những
người thời đại Ngài, hoàn toàn không biết
đến tiến tŕnh sinh học chuyển từ cái
nầy sang cái khác, th́ đó đúng là một phép lạ. Nói
cách khác, sau một biển thể tận gốc rễ,
hữu thể mang thân xác cụ thể nầy sản sinh
thân thể « tinh thần », sáng láng và thuộc về
thượng giới. Được Thánh Phaolô khai mào, và
vận dụng tất cả mọi dữ liệu của
triết học, hân chủng học và thần học
đương thời, chúng ta có thể thử
định nghĩa việc chuyển qua thân xác
được sống lại. Chúng ta biết rằng thân
xác không thể bị biến đổi thành những
yếu tố sinh-hóa hoặc một thực tại hữu
cơ và sinh học. Nó là cái mà trong nó và nhờ nó mà con
người đón nhận và sống một cuộc
sống con người, hành động và biểu lộ
tự do của ḿnh trong tương quan với chính nó,
với tha nhân, với Thiên Chúa. Chính trong và qua thân xác ḿnh mà
con người liên lạc với những người khác
và với chính ḿnh, và yêu mến, đau khổ,kàm việc, cảm nhận
niềm vui và vui thích. Thân xác,chính là chúng ta vậy !
Việc loan báo sự sống lại của xác thịt, mà
chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính, muốn nói rằng con
người sẽ được cứu thoát trong tất
cả những ǵ thuộc về con người. Sẽ có
sự tiêp nối và sự đứt quảng : tiếp nối căn tính của
chúng ta ; đứt quảng bởi v́ sẽ có sự
gián đoạn của cái chết. Thân xac được
sống lại sẽ được giải phóng khỏi
mọi ràng buộc và quy luật tự nhiên khiến nó có
thể bị diệt vong.
(H) Ta có thể
có được một miêu tả của thân xác
được cho sống lại nầy chăng ?
(Đ) Đúng ra mà nói th́ không,
bởi v́ một thân xác như thê vuột khỏi thế
giới những h́nh dung của chúng ta một cách triệt
để. Chúng ta có thể dùng những cuộc hiện ra
của Chúa Giêsu phục sinh để nắm bắt
một số đặc tính của các cuộc hiện ra
ấy. Chúng ta cũng có thể nghĩ tới những giây
phút riêng tư trong cuộc sống chúng ta, những giờ
phút ân phúc khi thân xác chúng ta dường như đă gần
như biến thanh tinh thần : đó là kinh nghiệm
thần bí nơi các thánh nhân ; đó là kinh nghiệm
những thời khắc t́nh yêu mănh liệt nhất ;
đó là kinh nghiệm có được khi ta nhập tể
v́ dụ cùng với một bản giao hưởng của
Beethoven, hoặc vẻ đẹp làm chúng ta bay bỗng.
(H) Khi nào th́
sự sống lại xảy ra?
(Đ) Trả lời cho câu
hỏi nầy nằm ở một nghịch lư : cg ta
đồng thời phải nói rằng những
người đă chết đă được cho sống
lại và rằng họ chưa được cho sống
lại. Nói cách khác : họ đang sống cuộc
sống lại đầu tiên,vẫn c̣n bất toàn khi nào
toàn thể nhân loại chưa đạt đến sự
sống lại trọn vẹn sẽ diễn ra ngày Chúa Kitô
quang lâm. Sự sống lại là một sự h́nh thành
chậm, song cũng là một tiến tŕnh năng
động phát triển giữa sự Phục Sinh của
Chúa Giêsu sáng ngày lễ Phục Sinh và ngày Người
lại đến trong vinh quang vào tận thế. Từ
nghịch lư nầy, mầu nhiệm chính Chúa Giêsu có thể
cho ta một ư tưởng. Chính Người cũng đă
biết đến thời gian trung gian khi thân xác
Người ở trong mộ. Sự phục sinh của
Người chỉ trọn vẹn khi dấ chỉ cụ
thể đă được ban cho chúng ta : nhờ
biến cố lễ Phục Sinh, Chúa Giêsu tiếp xúc
lại và liên lạc lại được với cá môn
đệ của người.
Người hoàn tất việc sang lập Hội
Thánh của Người và làm cho các Bí Tích nên có thể có
được, giả thiết một sự tiếp xúc
giữa thân xác vinh hiển của người và thân xác
vẫn c̣n hay chết của chúng ta.
(H). Tất
cả chúng ta co được kêu gọi sống lại
chăng ?
(Đ). Chỉ cần can
đảm nh́n vào cuộc sống chúng ta để khám phá
ra tất cả những ǵ chung ta đang che dấu tha nhân.
Thông thường chúng ta không có khả năng mang gánh
nặng chân lư. Vậy mà, thế giới của Thiên Chúa là
thế giới ánh sáng và trong suốt, và chúng ta không thể
vào trong đó mà không trở nên trong suốt và sáng láng. Sự cần thiết có
luyện ngục đến từ đó, chứ không
phải là từ một ư muốn độc đoán
của Thiên Chúa. Luyện ngục là một quá tŕnh thanh
luyện. Nếu có đau khổ, th́ đó chính là sự
đau khổ của một t́nh yêu đan bị trói
chặt. Sự choáng váng khi gặp Chúa là một ngọn
lửa thiêu đốt.Chẳng phải chúng ta vẫn nói sự
thống hối tỗi lỗi giống như việc
bị thiêu đốt ? Một cách nghịch lư, sư
đau khổ nầy cũg là một niềm vui,niềm
vui được vào trong ánh sang và sự sống. V́
vậy luyện ngục khôgn phải là một sự
trừng phạt. Ngược lại nó cho thấy sự
kiên nhẫn lớn lao của Chúa, Đấng duy tŕ cho
tới trong thế giới bên kia khả năng chúng ta hoàn
toàn aăn năn trở lại với t́nh yêu.
(H). Người
ta có thể nói về hoả ngục chăng?
(Đ) Ở khởi
điểm,chúng ta đă có một niềm tin không thể
chuyển lay: Thiên Chúa là t́nh yêu. Chúng ta không thể nghĩ
giả thiết hoả ngục ở ngoài ánh sáng nầy.
Trong các bản văn Tân Ước,không có ǵ mâu thuẫn
với sự khẳng định nầy. Điều chính
yếu của sứ điệp Chúa Giêsu là một lời
cảnh báo,một sự nhắc nhở phải coi
chừng. Nhưng con người có thể muốn không yêu
thương. Chính khả năng nầy mà ư tưởng
hoả ngục xướng lên. Hoả ngục là một
khả năng hiện thực cho mỗi một
người trong chúng ta, nếu sự tự do của chúng
ta chối từ Thiên Chúa một cách quyết liệt.
Nhưng điề đó vẫn không cất đi của
chúng ta niềm hy vọng rằng tất cả mọi người
được cứu thoát, theo như hương tŕnh
phổ quát của Thiên Chúa.
(H) Thế
giới bên kia giống như ǵ vậy?
(Đ). Chúng ta chỉ có thể
nói về nó qua một mạng những h́nh ảnh.
Cuộc sống vĩnh cửu được tŕnh bày
dưới h́nh thức một bửa tiệc. Bửa
tiệc nầy được gợi lên trong các dụ ngôn
Phúc Âm như tiệc cưới Chúa Con với nhân loại.
Phép so sánh các tiệc cưới cho ta thấy lại
những kinh nghiệm đậm đà nhất về cuộc
sống t́nh yêu nầy vốn sẽ là cuộc sống
của chúng ta. Sách Khải Huyền cũng tŕnh bày thiên
đàng dưới h́nh dáng một phụng vụ vĩnh
cửu, được sống quanh ngai của Thiên húa và
của Con Chiên bị hiến tế và vinh hiển. Kinh Thánh
cũng sử dụng những h́nh ảnh Thánh Thánh, thành
Giêrusalem Thiên quốc. Chắc hẳn niềm vui thiên
đàng sẽ là sự kiện một t́nh yêu hoàn toàn thanh
khiết và mở ra cho tha nhân trong một sự hiệp
thông ngày càng lớn của con người với Thiên Chúa
và giữa con người với nhau.
(H). Cách tŕnh bày
đầy chất thơ ca nầy về hạnh phúc
được hứa ban trong thế giới bên kia có nguy
cơ làm chúng ta quên rằng Thiên Quốc đă có đó
từ khi Chúa Kitô đến, chăng?
