COÂNG GIAÙO – TOÂNG TRUYEÀN BẢN TIN GIÁO HỘI SỐ 86 (Năm II) (TUẦN TỪ 03.06
ĐẾN 10.06.2008)
|
Trong
số nầy.
|
TIN TỨC HỘI THÁNH CÔNG-GIÁO
GIỚI THIỆU
► TÀI LIỆU THẦN HỌC
KITÔ HỌC Ở ĐẦU THẾ
KỶ XXI (1/2)
► T̀M HIỂU KINH THÁNH.
TINH THẦN TRÁCH NHIỆM VÀ
LIÊN ĐỚI
TRONG CỘNG ĐOÀN
► ĐỌC
& SUY GẪM
MUỐI CHO ĐỜI
► VẤN ĐỀ HÔM NAY
TỐ GIÁC TỆ PHÂN BIỆT ĐỐI
XỬ VỚI PHỤ NỮ
◙ PHỤ LỤC :
GỢI Ư SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT
X TN (Năm A)
◙
PHỤ TRANG:
VIỆT-NAM 7 NGÀY QUA
TIN TỨC
HỘI THÁNH CÔNG GIÁO |
VĂN KIỆN MỚI CỦA
(CWNews
29.05)
NHỮNG NGƯỜI BẢO
VỆ SỰ SỐNG CHUẨN BỊ PHẢN ĐỐI
VIÊN THUỐC KIỂM SOÁT SINH ĐẺ
(CAN 27.05) Liên Minh Hoa Kỳ V́ Sự Sống (ALL) cho biết các chuẩn bị của họ cho ngày toàn quốc phản đối chống lại viên kiểm soát sinh đẻ đang được tăng cường sức mạnh, Những người bảo vệ sự sống dự định những cuộc phản đối vào ngày 07.06 bên ngoài các cơ sở phát viên thuốc nầy v́ nó được coi là có tính chất phá thai. ALL cùng với những người bảo vệ sự sống Wisonsin và Các Dược Sĩ Bảo Vệ Sự Sống Quốc Tế tổ chức các cuộc phản đối. Những nhà hoạt động cho quyền phá thai cho biết họ cũng đang chuẩn bị chống lại phản đối.
CON SỐ LINH MỤC HÀN QUỐC TĂNG.
NỖ LỰC KIÊN TR̀ ĐỂ CỔ VŨ ƠN THIÊN
TRIỆU
(UCAN 27.05) Mặc dù con số linh mục và chủng sinh ở Hàn Quốc tăng từ năm 2006 đến 2007, các giới chức Giáo Hội cho biết những nỗ lực kiên định nhằm cổ vũ ơn thiên triệu c̣n quan trọng hơn các con số. Năm 2007, con số linh mục – theo thống kê do HĐGM Hàn Quốc đưa ra ngày 15,05 vừa qua - lần đầu tiên vượt ngưỡng 4.000, đạt 4.116 linh mục, tăng 142 vị so với năm 2006, không kể 32 giám mục. Con số chủng sinh cũng tăng sau 5 năm sụt giảm. Thống kê nầy cũng cho biết con số giáo dân Hàn Quốc năm 2007 là 4.873.447,tăng 2,2% so với năm 2006, bằng 9,7% của dân số 50.034.357 người. Con số nữ tu cũng tăng lên 9.861 (hơn 91 người so với năm 2006) và nam tu sĩ có 1.539 (tăng 95 vị). Tổng cộng co 1.511 giáo xứ và 1.084 điểm truyền giáo trong 15 Giáo phận và Nha Tuyên Úy Quân Đội.
TỔNG THỐNG UCRAINA MỜI
ĐỨC GIÁO HOÀNG TÔNG DU
(CWNews
27.05) Tổng thống Ucraina Victor Yushchenco đă mời Đức
Thánh Cha Biển-Đức XVI thăm viếng
HANS KUNG CA NGỢI CÁC NỖ
LỰC [ĐỐI THOẠI] LIÊN TÔN CỦA ĐỨC THÁNH
CHA
(CWNews 27.05) Trả lời phỏng vấn của hăng tin APCOM, nhà thần học chống đối Hans Kung đă mô tả cuộc đối thoại với Hồi giáo của Đức giáo hoàng Biển-Đức XVI như một kết quả tích cực triều đại giáo hoàng của Người. Là một người thường xuyên chỉ trích Đức giáo tông, Kung nói rằng các nỗ lực của Đức giáo hoàng trong lănh vực nầy “nằm trong đường hướng xây dựng đạo đức học toàn cầu” (Chính Hans Kung rất nỗi bât trong nỗ lực triển khai một học thuyết đạo đức học thống nhất vượt qua các ranh giới tôn giáo). Hans Kung nói rằng sau khi đă khuấy động sự tức giận của người Hồi với bài diễn văn Regensburg, Đức giáo hoàng “đă có khả năng tự sửa sai”: “Từ quan điểm Kit6o-giáo,Hồi giáo là một tôn giáo có tính bạo lực.Nhưng khi bạn nói với người Hồi, họ sẽ nói cho bạn rằng chưa có quốc gia Hồi giáo nào đă tấn công một quốc gia Kitô-giáo bao giờ”.
ĐỨC HỒNG Y KASPER HỘI
KIẾN VỚI THƯỢNG PHỤ CHÍNH THỐNG NGA
(CAN 27.05) Chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Xúc Tiến Hiệp Nhất Kitô Giáo, ĐHY Walter Kasper, đang ở Nga để gặp gỡ cộng đồng Công giáo ở đó và hội kiến với Thương phụ Chính Thống Nga Alexis II. Toà Thánh cho biết mục đích của chuyến đi nầy,”cùng với một cuộc gặp gỡ cá nhân của ĐHY Kasper với cộng đồng Công giáo ở Mạc Tư Khoa và với các giới chức hàng đầu Giáo Hội Chính Thống Nga, là để tiếp xúc với một số kho tàng tôn giáo và văn hoá của truyền thống Nga”.
GIÁO HỘI
(AsiaNews
27.05) Năm Kinh Thánh bắt đầu ở
TRUYẾN CHỨC LINH MỤC
ĐÂU TIÊN VỚI ĐỨC TGM Ở MẠC TƯ KHOA
(AsiaNews 25.05) Lễ truyền chức linh mục đầu tiên được cử hành bởi Đức GM Paolo Pezzi, được chỉ định năm ngoái làm TGM Giáo Phận Mẹ Thiên Chúa ở Mạc Tư Khoa, diễn ra ngày 24.05 tại Siant-Petersburg trong thánh đường Công giáo Đức Mẹ Mông Triệu, cho phó tế Nicolaj Vojtechovic, 31 tuổi, đến từ Belarus. Tân linh mục theo học tại chủng viện Đức Maria,Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ kể từ năm 2004. Năm 2007 đă nộp luận án tú tài về Thánh Thể như nguồn gốc ḷng xót thương trong linh đạo Thánh Fuastina Kowalska. Hiện chủng viện c̣n có 19 ứng sinh linh mục và 12 thầy ḍng. Tính từ năm 1996, đă có 28 chủng sinh được truyền chức linh mục. Đức Cha Paolo Pezzi cũng là bề trên chủng viện hiện nay.
400.000 TẤM THIỆP CHỐNG AN
TỬ
(Zenit 27.05) Ở Pháp,400.000 tâm thiệp chống lại trợ-tử thay cho lời kêu gọi của”Liên Minh V́ Các Quyền Sự Sống”. Chủ tịch Liên Minh,bác sĩ Xavier Mirabel,nhà ung thư học, cũng là điều phối viên y học của mạng điện tử “SOS Cuối Đời” mỗi năm đồng hành với hàng ngàn người đương đầu với thảm kịch bệnh tật và chết. Liên Minh đă tung ra một chiến dịch quy mô toàn quốc gửi bưu thiếp đến các nghị sĩ Pháp, nhằm chống lại mối đe doạ cho phép chích thuốc gây chết. Đa số các đại biểu,cũng như chính phủ, cho rằng phải áp dụng và làm cho hiểu biết hơn về luật cuối đời,nhưng cuộc vận động hành lang an tử đă gia tăng những can thiệp của các phương tiện truyền thông và chính trị để đạt được đ̣i hỏi của họ. Liên Minh V́ Các Quyền Sự Sống nhận được rất nhiều lời kêu gọi giúp đỡ của những người phải đương đầu với sự chuẩn bị ĺa đời của một người thân mà thiếu những nâng đỡ đặc thù. Thật không b́nh thường chút nào khi ở nước Pháp quyền được tiếp cận những điều trị rất tốt, nhưng những điều trị giảm đau lại không được thực hiện nhiều hơn. Lúc đầu Liên Minh chỉ in 200.000 thiệp,nhưng trước sự huy động khổng lồ, phải in thêm 200.000 nữa.