(Đ). Chúng ta không bao giờ
được quên rằng thiên đàng sẽ biến
mọi hành vi t́nh yêu và phục vụ mà con người
thực hiện dươi đất, nên vĩnh cửu. Điều
đó phải đào sâu trong ta lời kêu gọi làm việc
v́ sự cứ rỗi thế giới. Việc xây dựng
thành phố dưới đất sẽ xây đắp
thành phố trên trời. Húng ta phải để tâm tới
các dấu chỉ mỏng manh và nhỏ nhoi cho thấy thiên
đàng ở ngay trần thế trước kỳ
hạn, khắp mọi nơi mà con người ăn
năn trở lại, từ bỏ tội lỗi, khắp
mọi nơi mà công lư, tự do và sự kính trọng
tiến bộ. Những dấu chỉ nầy chỉ là
bộ mặt hữu h́nh của sự ấp ủ thai
nghén của Thiên Quốc ở giữa chúng ta. “Ta là sự
sống lại và là sự sống”: sự khẳng
định nầy của Chúa Kitô là dấu chỉ của
lời hứa bao la nầy.
(H). Rất
nhiều người, kể cả các Kitô-hữu,
mường tượng viễn cảnh cuộc luân
hồi. Cái ầy không tương thích ở chỗ nào
với đức tin Kitô-giáo?
(Đ). Luân hồi đặt
vấn đề sự hiệp nhất con người
,với tư cách nó là một chủ thể duy nhất và
không thể thay thế được trước mặt
Thiên Chúa. Luân hồi rơi lại vào một thuyêt nhị
nguyên nhất định thể xác/tâm linh, thể xác không
có gía trị, chỉ là một chỗ trú có thể thay
thế được, trong khi tâm linh lại bị
biến thành một nguyên lư thay đổi mô thức ở
từng cuộc hiện hữu và số phận cuối
cùng của t6m linh là bị lạc mât trong cái tổng
thể vĩ đại. Hơn nữa, luân hồi diễn
tả một sự dịch chuyển đi từ con
người hướng về Thiên Chúa. Kitọ giáo, ngược
lại, loan báo cho chúng ta một Thiên Chúa t́m kiếm con
người, đi t́m gặp con người để lôi
kéo con người đến với Người. Một
Thiên Chúa muốn thực hiện bằng ḷng xót
thương và t́nh yêu của Người một sự
hiệp thông với con người.
C. Ở LUYỆN NGỤC CÓ CHỊU
ĐAU KHỔ CHĂNG ?
(Câu trả lời
của Cha Jean-Michel Maldamé, OP)
Để
trả lời câu hỏi nầy, phải xác định
nghĩa của các từ trong câu hỏi : ĐAU KHỔ
và LUYỆN NGỤC. Đau khổ không nên lẫn lộn
với sự dữ,ngay cả nếu người ta
thường cũng kêu đau (mal : đau, sự
dữ) khi người ta chịu đau khổ. Sự
dữ là cái hủy diệt một con người ; nó
là t́nh trạng bị mất đi của những ǵ
đáng ra phải có : thị giác của một
người ; sự vận động của một
người bất toại. Đau khổ là sự
nhận biết sự dữ đang tac động đến một người đang
sống. Đau khổ lắp
đầy một chức năng sự sống hữu ích
và tốt đẹp : bởi v́ không cảm thấy
được những ǵ đang hủy hoại, đó là
làm cho t́nh h́nh nên trầm trọng. Đau khổ có thể
đạt tới bằng một sự dữ, khi có
một sự bất cân xứng giữa thực tê và
đau đớn – trong ư nghĩa phải đấu tranh và
giảm thiểu đau khổ.
Điều nầy cho phép hiểu những ǵ có
về đau khổ của luyện ngục. Từ
ngữ nầy trong truyền thống Công giáo chỉ về
một giai đoạn chuyển sang đới sống
vĩnh cửu. Người đă khuất đi về
vơi Chúa được thanh luyện. Đó là một
sự giải phóng. Nhưng v́ người chết phải
cất khỏi hữu thể của ḿnh những ǵ làm nó
biến dạng và hư hao, cho nên nó đu khổ, một
nỗi khổ đau cho thấy nó đang được
thanh luyện. Ta có thể so sánh đau khổ nầy
với đau khổ của một người sau khi
bị bất động, tập cử động
lại : người đó có lại được
khả năng cử động,nhưng không thể không
chịu vất vả đau đớn. Hoặc là h́nh ảnh
mà người Chính Thống ưa thích, với việc
tiến về ánh sáng của Chúa, ánh sáng nầy mạnh
mẽ chói loà đến mức phải mất một
thời gian để đôi mắt làm quen được,
như khi chúng ta bước từ bóng râm qua luồng ánh
sáng chói chang của mặt trời mùa hè.
Như vậy đau khổ của luyện
ngục không phải là một sự trừng trị,
nhưng là sự sống của kẻ lớn lên trong
khả năng nh́n thấy Chúa bằng việc giải
toả những bao vây ngăn cản do tội lỗi.
(BTGH
chuyển ngữ)
MỘT PHÚT NH̀N RA…
Rất hiếm khi thấy một
tác giả vô thần đề cập đến
đề tài «thế giới bên kia », dù là với
mục đích không
lành mạnh - để chế
nhạo hoặc xuyên tạc một niềm tin tôn giáo nào
đó. GS Đoàn Xuân Mượu đă
« dám » làm điều
đó ! Hẳn ông cũng đă ít nhiều nghiên cứu
các giáo lư,học thuyết về sự sống
« đời
sau »,linh hồn,luân
hồi,v..v... để có thể bắt tay viết một
tác phẩm về đề tài nầy.Nhưng thật
đáng thất
vọng ! Sự hiểu
biết của ông tỏ ra hết sức nông cạn,
khiếm khuyết và lư luận, phê b́nh hêt sức ấu
trĩ,
không thoát khỏi sự vơ
đoán,thành kiến, nếu không muốn nói là chỉ
muốn chứng minh sự trung thànnh
mù quáng của ông đối
với chủ nghĩa duy vật vô thần. Dù sao, cũng
xin giới thiệu một bài viết nhận định
về cuốn sách nầy,
để hiểu tŕnh độ ,« suy nghĩ »
của lớp trí thức nươc ta hiện nay.
SAU KHI
CHẾT, “CHÚNG TA LÀ AI”?
Con người ta có
linh hồn, khi c̣n sống th́ cảm nhận sự vật
bằng thể vía, khi chết th́ linh hồn ra khỏi
cơ thể và tiếp tục một đời sống
riêng, vĩnh cửu. Và con người không phải chết
là hết. Đó là một trong những nội dung
được nhiều người quan tâm từ cuốn
"Chúng ta là ai" của GS - TS Đoàn Xuân Mượu.
Như tên
gọi của sách, tác giả muốn t́m hiểu một
vấn đề hăy c̣n nhiều bí ẩn, đó chính là con
người chúng ta.
Tác giả đă dày công
sưu tập và tổng hợp sự h́nh thành con
người trên trái đất, các nền văn minh mà loài
người đă trải qua, các công tŕnh gây dựng
được trên trái đất này, trong đó có các công
tŕnh t́m hiểu bản thân con người, để
đến nay chúng ta vẫn đứng trước
những bí ẩn của chính chúng ta. Cuốn sách có 361 trang,
đă dừng lại ở trang 321 để đặt ra
vấn đề mà tôi hiểu chính là trọng tâm của
sách này: Cần hiểu biết chính ḿnh (Chương 6).
Điều khó nhất là t́m hiểu chính ḿnh. Một
triết gia cổ Hy Lạp đă nói thế, và điều
khó nhất ấy c̣n nguyên vẹn đến những ngày
này. Tác giả dẫn chúng ta đến điều khó
hiểu nhất ấy, là con người có linh hồn hay
không, linh hồn là ǵ, có phải chính linh hồn là cái
động lực mạnh nhất, siêu đẳng
nhất, đang điều khiển mọi hành
động của con người, mọi suy nghĩ, khám
phá của con người hay không. Dân gian ta vẫn có câu nói:
Đi đâu mà như kẻ mất hồn ấy?. “Lúc
người ta sống, mọi hành động của ta
đều do hồn. Chỉ cần mất tỉnh táo
một chút, lung lay một chút, đều bị
người đời ví như kẻ mất hồn.