ROMA SẼ TIẾP ĐÓN MỘT HỘI
NGHỊ THÊ GIỚI VỀ HIẾN PHỦ TẠNG
(Zenit 27.05) Huấn quyền Hội Thánh nói ǵ về việc hiến tặng phủ tạng? Đâu là vai tṛ các phương tiện truyền thông xă hội về vấn đề nầy? Làm sao đấu tranh chống nạn buôn bán phủ tạng? Tất cả những câu hỏi ấy sẽ được tranh luận trong hội nghị quốc tế về hiến tạng và ghép phủ tạng sẽ diễn ra ở Roma vào mùa thu tới đây. Hội nghị có tên là “Một qùa tặng cho sự sống. Nhận định về hiến tặng phủ tạng”, sẽ tổ chức từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 11 tại Thính Pḥng Conciliazione,gần kề Vatican, do Hàn Lâm Viện Giáo Hoàng v́ sự sống, Liên Hiệp quốc tế các Hiệp hội y khoa Công giáo và Trung Tâm Quôc gia Ư về cây ghép đồng tài trợ. Chủ tịch Liên Minh, bác sĩ Josep Maria Simón Castellví,người Tây Ban Nha, nói: Hiến tặng phủ tạng là “một h́nh thức đặc biệt của t́nh liên đới con người và bác ái Kitô-giáo. Tạo thuận lợi cho các bệnh nhân dùng phủ tạng của ḿnh liên kết một cách rất rơ ràng con người với nhau…Việc hiến tặng phủ tạng là một quà tặng cho sự sống,nhưng bổn phận của chúng ta cũng phải nói về những lạm dụng cấy ghép và buôn bán phủ tạng trên thế giới”.
GIÁM MỤC CHÍNH THỐNG CHIA
SẺ HIỆP LỄ VỚI TÍN HỮU CÔNG GIÁO
(CWNews 27.05) Một giám mục Chính Thông Rumani đă chia sẻ rước lễ với người Công giáo, gây xúc động mạnh mẽ trong một đất nước mà người Công giáo Byzantin và người Chính Thống có một lịch sử quan hệ căng thẳng. Trong nàgy dâng hiến thánh đường giáo xứ Nữ Vương Hoà B́nh ở Timisoara,25.05, Đức TGM Chính Thống Nicolae Corneanu giáo phận Banat đề nghị chia sẻ Hiệp Lễ. Vị TGM tiến lại bàn thờ và nhận Thánh Thể từ chính tay Ngài. Đức GM ông giáo Rumani Alexandru Mesian giáo phận Lugoj là vị chủ lễ Phụn Vụ Thánh trong Giáo hội Công giáo Byzantin; Đức TGM Francisco-Javier Lozano, sứ thần Toà Thánh, ũng có mặt. Mặc dù các giám mục Chính Thống và Công giáo thừong hợp nhau trong các việc đại kết va khi dịp th́ tham dự các củ hành phụng vụ của nhau, nhưng họ không chia sẻ Hiệp lễ - một dấu chỉ bất hoà trong sự hiệp thông hội thánh giữa các giao hội Chính Thống và Toà Thánh. Việc làm nầy của vị giám mục Chính Thống khiến Ngài sẽ phải đưa ra một lời giải thich hợp lư và văn kiện của Toà thượng phụ Chính Thống Rumani c̣n nói rằng những quan hệ đại kết với Giáo Hội Công giáo “vốn đă dễ vỡ,không thể dược giúp đỡ, mà c̣n bị làm cho thêm phức tạp” do việc làm ấy.