Theo tác giả th́ khoa
học Vật lư đă khám phá được cái thực
tế gọi là "linh hồn” ấy cũng thuộc
về thế giới vật chất, các nhà khoa học
thế kỷ 20 đă t́m ra sự tồn tại của
phản vật chất, ngành vật lư lượng tử
đă tạo ra được “phản – hydrogen”, cho
thấy rằng trong những điều kiện nhất
định vẫn tồn tại những vật chất
ẩn thể, khi là sóng, khi là hạt, không nh́n thấy
được. Chúng có 5 đặc điểm: không có
trong, không có ngoài, theo luật không gian ba chiều, theo
luật thời gian mà trong đó quá khứ, hiện
tại, tương lai diễn ra cùng một lúc, chuyển
động với tốc độ lớn hơn ánh sáng;
những thông tin truyền trên những đơn vị
vật chất ấy sẽ được người
tiếp nhận tức th́.
Đă xuất hiện
hàng loạt các ngành khoa học khám phá cái thế giới bí
ẩn, không nh́n thấy, đó là học thuyết Vô
thức của Freud, các khoa học Cận tâm lư, Cảm xạ
học…
Cuối sách, tác giả
đă đưa ra những bằng chứng ở Việt
Nam, người thật việc thật. Giờ đây,
bạn đọc đă có thể hiểu những vần
“thơ điên” của Hàn Mạc Tử tả linh hồn
thoát ra khỏi cái xác trần tục và bay vào cơi phiêu diêu.
Thơ ấy không
“điên” một chút nào, viết sau những lần chết
đi sống lại, ghi lại những khoảnh khắc
hồn ĺa khỏi xác, những cảm nhận về
đời sống linh hồn, những cảm xúc
được ghi lại trong tiềm thức,
được xuất hiện viết ra khi sống lại.
Những vần thơ người đời không hiểu
được và nhà thơ cũng không giải thích
được. Cuốn sách đi đến kết
luận rằng con người ta có linh hồn, khi c̣n
sống th́ cảm nhận sự vật bằng thể
vía, khi chết th́ linh hồn ra khỏi cơ thể và
tiếp tục một đời sống riêng, vĩnh
cửu (thác và thể phách c̣n là tinh anh - Kiều). Và con
người không phải chết là hết. Đây là
một bí ẩn của chính chúng ta mà chúng ta chưa thể
biết được. Đă có những người
tiếp cận được với đời sống
linh hồn nhưng số người ấy tuy có thật
mà không nhiều, hay nói đúng hơn, trước đây
có những khả năng kỳ diệu ấy,
nhưng cùng với sự phát triển của khoa học
duy lư, những người ấy, khả năng kỳ diệu
ấy mất dần đi, con người tự phủ
định ḿnh.
Phải chăng đă
đến lúc chúng ta cần có một thái độ
mới, trân trọng với những tiếng nói của
nền văn hoá tâm linh, mở đường khám phá để
chúng ta hiểu rơ chúng ta là ai trong vũ trụ này. Có khám phá
về cái tiểu vũ trụ th́ mới mong có những
khám phá nhiều hơn nữa cái đại vũ trụ
vẫn ngày đêm hiển hiện trước mắt chúng
ta mà chúng ta chưa bao giờ hiểu được.
Đoàn Xuân Mượu
không làm hoặc chưa làm cái việc khám phá ấy, ông
chỉ khiêm tốn tổng hợp từ một góc
độ riêng những thông tin về công cuộc khám phá con
người và cố gắng tŕnh bày một cách đơn
giản, dễ hiểu, xen với những cảm xúc khi
chính bàn chân ông đă đi đến những cái nôi văn
minh ở Trung Hoa, Hy Lạp. Nhưng cũng đủ
để người đọc cảm nhận một
cách vừa rơ ràng, vừa kinh ngạc, vừa mơ hồ
về chính con người, và gợi ư cho các bạn trẻ
về một chân trời khoa học mới, nơi cái
bầu trời ở chính trong ta.
T̀M HIỂU KINH
THÁNH . T̀M HIỂU KINH THÁNH .T̀M HIỂU KINH THÁNH |
ĐỀ TÀI 36
AI LÀ TÁC GIẢ
THƯ THỨ II GỬI TÍN HỮU THÊXALÔNICA?
Khi so sánh hai
thư gửi giáo đoàn Thêxalônica người ta nhận
thấy chúng khác nhau trong nội dung, cũng như trong
kiểu cách dùng từ ngữ và hành văn. Các khác biệt
này khiến cho giới học giả đặt nghi
vấn liên quan tới tác gỉa đích thực của
thư thứ II. Mặc dầu có các lư chứng rơ ràng cho
thấy soạn giả thư thứ hai gửi giáo đoàn
Thêxalônica không phải là thánh Phaolô, một số đông các
nhà chú giải, đặc biệt là các nhà chú giải công
giáo, vẫn theo thuyết truyền thống coi thánh Phaolô là
tác gỉa bức thư này, điển h́nh như B. Rigaux
và P. Rossano. Theo các học giả này các lư chứng trái
nghịch không có tính cách dứt khoát định
đoạt. Nhiều học giả khác như G. Barbaglio th́
lại cho rằng thánh Phaolô không phải là tác giả
thư thứ II gửi giáo đoàn Thêxalônica. Lập
trường thứ hai này xem ra cống hiến cho chúng ta
một khung cảnh trung thực hơn, phản ánh tâm t́nh
của kitô hữu trong các giáo đoàn kitô thời khai sinh
liên quan tới việc chờ đợi Chúa Kitô quang lâm.
Vào giữa
thế kỷ thứ I tín hữu sống tại Thêxalônica
đă rất nôn nóng đợi chờ biến cố Chúa
Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang để kết thúc
lịch sử thế giới và giải thoát họ. Họ
coi biến cố Chúa Kitô quang lâm như là chuyện rất
gần kề, đến độ trong ngày Chúa đến
có nhiều người c̣n sống chứ chưa chết.
Thánh Phaolô cũng chia sẻ quan điểm đó của tín
hữu Thêxalônica. Sau này vào khoảng năm 56-57 khi viết
thư thứ I cho giáo đoàn Côrintô Phaolô bầy tỏ
niềm hy vọng cũng sẽ c̣n sống cho tới ngày
đó. Thánh nhân viết trong chương 15,51-52: ”Tôi xin cho
anh chị em biết một mầu nhiệm này: Đó là
chúng ta sẽ không chết tất cả đâu, nhưng
chúng ta sẽ được biến đổi trong
một khoảng khắc, trong một nháy mắt, khi
tiếng kèn cuối cùng trổi lên. Bởi v́ khi kèn sẽ
thổi lên, các người chết sẽ sống lại
không hư nát, và chúng ta, chúng ta cũng sẽ
được biến đổi”. Thư thứ I gửi
giáo đoàn Thêxalônica được lồng khung trong
niềm tin này và giải thích niềm hy vọng kitô trong
viễn tượng đó.
Tuy nhiên, khi
thấy năm tháng cứ qua đi mà Chúa Kitô không quang lâm
để kết thúc lịch sử thế giới và
giải thoát họ, tín hữu trong cộng đoàn bắt
đầu chạm trán với thực tại Chúa Giêsu
chậm trễ đến cứu họ. Khi ấy trong
cộng đoàn phát sinh ra hai giải pháp đồng
thời cũng là hai thái độ sống của tín
hữu. Thứ nhất là thái độ chấp nhận
viễn tượng dài. Nghĩa là tin nhận rằng Chúa
Giêsu Kitô sẽ quang lâm trong tương lai rất xa. Trong khi
chờ đợi đây là thời gian Giáo Hội hoạt
động truyền giáo trong thế giới. Thánh sử
Luca theo lập trường này và nêu bật hoạt
động truyền giáo của Giáo Hội trong khi chờ
đợi ngày cánh chung. Thái độ thứ hai cho rằng
ngày Chúa quang lâm vĩnh viễn đă tới rồi. Đây
đă là lập trường của tín hữu trong thư
thứ II gửi giáo đoàn Thêxalônica, như viết trong
chương 2,1-2: ”Anh chị em, liên quan tới biến
cố Chúa Giêsu Kitô đến và việc quy tụ chúng ta bên
Ngài, chúng tôi xin anh chị em điều này. Đó là
đừng vội điên đầu cũng đừng
sợ hăi v́ một mạc khải tiên tri, một lời
nói hay một bức thư được giới
thiệu như là của chúng tôi khiến cho anh chị em
tin rằng ngày của Chúa đă đến rồi”.
Viễn tượng này cũng bị cảnh cáo trong
chương 2,18 thư thứ II gửi Timôtêô: Trong số
các người suy nghĩ lệch lạc ”có Imeneo và Fileto.
Họ đă xa rời sự thật, khi chủ
trương rằng sự sống lại đă
đến rồi”. Cũng không thiếu các tín hữu
mạnh mẽ phản ứng chống lại các
người hăng hái qúa đáng, v́ họ yêu sách sẽ c̣n
sống khi Chúa Kitô quang lâm và sẽ được sống
kinh nghiệm hứng khởi những ngày sau hết
của thời tận thế. Trong chương 21,8 thánh
sử Luca đă cảnh cáo tín hữu chống lại khuynh
hướng cho rằng ngày tận thế đă gần
kề. Thánh nhân khuyên họ coi chừng đừng
để bị đánh lừa, v́ sẽ có nhiều
người tới tự xưng là Chúa Kitô và nói rằng
thời giờ tận thế đă tới. Tác giả vô danh
thư thứ II gửi giáo đoàn Thêxalônica chắc
chắn cũng thuộc phong trào chống lại giấc
mộng này của các tín hữu bồng bột sôi nổi
nói trên. Ông lấy tên thánh Phaolô gán cho bức thư của
ḿnh, một đàng để tăng uy tín cho bức
thư, đàng khác v́ đề tài ngày Chúa Kitô quang lâm
được thánh Phaolô diễn tả một cách rơ ràng
minh bạch, không lầm lẫn được. Viết cho
giáo đoàn Thêxalônica, ông đưa ra lập trường
kitô phê b́nh tư tưởng thư thứ I của thánh
Phaolo và thái độ nôn nóng đợi chờ biến
cố Chúa Kitô quang lâm. Do đó ông cũng bắt chước
kiểu hành văn của thánh nhân. Thật ra soạn
giả muốn duy tŕ truyền thống phaolô khỏi
mọi lèo lái sai lệnh. Chúng ta đang ở trong giai
đoạn giải thích tư tưởng của thánh
Phaolô trong các thập niên cuối cùng của thế kỷ
thứ I.
Tóm lại, chúng
ta có thể kết luận rằng tác giả thư
thứ II gửi tín hữu Thêxalônica là một môn đệ
của thánh Phaolô. Sau ngày thánh nhân qua đời, ông can
thiệp chống lại các lập trường hăng hái
quá đáng của nhiều kitô hữu hồi thế kỷ
thứ I coi biến cố Chúa Kitô quang lâm như là
chuyện gần kề. Đóng góp suy tư của ông nêu
bật sự kiện này. Đó là trước ngày Chúa Kitô
quang lâm để khai mào thế giới mới của
thời phục sinh, c̣n có cả lịch sử dài của
Giáo Hội nữa. Giải pháp này không làm giảm giá
trị nội dung thư thứ II. Nó cho thấy một
giai đoạn phát triển ḷng tin kitô của Giáo Hội
hồi thế kỷ thứ I và mời gọi các thế
hệ kitô theo sau biết thường xuyên tự kiểm
thảo và phê b́nh, để không rơi vào thái độ
bất cập thái qúa.
Đâu đă là
thái độ không đúng đắn của các tín hữu
giáo đoàn Thêxalônica như tả trong thư thứ II?
Rất tiếc chúng ta không có nhiều tin tức liên quan
tới cộng đoàn này. Nhưng cứ theo nội dung
của thư chúng ta biết được hai khía cạnh
cụ thể trong thái độ sống của các tín
hữu. Thứ nhất là t́nh trạng báo động, bôn
chôn, nhốn nháo phát sinh từ xác tín cho rằng ngày Chúa Kitô
quang lâm, ngày tận thế sắp tới nơi rồi. Có
một số tín hữu tưởng rằng ḿnh được
linh ứng nói tiên tri. Một số khác th́ dựa vào
quyền bính các giáo huấn của thánh Phaolô để
biện minh cho lập trường của họ. Chúng ta
đang ở vào các năm sau khi thánh Phaolô qua đời. Do
đó cũng không lạ ǵ khi trong giáo đoàn có các phong trào
hăng hái tin tưởng rằng ngày thế mạt
sắp đến. Chúa Kitô sắp quang lâm để hủy
diệt thế giới tội lỗi này và thiết
lập một thế giới mới trong lịch sử
nhân loại. Văn bản ở đây nói tới thái
độ giao động và các cử chỉ xuất
thần, nghĩa là mất lư trí. Ngoài xác tín cá nhân khiến
cho tín hữu giáo đoàn Thêxalônica có các thái độ đó,
trên b́nh diện lịch sử mà nói, các cuộc bách hại
kitô hữu ngày càng thường xuyên và dă man hơn hẳn đă
là lư do làm nảy sinh ra các giao động này. Chúng ta
biết là trong các giai đoạn gặp gian lao thử thách
và bắt bớ khổ đau qúa sức, các tín hữu
thường ước mong cho ngày tận thế mau
đến để Thiên Chúa đánh phạt, hủy
hoại thế giới gian ác này, giải thoát họ và
thiết lập vương quốc công chính và b́nh an
của Ngài. Trào lưu văn chương khải huyền
là kết qủa của các giai đoạn tai ương
khốn khó này. Chương đầu thư thứ II
gửi giáo đoàn Thêxalônica cho thấy bối cảnh
bắt bớ khổ đau đó. T́nh trạng khốn khó
này khiến cho tín hữu ước mong Chúa mau đến
để phán xử trần gian và đánh phạt các
kẻ gian ác bắt bớ tín hữu của Ngài.
Hiện
tượng thứ hai gây âu lo đó là có một số tín
hữu ăn không ngồi rỗi, không muốn làm việc
ǵ cả. Trái lại, họ ”ngồi lê mách lẻo” và xen
ḿnh vào chuyện người khác. Trong một thành phố
cảng lớn như Thêxalônica, nếu có hiện
tượng ăn bám cũng là chuyện thường t́nh.
Những người thất nghiệp bị gạt
bỏ ngoài lề xă hội, sống nhờ vả vào
người này người nọ. Nhưng trong cộng
đoàn gồm các người không lấy ǵ làm khá giả,
các anh chị em này trở thành gánh nặng cho các tín hữu
khác. Lời tố cáo mạnh mẽ dứt khoát trong
chương 3,6-15 chứng minh cho tính cách trầm trọng
của hiện tượng này. Đặc biệt bởi
v́ giáo đoàn Thêxalônica chỉ là một giáo đoàn nhỏ.
Nhân danh Chúa Giêsu Kitô tác giả xin tín hữu xa lánh các
người lười biếng và không tuân giữ các
điều họ đă học được từ các
thừa sai. Đáng lư ra họ đă phải hiểu
biết và noi gương các vị. Dù có quyền
được tín hữu trợ giúp nhưng Phaolô và các thừa
sai đă làm việc ngày đêm để có phương
tiện sinh sống, mà không phiền lụy tới ai. Các
vị đă hoàn toàn tự lập trên phương tiện
vật chất. Tuy công việc làm có nặng nhọc
vất vả, các vị duy tŕ được sự tự
do hoàn toàn của ḿnh, không phải nể nang ai và không
chịu áp lực của ai.
LỊCH SỬ
LỄ CÁC THÁNH Một lễ rất xưa. Ở mọi thời, các
Kitô-hữu luôn cầu
nguyện cho những người đă khuất, không
phải trong buồn sầu, mà trong vui mừng. Đề
mừng chiến thắng của Chúa Kitô trong cuộc
sống của nhiều người nam và nữ. Chính v́
thế mà ngay từ các thế kỷ đầu, lễ
nầy được xếp quanh lễ Phục Sinh và
Hiện Xuống. Ở Đông phương, Lễ Các
Thánh vẫn được cử hành vào Chúa Nhật tiếp sau lễ
Hiện Xuống. Ở Rôma,lễ nầy đă có chắc
chắn từ thế kỷ thứ V. Nó được dời
lần đầu vào ngày 13.05 vào năm 610 do Đức
giáo hoàng Bonifaxiô IV. Ngày đó, Người truyền
chuyển tất cả di cốt các Đấng tử v́
đạo từ cac hầm mộ Roma tới đền
thờ ngoại giáo xưa ở Pantheon. Đền Pantheon
trở thành thánh đường « Thánh Maria và Các
Tử Đạo ». Một thế kỷ sau, lễ
nầy được chuyển vĩnh viễn vào ngày 01
tháng 11 do Đức giáo hoàng Grêgôriô III. Năm 835,
Đức giáo hoàng Grêgôriô IV ra lệnh cử hành
lễ nầy trên khắp thế giới. |
Lư do nào đă khiến cho một số tín
hữu có thái độ sống ăn bám cộng đoàn
như vậy? Ở đây xem ra không chỉ là do tính
lười biếng tự nhiên và thiếu dấn thân. Nó
phát xuất từ bầu khí khải huyền giao
động nói trên. Sự chờ đợi ngày tận
thế khiến cho họ bôn chôn tới độ không
muốn làm việc ǵ nữa, mà chỉ ngồi khoanh tay
đợi chờ ngày Chúa Kitô quang lâm phán xét trần gian.