TỔNG THỐNG
(CWNews
28.05) Theo tờ nhật báo Ư La
Repubblica: Tổng thống Mahmoud Ahmainejad hy vọng
hội kiến Đức Thánh Cha Biển-Đức XVI
trong cuộc công du tới Roma để tham dự một
hội nghị của Tổ Chức Lương Nông LHQ
(FAO) từ ngày 3 đến 5 tháng 6.. Vatican không lộ ra
bất kỳ một kế hoạch nào cho một cuộc
hội kiến giữa Đức Giáo Tông và nhà lănh
đạo gây tranh căi nước
GIÁO HỘI TĂNG TRƯỞNG Ở CHÂU PHI,
SÚT GIẢM Ở CHÂU ÂU
(CWNews 27.05) Một ấn bản mới niên giám thống kê của Giáo Hội Công giáo cho thấy tỷ lệ Công giáo trên dân số thế giới vào khoảng 17,3%. Con số Công giáo ở Châu Phi tăng vọt từ 130 triệu vào năm 2000 lên 158,3 triệu vào năm 2006, trong khi đó tăng trưởng rất nhẹ tại Châu Mỹ và Châu Đại Dương và ổn định ở Châu Âu và Châu Á. Con số linh mục trên thế giới tăng nhẹ trong cùng thời kỳ đó, 2000 – 2006, từ 405.178 lên 407.262. Tuy nhiên sự tăng trưởng không trải đều qua các châu lục. Ở hâu Phi, con số linh mục vụ lên 23% và ở Châu Á là gần 18%; nhưng ở Châu Mỹ con số linh mục gần như không thay đổi, trong khi ở Châu Đại Dương giảm 4,4% và Châu Âu giảm 5,8%. Nam tu sĩ thế giới cũng tương tự, giảm sút 12% ở Châu Âu,không thay đổi ở Châu Mỹ, tăng ở Châu Á và nhảy vọt trên 30% ở Châu Phi. Nữ tu teên thế giới giảm sút từ 800.000 năm 2000 xuống c̣n 750.000 vào năm 2006, do con số nữ tu ở Châu Mỹ và Châu Âu giảm mạnh.
PHỤC HỒI NGÔI MỘ LỚN NHẤT
CỦA HẦM MỘ
(CAN 28.05) ĐHY Angelo Comastri, phụ trách Đền Tḥ Thánh Phêrô ở Vatican, thông báo ngày 27.05 tại một cuộc họp báo: Trong hâm mộ nằm dưới Đền Thờ Thánh Phêrô, nơi có các ngôi mộ từ các thế kỷ đầu của Giáo Hội và một số gia tộc Roma, lăng lớn nhất đă được phục hồi lại. Lăng mộ nầy co niên đại từ thế kỷ thứ 2 trước CN và rất nỗi tiếng về các bài trí h́nh đắp nổi, đă bị hư hại do vi khí hậu không ổn định trong nghĩa trang nầy và do không sử dụng các nguyên vật liệu thích hợp ở lần phục hồi đầu tiên.
MA TÚY, BẠO LỰC VÀ PHÁ HOẠI LÀ ĐẶC TRƯNG CUỘC
DIỄU HÀNH ĐỒNG TÍNH Ở
SAO PAOLO
(CAN 28.05) Trộm cắp,ma túy,bạo lực, ưa phá hoại các công tŕnh văn hoá là đặc trưng của cuộc diễu hành đồng tính hằng năm lần thứ 12 diễn ra ở Sao Paolo,Ba Tây, tuần vừa qua. Theo tin tức báo chí đưa, các nhà hoạt động đồng tính nam c̣n t́m cách chiếm một khoảng không gian dành cho các phóng viên. Một người bị thương do xe diễu hành va trúng,trong khi có 200 người nhập viện v́ dùng ma túy quá liều và uống rượu quá nhiều. Một nữ sinh viên bị tấn công. Cảnh sát cho biết đă lập biên bản 50 vụ trộm cắp, nhưng chỉ một người bị tạm giữ. Cuộc diễu hành đồng tính nam truyến thống hằng năm nầy đượ qũy công tài trợ, với chi phí 225.000 USD.
(UCAN
28.05) Abdul Modsith Ghazali, 37 tuổi,tiến sĩ nghiên cứu
Hồi giáo năm 2007,điều phối viên nghiên cứu của
JIL ( Mạng Hồi Giáo Cấp Tiến có trụ sở ở
Jakarta),giảng viên về tôn giáo và triêt học tại Đại
học Paramadina và đại học Hồi giáo quốc gia ở
Jakarta do Hồi giáo điều hành, nói quan điểm của
ông về thuyết đa nguyên ở nước ông: Tín đồ
Hồi giáo tạo thành đa số dân Indonesia nhưng quốc
gia nầy sẽ không bao giờ trở thành một quốc
gia Hồi giáo, bởi v́ xă hội của nó mang tính đa
nguyên tôn giáo. Ông chỉ ra rằng để cho thuyết đa
nguyên triển nở, đặc biệt tín đồ Hồi
giáo địa phương phải đối thoại với
nhau. Vị học gỉa Hồi giáo nầy đă nghiên cứu
Kitô-học tại Trường Triết học Driyarkara ở
TÔNG THƯ XĂ HỘI ĐẦU TIÊN CỦA
ĐỨC THÁNH CHA BIỂN-ĐỨC XVI CÔNG BỐ VÀO MÙA THU?