Họ lư luận rằng nếu ngày thế mạt sắp
tới, th́ các thực tại trần gian này và lịch
sử nhân loại đâu c̣n có ư nghĩa ǵ nữa. Nếu
cả lịch sử thế giới cũng sắp
chấm dứt và trở thành vô nghĩa, th́ công ăn
việc làm cũng không có giá trị ǵ nữa. Xác tín và
kiểu lư luận này nguy hiểm, v́ nó khiến cho tín
hữu có thái độ trốn chạy hiện tại,
trốn tránh trách nhiệm và ẩn náu trong thế giới
mới từ trời xuống. Nhưng sống như
thế là lỗi bổn phận đối với chính
bản thân, gia đ́nh, cộng đoàn giáo hội và
cộng đoàn xă hội. Nguy hại hơn nữa là khi
chỉ ”ngồi lê mách lẻo”, xía mũi vào chuyện
của mọi người như thế, họ gây xáo
trộn trong cộng đoàn và khiến cho cuộc sống
cộng đoàn vốn đă nặng nề, lại càng
rối loạn, ngột ngạt và khó thở hơn.
VẤN ĐỀ HÔM NAY
T̀NH YÊU và CÁC TÔN GIÁO KHÁC
(Trao đổi với một chuyên gia về đối
thoại với Phật-giáo)
V́ Kitô-giáo là tôn giáo của T́nh Yêu,
ĐỐI THOẠI , với Kitô-hữu, chẳng có ǵ khác
hơn là việc đem ra thực hành T̀NH YÊU CỦA THIÊN
CHUA. Đó là lời khẳng định của Cha Cinto
Busquet,linh mục thuộc phong trào Focolari chuyên môn về
thần học các tôn giáo và đă sống ở Nhật 17
năm.
Trong tác phẩm “Tra Oriente et Occidente. Alla ricerca di
un senso »(NXB Città Nuova) [Giữa Đông và Tây. Đi t́m
một ư nghĩa], Cha Cinto Busquet thăm ḍ sự đa
dạng văn hóa, sự t́m kiếm và quan hệ với
Thiên Chúa, ư nghĩa của đau khổ và sự chết.
ZENIT (H) Đối thoại
với tha nhân có cho phép chúng ta hiểu chúng ta hơn
chăng ?
Cha Cinto Busquet
(Đ) :
Chắc chắn rồi. Nhưng đối thoại, khi
người ta có đạo, không chỉ giới hạn
ở một cuộc trao đổi thông tin đơn
thuần. Với chúng ta,Kitô-hữu, Vị Thiên Chúa mạc
khải cho chúng ta vĩnh viễn nơi Chúa Giêsu Kitô là
một Thiên Chúa tự nơi Người vốn đă là
một “ đối thoại”, v́ Người là sự
hiệp thông tuyệt hảo của t́nh yêu nầy giữa
Chúa Cha,Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Do đó, ngay cả đó
là một cuộc đối thoại với tín hữu các
tôn giáo khác hoặc với những người không
thuộc về một tôn giáo nào rơ ràng, chỉ cần cuộc đối thoại
nầy được thực hiện trong t́nh yêu và trong
dấu chỉ trao ban và lắng nghe nhau, để cảm
nghiệm được Thiên Chúa, tinh thần của
Chúa làm cho cuộc “gặp
gỡ” của chúng ta trong một quan hệ yêu thương
hỗ tương có thể có được.
(H). Trong hành tŕnh
Đông Tây, Cha tự cho ḿnh là một người hạnh
phúc. Cha đă học được những ǵ qua 17 năm
sống ở Nhật Bản?
(Đ). Nhiều lắm.
Thật khó mà nói hết trong vài câu. Khi đột nhiên
người ta thấy ḿnh sống trong một bối
cảnh hoàn toàn khác với bối cảnh nơi
người ta sinh ra và lớn lên, th́ tầm nh́n của
chúng ta về mọi sự mở rộng ra. Với tư
cách là Kitô-hữu, tôi đă phải suy nghĩ một cách sâu
sắc về đức tin của riêng ḿnh, để
thử làm cho nó có thể tiếp cận được
với những người sống quanh tôi. Trước hết tôi đă
phải mở ḷng ḿnh ra với các phạm trù văn hoá và
tôn giáo của thế giới đang tiếp đón tôi,
không được có thành kiến và không được có
những kết luận vội vàng. Và kế đến,
tôi cho rằng sự nhạy bén Đông phương đă
làm nỗi bật t́nh yêu mà tôi có nầy đối với
sự im lặng và đối với tất cả
những cử chỉ nho nhỏ chứ đựng
nhiều biểu tượng, rằng điều đó
đă làm cho tôi trở nên có trực giác và để tâm
hơn tới tha nhân, và tôn trọng sự khác biệt
của họ với tôi.
(H). Làm thế nào mà Cha
lĩnh hội được vai tṛ các tôn giáo ở Châu
Á ?
(Đ). Theo đức tin
của chúng ta, t́nh yêu phổ quát của Thiên Chúa không
biết đến biên giới. Thiên Chúa là Cha của
hết thảy chúng ta. Sự Cứu Chuộc mà Chúa Giêsu
đến hoàn tất, vươn ra cho tất cả
mọi người. Chúa Thánh Thần hoạt động
trong ḷng mọi người và mở ḷng họ ra với
điều thiện. Do đó, trước cả khi Phúc Âm
được loan bao cho các dân tộc khác nhau, th́ Thiên Chúa
đă, đang hành
động giữa họ. Các tôn giáo là biểu hiện cao
nhất của những nền văn hóa khác nhau, và học
hỏi để biết chúng đồng nghĩa với
làm cho tinh thần ḿn được phong phú và mở ḷng ra
nhiều hơn nữa cho sự bao la của Mầu
Nhiệm Thiên Chúa và chan lư về con người. Các tôn giao
Châu Á thấm nhuần linh đạo và khôn ngoan. Không cón nghi ngờ ǵ nữa,chúng
có thể là một chất xúc tác, một sự hỗ
trợ, cả cho chúng ta các Kitô-hữu. Hơn nữa,
để cho Phúc Âm hội nhập hiệu quả vào
văn hoá ở Châu Á, người ta không thể không
biết điều mà các truyền thống tôn giáo của
châu lục nầy đă chuẩn bị công phu sau những
thiên niên kỷ lịch sử ; trái lại, như Giáo
Huấn Giáo Hội mới đây mời gọi chúng ta
một cách rơ rệt, chúng ta phải nhận ra « tất
cả những ǵ đích thực và thánh thiện trong các tôn
giáo nầy » (Nostra Aetate, 2).
(H). Chỉ khi yêu mến,người ta mới
cảm nghiệm được Thiên Chúa. Có phải trong các
tôn giáo khác mà Cha đă biết (Phật giáo, Thần
Đạo và những tôn giáo khác), t́nh yêu có một tầm
quan trọng trung tâm như thế ?
(Đ). Đúng và không. Tất
cả các tôn giáo dạy làm lành, tỏ ḷng trắc ẩn,
làm chủ các bản năng vị kỷ của riêng ḿnh
để phục vụ tha nhân ; do vậy chúng ta có
thể nói rằng t́nh yêu, được nh́n như là
một thái độ tâm hồn con người mong
ước và thực hiện điều lành đối
với người lân cận của ḿnh, là quan trọng
đối với tất cả mọi tôn giáo. Tuy vậy,
tôi cho rằng người ta có thể nói một cách
chắc chắn rằng không có tôn giáo nào lại không
đặt t́nh yêu ở trung tâm giáo lư và sống đạo
của ḿnh, giống như Kitô-giáo. Toàn bộ Mạc
Khải của Thiên Chúa qua các Sách Thánh có thể tóm tắt
trong vài câu sau đây : « Thiên Chúa là t́nh yêu » trong
thư thứ nhất của Thánh Gioan. T́nh yêu, đối
với Kitô-hữu, không phải là một cái ǵ hướng
đơn thuần về một hành động bên ngoài
hoặc về ư muốn của của chúng ta : đó là
sự tham gia vào chính đời sống của thiên Chúa,
vốn là T́nh yêu. Điều răn mà Chúa Giêsu để
lại cho chúng ta là chúng ta yêu thương nhau,nhưng
như Đức Thánh Cha Biển-Đức XVI nhắc
nhở chúng ta trong tông thư của Người :
« t́nh yêu có thể được điều khiển
bởi v́ nó đă được ban cho ». Nói cách khác,
ngay cả nếu trong Phật giáo, chẳng hạn,
« ḷng trắc ẩn » không giới hạn
đối với tha nhân được coi như
đỉnh cao của đ̣i sống đạo, th́ nó
hẳn không phải là tính cách trung tâm mà cái agape trong Kitô-giáo thủ
đắc.
(BTGH chuyển ngữ từ Zenit 30.09.2007)
◙
PHỤ LỤC :
GỢI Ư SUY
NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT XXXI
TN.C
Lc 19, 1 - 10
VƯỢT LÊN CHÍNH M̀NH
Mượn câu của tác giả Anmai,S.Sr.R.
viết về Matthêu Nguyễn-Văn-Hùng để mở đầu cho những chia
sẻ hôm nay : “Không có ai là không
có quá khứ và cũng chẳng ai lại không có tương
lai. Matthêu Hùng cũng như thánh Matthêu ngày xưa mang trong
ḿnh một quá khứ không mấy là tốt đấy
nhưng thánh Matthêu và Matthêu Hùng đă có một tương
lai tươi sáng”, để nói về “sếp” một
thời của Thánh Matthêu, mà “quá khứ và tương lai”
cũng có những nét tương đồng. Câu chuyện
trước kia – quá khứ - của Matthêu Nguyễn Văn
Hùng vốn đă là “cổ tích”, lại càng thêm chất
thơ ngọt ngào và cảm động, khi báo chí
đưa tin về mối t́nh kỳ lạ của cô
đạo diễn người Pháp Leslie Wiener đối với anh: trung thành, ân
cần chăm sóc và yêu thương như bất cứ
người vợ hiền thục nhất nào khác những
tháng ngày cuối đời của anh trên giường
bệnh cho đến khi anh trút hơi thở cuối cùng.
Những người đă quen biết, đă sát cánh
với anh trong các công tác bác ái xă hội, đă ghi những
hàng tâm sự về anh “Cái
phúc lớn của đời anh là đi từ trong cơi u
tối của thế giới để đến ánh sáng
của niềm tin. Chúng ta là những con người bị
hư đi nhưng được Chúa cho sống dậy.
Vâng, anh “sống dậy” giúp đời rồi lại
đi về gặp Chúa” (Maria Vũ Loan, VietCatholicNews
16.10.2007)
Thêm một Hùng khác ở cuối
bắc miền Trung cũng gây bao ngạc nhiên thán phục
không chỉ rất nhiều người trong nước,
mà cả báo chí nước ngoài, khi người ta
đọc, nghe, thấy chàng Hiệp Sĩ Công Nghệ Thông
Tin Nguyễn Công Hùng 25 tuổi của Xứ Nghệ
chỉ là một h́nh nhân bé tẹo và mất khả năng
vận động, dáng ngồi đầu gối quá tai và
luôn như chực ngă. H́nh ảnh khiến người ta
liên tưởng đến nhà vật lư học thiên tài
Stephan Hawkin cũng gắn chặt đời vào xe lăn và
đă nhận được huy chương do Toà Thánh trao
tặng và đă thẳng thắn xin Đức Giáo Hoàng
Gioan-Phaolô II ra phán quyết thanh minh cho Galilêô. Đó cũng
là ư định của Toà Thánh và chỉ ít lâu sau ngựi ta
đọc được thông báo :” Hơn 300
năm trước đây phán quyết của ṭa thánh
đối với Galilê là sai lầm, những phát hiện
khoa học của Galilê là chính xác". Nguyễn Công Hùng của xứ Nghệ c̣n là con chiên giáo
phận Vinh và có tên thánh là Phanxicô Xaviê, vị thánh quan
thầy các xứ truyền giáo đă ảnh hưởng
mạnh mẽ đến suy nghĩ và cách làm của Hùng,
khi anh mở công ty để giúp đỡ những
người có cùng cảnh ngộ như ḿnh, như một
Hiệp Sĩ Công Nghệ Thông Tin và như một hiệp
sĩ của Chúa Giêsu. Trong những ngày nầy, Nguyễn
Công Hùng đang dẫn đầu một đoàn đi
cứu trợ anh chị em các vùng bị lũ lụt
ở Nghệ An và Hà Tĩnh.
Một nhân vật “Hùng” thứ ba mà chúng ta nói
tới hôm nay, nhân vật chính của đoạn Tin
Mừng. Xin được gọi tên Ông là Abraham
Nguyễn-Anh-Hùng, tức là Za-kêu của quá khứ! Abraham, v́
Chúa Giêsu đă nói về ông như thế: ”người
nầy cũng là con cháu Abraham” và v́ quyết định
của ông chỉ có nơi một người thật
sự can đảm, một anh hùng, MỘT “MÔN ĐỆ”
CỦA Abraham, Cha của kẻ tin. Ông khác xa với thói
hợm hỉnh của người Biệt Phái trong Tin
Mừng Chúa Nhật vừa qua và dù không có những lời
nói và cử chỉ thống hối như đồng
nghiệp cũng trong dụ ngôn ấy, nhưng ḷng
thống hối của ông thể hiện qua hành
động, cho thấy ḷng quảng đại của
một hối nhân chân thành. Ông khác xa với Hêrôđê dâm ô
loạn luân chỉ v́ một điệu nhảy của
một đứa con gái sa đoạ độc ác mà
sẵn sàng cắt tặng một nửa nước
(vốn thực sự chẳng phải của một tay
vua bù nh́n như y). Ông cũng khác ngừời thanh niên nhà
giàu xụ mặt bỏ đi, khi Chúa Giêsu dạy anh
phải bán hết của cải, phân phát cho người
nghèo, như là điều kiện để đi theo
Người. Da-kêu cũng không lén la lén lút đi gặp Chúa
giữa đêm hôm, ḥng tránh tai mắt và lời đàm
tiếu của các đồng nghiệp và đồng
sự Pharisêu. Với ông, “đă yêu th́ nói là yêu; không yêu th́
nói một điều cho xong”! Abraham Nguyễn-Anh-Hùng – Zakêu
– đă chiến thắng bản thân v́ đă nên giống
như Cụ Tổ Abraham: nghe tiêng Chúa gọi - từ
đất màu mỡ xứ Ur hay từ trên cành cao cây sung -
để bỏ hêt tất cả, khi theo Chúa. Ḷng tin ấy
không phải ai cũng có được. Thánh Clêmentê thành
Rôma chứng nhận rằng về sau Zakêu trở thành
bạn đồng hành của Thánh Tông Đồ Phêrô và cùng
giảng dạy ở Roma với Thánh Phaolô, cuối cùn
đă tử v́ đạo dưới tay hoàng đế
Nêrông v́ Danh Chúa Giêsu Kitô. Ông đă ngẩng cao đầu và
trả mọi nợ nần cho người La Mă, những
kẻ ngày trước đă cám dỗ và bắt ông làm tôi
mọi cho danh lợi. Ông mang đến Roma không phải là
những lời chúc dữ, mà là Tin Mừng, v́ nó mà Ông không
chỉ hy sinh bạc tiền, mà c̣n cả mạng sống.
“Vượt lên chính ḿnh” là chương
tŕnh truyền h́nh phát vào mỗi tối thứ bảy, có
lẽ là chương tŕnh có ư nghĩa nhất dành cho
người nghèo: vượt qua được hai ṿng thi
theo ngành nghề của họ được chọn
ở khắp ba miền, gia đ́nh ấy sẽ xóa
được số tiền họ nợ ngân hàng (mà
tự thân không làm sao họ trả được) và được
rút bảng “cấp vốn”
vơi những món tiền được các công ty tài
trợ khá lớn. Có khi cả tiền xóa nợ và cấp
vốn lên đến gần 30 triệu đồng, một
con số mà các gia đ́nh nghèo ấy có nằm mơ cũng
không dám nghĩ tới. Da-Kêu – hay là Abraham Nguyễn-Anh-Hùng
của chúng ta – đă “vượt qua chính ḿnh” sau khi đă
cố gắng xóa mặc cảm tự ti v́ thân h́nh
thiếu ni tấc, bằng việc làm quan to, tiền
nhiều bạc lắm, nay được Chúa Giêsu “cấp
vốn” để ông không chỉ xóa được sự
nghèo nàn tâm hồn những ngày tháng quá khứ, để
từ nay quyết tâm trở nên giàu có trong ân sủng.