(APIC 28.05) Tông thư thứ ba và là tông thư về xă hội đầu tiên của Đức Thánh Cha có thể có tựa đề “Caritas in veritate”( Bác ái trong chân lư) sẽ không được công bố trước Mùa Thu. Đó là lời loan báo của ĐHY Tarcisio Bertone trong một cuộc phỏng vấn dành cho hăng tin Ư APCOM, ngày 27.05.2008 khi Ngài vừa trở về từ Ucraina. Tông thư đang trong giai đoạn soạn thảo. Đức Thánh Cha không muốn lập lại những điểm chung của họ thuyết xă hội Giáo Hội, mà muốn đem đến một số yếu tố độc đáo thích ứng với những thách đố của thời đại chúng ta: vần đề toàn cầu hoá và những vấn nạn đang khiến cộng đồng quốc tế lo âu, như là khủng hoảng lương thực, biến đổi khí hậu. Đó là những chủ đề mà Giáo Hội có thể tiếp cận và định hướng theo quan điểm đạo đức.
Ngày công bố tông thư nầy bị tŕ hoăn không ngừng, ban đầu là lễ Phục Sinh, sau đó là vào Mùa hè. Tông thư đ̣i hỏi rất nhiều công sức và khó mà tiên báo ngày công bố chính xác
CÁC BÁC SĨ PHỤ KHOA VÀ SẢN KHOA Ở
(CAN 29.05) Trong mộ văn kiện chứa đựng 15 kết luận từ một “hội thảo về Pḥng ngừa Nạo Phá thai” do Liên Minh các Hội Phụ Khoa và Sản Khoa Ecuador tổ chức tại Bệnh Viện Enrique Sotomayor ở Guayaquil, nơi mỗi ngày có 100 trẻ em được sinh ra, các bác sĩ nhất trí về sự cần thiết phải bác bỏ nạo phá thai như một cách thức giải quyết các vấn nạn liên quan đến sức khoẻ phụ nữ. Các kết luận nầy nhận định rằng những thành viên của Liên Minh không ủng hộ nạo phá thai bất cứ loại nào. Họ nói : “Sự sống không thể bị v phạm từ thời khắc thụ thai. Việc loại bỏ một sinh linh vô tội luôn luôn không thể chấp nhận được xét về mặt đạo đức và y học”..,.”Ai chồi bỏ rằng sự sống bắt đâu ngay khi thụ thai, th́ không có vấn đề với tôn gíao,mà là với khoa học. Chối bỏ điều chắc chắn về sinh học nầy không phải là tỏ ra thiếu đức tin,mà là thiếu hiểu biết căn bản về di truyền học con người và tệ hại hơn nữa, ấy là thiếu văn hoá đơn sơ tổng quát”. Họ tuyên bố : “Bác sĩ là tác nhân sự sống, chứ không phải là đại diện cho sự chết. Đừng quên rằng nạn nhân thứ hai của một vụ nạo phá thai là người mẹ nạo phá thai. Chúng ta phải nhớ rằng một bà mẹ bỏ con ḿnh khỏi bụng ḿnh dễ dàng hơn là khỏi tâm trí và con tim ḿnh”. Liên Minh dự tính gửi văn kiện nầy tới các cấp cao nhất trong chính phủ và tới các thành viên Hội Đồng Lập Pháp đang soạn thảo một hiến pháp mới và đang chịu áp lực từ nhóm ủng hộ phá thai
‘HÔN NHÂN’ ĐỒNG TÍNH LÀ
CHỐNG LẠI CÁC GIỚI HẠN SINH HỌC CỦA CON NGƯỜI
(CAN 28.05)
ĐHY Antonio Maria Rouco Marela,TGP Madrid, đă nói rằng ư thức
hệ giới tính và các luật do nó gợi hứng, như
là những kẻ bỏ qua cái gọi là ‘hôn nhân đồng
tính” là một biểu hiện chống lại các giới hạn
sinh học của con người. Các lời b́nh luận nầy
của ĐHY ở trong một cuốn sách mới có tựa
đề “Phỏng Vấn 12 Giám Mục Tây Ban Nha”, do Isidro
Catela, mà tiền bán sách sẽ tặng cho công việc mục
vụ ở
(CWNews
30.05) Vatican ủng hộ một sắc lệnh do Đức
TGM Raymond Burke giáo phận
SẮC LỆNH VẠ TUYỆT
THÔNG CHO NHỮNG AI THAM GIA
TRUYỀN CHỨC LINH MỤC NỮ GIỚI
(CWNews
31.05)
CẢNH SÁT
(CNN 29.05) Một phát ngôn nhân của cảnh sát,Micky Rosenfeld, nói ngày 28.05 : Các điều tra viên dự định xem lại các h́nh ảnh và đoạn phim cho thấy một số rất lớn sách Tân Ước đang bị đốt trong thành phố Or – Yehuda. Những nguồn tin ở Israel dẫn lời Uzi Aharon, phó thị trưởng Or-Yehuda, nói rằng ông đă tổ chức các sinh viên đốt nhiều trăm cuốn Tân Ước. Tờ Bưu Điện Giêrusalem đưa tin: Ông đă cho đài phát thanh và truyền h́nh Israel phỏng vấn và sau đó nói với các đài truyến h́nh Nga, Ư và Pháp, “giải thích với thính giả bị xúc phạm nặng nề rằng ông ta không hề có ư định đốt các sách Kinh Thánh và cố gắng xóa đi sự bất lợi do tin tức rằng người Do Thái đốt Tân Ước”. Aharon nói với Hăng tin CNN rằng ông gom các sách Tân Ước lại nhưg không có ư định hoặc tổ chức đốt sách. Thay vào đó, ba thiếu niên đă châm lửa vào đống sách Tân Ước khi ông ta đi vắng.
(CWNews 30.05) Một nhật báo Chilê, tờ El Mercurio, đưa tin: Thành phố Vaticn sẽ sớm gia nhập Interpol (cảnh sát quốc tế). Tờ nhật báo nói rằng trong Hội Nghị Châu Âu lần thứ 37 của Tổ Chức Tộ Phạm Quốc Tế, -Interpol - diễn ra ở Vilnius,Lithuania, sẽ thông báo việc Vatican trở thành thành viên thứ 187 của tổ chức nầy.
HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ GIÁO DÂN
LẬP TRANG ĐIỆN TỬ VỀ NỮ GIỚI
(Zenit 30.05) Trang mới nầy (www.laici.org) là kết quả hội nghị “Người Nữ và Người Nam,con người trong toàn thể của nó”, do Hội Đồng Giáo Hoàng nầy tổ chức ở Roma từ ngày 7 đến 9 tháng 02 trong khuôn khổ mừng kỷ niệm 20 năm Tông thư “Mulieris Dignitatem” (Phẩm Giá Phụ Nữ) của Đức Gioan-Phaolô II. Rocio Figueroa Alvear, phụ trách mục “Phụ Nữ” trong Hội Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân, khẳng định rằng tính chất mới mẻ nầy là hậu quả “sự quan tâm do 280 đại biểu đến từ khắp nơi trên thế giới bày tỏ”, cho thấy rơ ràng sự quan trọng của việc “theo đuổi suy tư nầy trong các hội thảo” và việc “xiết chặt các mối liên hệ giữa các phong trào, tổ chức và cá nhân cụ thể đang hoạt động để cổ vũ phẩm giá và sứ mệnh của nữ giới”. Ngài nói :” Đây là một diễn đàn mở và không chinh thức”, cho mọi người muốn đưa ra các đề nghị “những nội dung nghiên cứu và đào sâu : các giáo huấn Giáo Hội liê quan đến nữ giới, cũng như những t́m ṭi nghiên cứu và phân tích của các chuyên gia và các nhà trí thức”. Trang Web nầy được dâng cho Đức Maria.
CÁC QUYỀN CON NGƯỜI
CẦN THIẾT ĐỂ CÓ HOÀ B̀NH BỀN VỮNG
(CNS 30.05) Nói với 9 vị tân đại sứ bên cạnh Toà Thánh của các nước Tanzania,Uganda,Liberia, Chad, Bangladesh, Belarus,Guinea,Sri Lanca và Nigeria đến tŕnh ủy nhiệm thư, Đức Thánh Cha Biển-Đức XVI nói sự tôn trọng các quyền con người, giàn xếp các xung đột qua thương thuyết và cải thiện giáo dục là những yếu tố chủ yếu để củng cố hoà b́nh và thúc đẩy phát triển. Đức Thánh Cha trao cho mỗi vị đại sứ một thông điệp gửi cho quốc gia ấy.