BTGH CN 04.11.2007
◙
PHỤ TRANG:
VIỆT-NAM
7 NGÀY QUA
+ (LĐ 24.10) VN trở thành
nhà cung cấp tôm lớn nhất vào Mỹ. Theo số
liệu nhập khẩu thuỷ sản vừa
được Bộ Thương mại Mỹ công
bố, VN trở thành nhà cung cấp lớn nhất về
tôm cỡ lớn từ 15 trở xuống vào thị
trường này. Trung Quốc là nhà cung cấp hàng
đầu về tôm bao bột bánh ḿ đông lạnh, song
khối lượng xuất khẩu lại giảm
khoảng 18,8% ,trong khi đó Thái Lan là nhà cung cấp hàng
đầu về tôm đông lạnh các loại, nhưng
khối lượng xuất khẩu cũng giảm 3,8%.
Bên cạnh thị trường Mỹ, theo đánh giá
của Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu
thuỷ sản VN, kim ngạch xuất khẩu thuỷ
sản của VN vào các thị trường Nhật, EU,
Trung Quốc, Ba Lan và Ukraina cũng tăng mạnh trong các
tháng qua.
+ (ND 24.10) Lương
tối thiểu khối doanh nghiệp trong nước
sẽ tăng từ 20% đến 38%. Theo đó,
đối với các doanh nghiệp trong nước, dự
kiến mức lương tối thiểu tăng
khoảng từ 20% đến 38% (tuỳ theo vùng);
đối với các doanh nghiệp liên doanh với
nước ngoài (FDI) mức lương tối thiểu
theo quy định của Nghị định số
03/2006/NĐ-CP tăng khoảng từ 13% đến 15%
(tuỳ theo vùng). Việc điều chỉnh mức
lương tối thiểu kể trên bắt đầu
thực hiện vào 1-1-2008.
+ (TuoiTre 24.10) Ô nhiễm ch́
trong không khí vượt mức cho phép đến 200
lần. Theo kết quả quan trắc môi trường
không khí do Trạm quan trắc môi trường TP Cần
Thơ thực hiện từ đầu năm 2007
đến nay cho thấy hàm lượng ch́ (Pb) trong không khí
tại nhiều điểm trên địa bàn đang
tăng lên đáng báo động, vượt mức cho phép
từ 1 đến hơn 200 lần. Trạm quan trắc, cảnh
báo ch́ và các hợp chất của nó đều là những
chất cực độc. Khi bị nhiễm ch́, cơ
thể rơi vào trạng thái hưng phấn, mất
ngủ, gây mệt mỏi. Về lâu dài sẽ làm rối
loạn thần kinh, tuần hoàn và ảnh hưởng
nhiều bộ phận khác; đối với trẻ em,
ch́ có thể gây chậm phát triển trí tuệ...
Nguyên nhân chính ô nhiễm
ch́ gia tăng do lượng xăng (nhiên liệu) pha ch́
đáng kể vẫn đang được sử
dụng, các phương tiện tham gia lưu thông tăng
nhanh.
+ (TTXVN 25.10) VN kư Công
ước LHQ về quyền của người tàn
tật. Công ước này, được Đại
hội đồng Liên hợp quốc nhất trí thông qua
ngày 13-12-2006, nhằm thúc đẩy, bảo vệ và
bảo đảm cho người tàn tật
được hưởng thụ đầy đủ và
công bằng tất cả các quyền con người và các
quyền tự do, đồng thời chú trọng
đề cao nhân phẩm của người tàn tật.
Theo thống kê mới nhất của Liên hợp quốc,
khoảng 10% dân số thế giới, tức 650 triệu
người, bị tàn tật dưới h́nh thức này hay
h́nh thức khác. 80% số người tàn tật sống
tại các nước đang phát triển, trong đó
tỉ lệ người tàn tật ở phụ nữ cao
hơn nam giới. Người tàn tật được
coi là những người bị thiệt tḥi nhất
với 1/3 trong số họ sống dưới mức
nghèo. Công ước Liên hợp quốc về quyền
của người tàn tật, được coi là công
ước đầu tiên của Thế kỷ 21 về
quyền con người, đă được 118
nước kư kết, trong đó có 6 nước phê
chuẩn gồm: Giamaica, Hunggari, Panama, Crôatia, Cuba và Ấn
Độ. Công ước sẽ có hiệu lực ngay sau
khi có đủ 20 nước phê chuẩn.
+ (ND 25.10) Kim ngạch
xuất khẩu đạt 39 tỷ USD. Theo Bộ Công
thương, trong tháng 10, kim ngạch xuất khẩu
cả nước ước đạt 4,2 tỷ USD, nâng
tổng kim ngạch xuất khẩu 10 tháng lên 39,059 tỷ
USD. Tính đến hết tháng 10, cả chín nhóm hàng của
câu lạc bộ một tỷ USD đều đă về
đích, gồm thủy sản hơn 3 tỷ USD, cà-phê 1,55
tỷ USD, gạo 1,36 tỷ USD, dầu thô 6,5 tỷ USD,
dệt may 6,41 tỷ USD, giày dép 3,19 tỷ USD, đồ
gỗ 1,9 tỷ USD, điện tử và linh kiện máy tính
1,73 tỷ USD, cao-su 1,088 tỷ USD.
+ (TTXVN 25.10) Tập đoàn Mỹ
muốn đầu tư 4 tỷ USD vào Bà Rịa-Vũng
Tàu. Tập đoàn Winvest Investment (Hoa Kỳ) cho biết
đă quyết định tăng vốn đầu tư
xây dựng dự án này từ 300 triệu USD ban đầu
lên 4 tỷ USD.Dự án Khu du lịch nghỉ mát giải trí
đa năng của Tập đoàn Winvest Investment đă
được Bộ Kế hoạch và Đầu tư
cấp phép từ tháng 4/2006 với diện tích 300ha. Tuy
nhiên, nhận thấy tiềm năng, cơ hội phát
triển du lịch tại đây, Tập đoàn đă
quyết định nâng vốn đầu tư để
xây dựng khu du lịch mang tầm vóc quốc tế.
Dự án do ông Dario - người đă từng thiết
kế ṭa tháp đôi Petronas ở Malaixia, thiết
kế.Dự án sẽ cần khoảng 10.000 lao động
và sau khoảng 5 năm nữa sẽ bắt đầu khai
thác từng phần.
+ (ThanhNien 26.10) Giá tiêu dùng leo
thang trở lại. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10
lại tăng mạnh tới 0,74%. Trong đó, dẫn
đầu là nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng,
tăng 1,51%. Tuy lùi về vị trí thứ hai, song nhóm hàng
ăn và dịch vụ ăn uống vẫn tăng rất
mạnh và biến động khó lường. Nếu
như trong tháng 9, tốc độ tăng giá của nhóm
này là 1,02% th́ trong tháng 10 đă lên tới 1,09%. Theo số
liệu Tổng cục Thống kê vừa công bố
chiều nay, riêng thực phẩm đă tăng tới 1,19%
trong khi lương thực tăng 1,11%.
+ (VietnamNet 26.10) Từ 1-12,
hạn chế mang chất lỏng lên máy bay. Cục Hàng không VN
đă có văn bản hướng dẫn việc cấm
mang chất lỏng trong hành lư xách tay lên các chuyến bay.Theo
đó, từ 1-12-2007, mỗi hành khách chỉ
được phép mang tối đa 1.000ml chất lỏng
theo hành lư xách tay nhưng sẽ phải chia nhỏ thành
từng 100ml một.Các loại chất lỏng như
rượu, nước hoa, nước đóng chai, mỹ
phẩm...sẽ không được mang theo hành lư xách tay
thông thường như trước. Túi
đựng chất lỏng phải trong suốt (theo tiêu
chuẩn Tổ chức Hàng không dân dụng thế giới)
để có thể thấy vật chứa bên trong.