CỬ HÀNH THÁNH LỄ ĐẶC
BIỆT LỄ THÁNH PHAOLÔ TRỞ LẠI
(CAN 31.05) Năm Thánh Phaolô đang đến mau và để chuẩn bị mừng Thánh Tông Đồ Dân Ngoại, được phép cử hành Thánh Lễ kỷ niệm Sự Trở Lại của Thánh Phaolô, NGÀY 25.01.2009,vào một ngày Chúa Nhật. Thông thường các ngày lễ xảy đến trùng các ngày Chúa Nhật th́ bị dời lại vào một ngày thường trong tuấn, v́ Chúa Nhật dành để cử hành sự phục sinh của Chúa Giêsu. Sắc lệnh nầy được ĐHY Francis Arinze và Đức TGM Albert Malcolm Ranjith,Tổng trưởng và thư kư Thánh Bộ Phương Tự và Kỹ Luật Bí Tích,kư.
LUẬT DỰ ĐỊNH
HỢP PHÁP HOÁ NẠO PHÁ THAI Ở
BA-TÂY BỊ NHẤT TRÍ BÁC BỎ.
(CAN 30.08) Uỷ Ban An Ninh Xă Hội và Gia Đ́nh Ba Tây đă nhất trí bỏ phiếu nhằm loại bỏ một luật mới định hợp pháp hoá nạo phá thai. Tất cả 33 thành viên Uỷ Ban đều bỏ phiếu chống lại luật nầy. Các nhà làm luật muốn cuộc tranh luận về luật nầy được tiếp tục ở ṿng bốn, đă rút lui sau khi không hội đủ sự ủng hộ. Tổ chức Defesa da Vida (Bảo Vệ Sự Sống) nói có hai đại biểu lúc đầu cho biết họ sẽ bỏ phiếu ủng hộ luật [nạo phá thai], với lập luận rằng nếu hợp pháp hóa th́ con số nạo phá thai sẽ giảm. Defesa da Vida nói những lập luận kiểu ấy lừa dối và gây lầm lạc, v́ khi được hợp pháp hoá rồi, th́ con số nạo phá thai trong các quốc gia tăng vọt.
NHỮNG ĐỒN ĐOÁN THAY
THẾ ĐHY LAVADA BẰNG ĐHY SCHONBORN LÀ VÔ CĂN CỨ
(CAN 31.05) Trả lời một tin trong tờ nhật báo Ư La Repubblica rằng ĐHY Christoph Schonboern có thể trở thành Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin, người phát ngôn của TGP Vienne,Erich Leitenberger, cho biết lời đồn đoán nầy là vô căn cứ. Tờ nhận báo Đức Der Standard, lấy lại tin nầy từ tờ La Repubblica, nói rằng ĐHY Schonborn đang lên đường nhận chức và ĐHY Levada sẽ về lại Mỹ.
KITÔ
HỌC Ở ĐẦU THẾ KỶ XXI (1/2)
Robert A. Krieg,
chuyên gia về Kitô-học đương đại và là
giáo sư thần học ở Đai học Đức
Bà,Hoa Kỳ, kín múc trong sự nghiệp giảng dạy và
nghiên cứu lâu dài để giải thích một cách rơ ràng
sự vào cuộc của vấn đề Kitô-học
đối với thế giới đương thời.
Một dẫn nhập hết sức tốt cho
Kitô-học. Bước vào Tháng Sáu, tháng Hội Thánh dâng kính
tôn thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu, BTGH xin giới thiệu bài
biết về Kitô-học, để đào sâu thần hoc
T́nh Yêu nơi Chúa Giêsu Kitô – Con Người và Thiên Chú, cũng
như hiểu v́ sao nhiều nhà thần học rơi vào những
lập tường sai trái ngược vơi đức
tin và giáo huấn Giáo Hội. Một đức tin vững
mạnh phát xuất từ một Kitô-học vững vàng.