Thuốc (chất lỏng) chữa bệnh phải kèm theo
đơn có ghi rơ họ tên, địa chỉ của
người kê đơn thuốc và họ và tên
người sử dụng thuốc phù hợp với
thẻ lên máy bay
+ (Thanh Niên 27.10) Hà Nội, TP
HCM ô nhiễm bụi hàng đầu châu Á. Ngày 26.10,,
đồng loạt tại các nước trên thế
giới, Chương tŕnh môi trường liên hợp
quốc công bố bản báo cáo GEO-4, báo cáo mới nhất
đánh giá hiện trạng bầu khí quyển, đất
đai, nước và đa dạng sinh học trên thế
giới trong ṿng 20 năm qua. Đây cũng là báo cáo
đầy đủ nhất của Liên Hiệp Quốc
về môi trường, do hơn 390 chuyên gia soạn
thảo. Theo đó, Việt Nam, tuy được đánh
giá cao về việc trồng rừng ngập mặn,
nhưng vẫn có môi trường xấu đi đáng
kể. Một bản đánh giá chỉ số môi
trường bền vững, công bố tại một
hội nghị ở Davos, Thuỵ Sĩ năm ngoái, cho
biết Việt Nam được xếp cuối cùng
về môi trường trong 8 nước Đông Nam Á. C̣n
theo cảnh báo mới đây của Ngân hàng thế
giới, nước ta sẽ là một trong hai quốc gia
bị ảnh hưởng nặng
nề nhất khi nước biển dâng. "Có
những đoạn trên hệ thống sông Nhuệ -
Đáy, sông Đồng Nai - Sài G̣n, ôxy hoà tan gần như
bằng không, trở thành những ḍng sông chết", ông
nói.Nếu tính đến các tổn thất môi trường,
th́ "có ư kiến cho rằng GDP năm nay của chúng ta
không thể đạt mức 8,5%, mà chắc chắn là
thấp hơn thế, có thể chỉ 4-5% thôi".
+ ( VnExpress 28.10) Nhập siêu
đă xấp xỉ 9 tỷ USD. Theo số liệu
Bộ Công thương vừa công bố, trong 10 tháng
đầu năm, kim ngạch xuất khẩu đạt
39 tỷ USD trong khi nhập khẩu lên tới 47,9 tỷ USD.
Đến hết tháng 10, toàn bộ 9 nhóm hàng của câu
lạc bộ 1 tỷ USD đều đă về đích.
Trong đó, thủy sản đạt kim ngạch hơn 3
tỷ USD, gạo 1,36 tỷ USD, cà phê 1,55 tỷ USD, dầu
thô 6,5 tỷ USD, dệt may 6,41 tỷ USD, giày dép 3,19 tỷ
USD, điện tử và linh kiện máy tính 1,730 tỷ USD,
đồ gỗ 1,9 tỷ USD và mới nhất là cao su 1,088
tỷ USD. Nhập khẩu tiếp tục đà tăng
mạnh, trong tháng 10 đă nhập về 5,2 tỷ USD giá
trị hàng hóa nâng mức nhập khẩu lên đến 47,9
tỷ USD tăng 30% so với cùng kỳ năm ngoái. Dẫn
đầu về tăng tốc nhập khẩu là ôtô nguyên
chiếc và linh kiện ôtô với mức tăng
tương ứng là 116% và 73%. Thép thành phẩm tăng 63%,
máy móc và thiết bị phụ tùng tăng 57%.
+ (Nhân Dân 28.10) Sáng lập
viên và điều kiện thành lập Quỹ xă hội,
quỹ từ thiện. Sáng lập viên thành lập
quỹ phải có đủ điều kiện sau đây:-
Công dân Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên, có
đủ năng lực hành vi dân sự được
thành lập quỹ;- Tổ chức của Việt Nam, doanh
nghiệp liên doanh và doanh nghiệp có 100% vốn đầu
tư nước ngoài được thành lập hợp
pháp tại Việt Nam, có khả năng đóng góp tài
sản cho quỹ theo cam kết, được ban lănh
đạo tổ chức, doanh nghiệp nhất trí thành
lập quỹ bằng văn bản và quyết
định cử người đại diện đứng
ra lập quỹ;- Cá nhân, tổ chức được
thừa kế theo di chúc mà có nghĩa vụ thực
hiện yêu cầu lập quỹ của người
để lại tài sản hoặc yêu cầu của người
hiến tặng tài sản thông qua hợp đồng
để lập quỹ th́ được đại
diện đứng ra lập quỹ;
- Cá nhân, tổ chức
nước ngoài được góp tài sản với cá nhân,
tổ chức Việt Nam để thành lập quỹ
ở Việt Nam.
+ (TTXVN 29.10) Đắk Nông
mở lớp bổ túc thần học khóa 2. Viện Thánh
Kinh Thần học thuộc Hội thánh Tin lành Việt Nam
(Miền Nam) phối hợp với chính quyền tỉnh
Đắk Nông vừa khai giảng lớp bổ túc
thần học khóa 2, tại Chi hội Tin lành thị xă Gia
Nghĩa.Khóa học có 39 học viên là các truyền
đạo t́nh nguyện Tin lành tại địa phương,
chủ yếu là người các dân tộc thiểu số
như M’Nông, Mông, Ê Đê và Dao.Trong sáu tháng, các học viên
sẽ được học các môn như thần học
giải kinh, truyền đạo pháp, khảo học kinh
thánh, tiểu tiên tri, lịch sử hội thánh và tổ
chức hội thánh hiến chương, do các mục
sư thuộc Hội thánh Tin lành Việt Nam hướng
dẫn
+( ND 30.10) Sẽ có 27
trường đại học đào tạo theo
chương tŕnh nước ngoài. Theo Bộ Giáo dục
và Đào tạo, hiện nay có 9 trường đại
học đào tạo theo chương tŕnh nước ngoài
bằng tiếng Anh. Đến năm 2010, có khoảng 27
trường đào tạo theo mô h́nh này. Sắp tới
sẽ có những trường đại học phối
hợp giữa Việt Nam và nước ngoài. Hiện nay,
ĐHQG Hà Nội và ĐH Quốc gia TP. Hồ Chí Minh có
chương tŕnh phối hợp với Pháp. Dự kiến
năm 2008 sẽ mở ĐH Đức - Việt ở Việt
Nam và sẽ thành lập trường ĐH Khoa học Công
nghệ; chủ yếu sử dụng lực lượng
giáo sư, tiến sĩ của Viện Khoa học, công
nghệ Việt Nam.
+ (TTXVN 30.10) Đồng bào có
tín ngưỡng tin tưởng vào Đảng, Nhà
nước. Ngày 29/10, phát biểu trong phiên thảo
luận tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khoá
XII, (trực tiếp truyền h́nh),Hoà thượng Thích
Thanh Tứ, nói rằng đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về
tôn giáo đă có những tác động tích cực nhất
định trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo
của đồng bào Việt Nam. Năm 2007, Ban tổ
chức Đại lễ Phật Đản Liên hiệp
quốc đă tin tưởng, chính thức bàn giao cho Giáo
hội Phật giáo Việt Nam tổ chức đăng cai
Phật Đản của Liên hiệp quốc tại
Việt Nam vào tháng 5/2008 với sự tham gia của các nhà
lănh đạo Phật giáo các nước trên thế
giới. HT Thích Thanh Tứ công khai nêu tên HT Thích Quảng
Độ (gọi bằng “ông” TQĐ) để cho mọi
người thấy âm mưu và hành động sai trái
“phản nước hại dân”và ngược Phật pháp
của HT Thích Quảng Độ.
+ (VietnamNet 3010) Mở cửa
ảnh "nuy". Lần
đầu tiên tại Việt Nam, một triển lăm
ảnh chuyên đề "nuy" (nude) sẽ
được tổ chức tại 93 Đinh Tiên Hoàng, Hà
Nội từ ngày 24 đến hết ngày 27.11.Triển lăm
ảnh có tên Xuân th́ gồm 48 bức ảnh nude
nghệ thuật của nghệ sĩ nhiếp ảnh Thái
Phiên (TP.HCM) đă được Sở Văn hóa - Thông tin
Hà Nội kư ngày 2.10.2007, cấp giấy phép mang tính
"lịch sử" đối với loại h́nh
nhiếp ảnh nghệ thuật này,.Theo thông tin mà chúng tôi
có được th́ tại Việt Nam chưa từng có
một triển lăm chuyên đề về ảnh nude
nghệ thuật nào tương tự, kể cả ở
miền Nam trước năm 1975.
+ (TTXVN 30.10) Cả nước tăng hơn 11.000 trẻ
sơ sinh so với cùng kỳ 2006. 9 tháng của năm 2007, cả
nước có 828.639 trẻ sơ sinh chào đời,
tăng 11.363 trẻ so với cùng kỳ năm ngoái, trong
đó có nhiều địa phương tăng cao như:
Hà Nội, Cao Bằng, Bạc Liêu, Hải Dương...
Riêng Tiền Giang tăng gấp hai lần.