Cảnh tượng Kinh Thánh nầy rất quen thuộc : Chúa Giêsu quay về phía các môn đệ và hỏi : « Ngừơi ta bảo Thầy là ai ? ». Họ nói với Người : « Gioan Tẩy Giả ; người khác th́ cho là Êlia ; với những kẻ khác th́ là một trong các tiên tri ». Người hỏi họ : « Nhưng với các con, Thầy là ai ? ». Phêrô trả lời : « Thầy là Đấng Kitô » (Mc 8,29).
Mặc dù cuộc gặp gỡ đă diễn ra cách nay hơn hai ngàn năm, vấn đề vẫn luôn có tính thời sự. Với mỗi Kitô-hữu, bất kể ở vào thời kỳ nào, Đức Chúa Giêsu hỏi : « Nhưng với con, Thầy là ai ? ». Và chúng ta trả lời giống như Phêrô.
Môt bệnh nhân ở giai đoạn cuối sẽ xem xét một cách mới mẻ điều mà người đó tin thật sự về sự đau khổ,về cái chết và về sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô. Khi chuẩn bị kết hôn, một người nam và một người nữ sẽ trao đổi với nhau về cách thức họ quan niệm về cuộc sống lứa đôi trong tương quan với Đức Chúa phục sinh. Khi đưa tay giúp đỡ những người vô gia cư, một người nào đó sẽ cảm nhận được rằng chính giữa các phụ nữ,trẻ em và những người đàn ông người đó kề vai sát cánh trong căn pḥng được xây dựng lại nầy,mà người đó gặp được Chúa Kitô. Câu Chúa Giêsu hỏi – « C̣n các con,các con bảo Thầy là ai ? » - có rất nhiều câu trả lời, kể cả câu trả lời sau đây : « Thầy là Đấng Thiên Sai bị đóng đinh, là Chúa Kitô ở Cana và là Con Người giữa những người nghèo khó ». Cứ mỗi lần chúng ta thử nói Chúa Giêsu là ai đối với chúng ta, th́ chúng ta đang làm Kitô-học. Kitô-học là nỗ lực người ta làm để hiểu được căn tính của Chúa Giêsu như là chính Chúa Kitô, hư là Đấng được Thiên Chúa xức dầu, như là Con Thiên Chúa và Ngôi Thứ Hai trong Ba Ngôi. Chúng ta không bao giờ đề cập đến câu hỏi nầy với tư cách là những khán giả. Như Thánh Phêrô hoặc Mác-ta (Ga 11,27), chúng ta đă dấn thân sâu xa với Đức Chúa Giêsu. Với chúng ta, suy tư về căn tính của Chúa Giêsu, tức là gợi lên đồng thời các quan hệ của Chúa Kit6o với chúng ta, với các môn đệ của Người và cả với những kẻ chưa hề nghe nói về Người. Những ǵ cấu thành đức tin của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô là chính yếu cho đời sống cá nhân của chúng ta và của Hội Thánh. V́ vậy, chất lượng cuộc sống mọi ngày của chúng ta, chất lượng sự lưu tâm của chúng ta đối với nhau và chất lượng sự tham dự Thánh Lễ là tùy thuộc vào chiều sâu câu trả lời của chúng ta về căn tinh của Chúa Giêsu Kitô.
Từ ngữ Kitô-học tất nhiên là một từ chuyên môn. Nó chỉ một lănh vực những chuyên biệt hoá thuộc hàn lâm thường tỏ ra ẩn khuất mập mờ, thừa thải một cách đáng thất vọng đối với nhiều Kitô-hữu. Tuy vậy, đó cũng là một đề tài mang tính sáng tạo và xung đột trong Hội Thánh ngày nay.
Như nhiều diễn giả của Commonweal biết rơ, Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin (CDF) đă xem xét tính chính thống của một vài thần học gia Công giáo : trong những người nỗi trội nhất, hai tu sĩ Ḍng Tên Roger Haight và Jacques Dupuis. Những công tŕnh đặc trưng bị đặt lại vấn đề là Jesus Symbol of God [Chúa Giêsu Biểu tượng của Thiên Chúa] (Orbis 1999) của Haight và Vers une théologie chrétienne du pluralisme religieux [ Hướng tới một nền thấn học Kitô giáo của chủ nghĩa đa nguyên tôn giáo] (NXB Cerf, 1997) của Dupuis. ĐHY Joseph Ratzinger [ nay là Đức giáo hoàng Biển-Đức XVI.BTGH] và CDF đă bày tỏ sự hồ nghi của các Vị về những nỗ lực do Haight và Dupuis thực hiện nhằm hoà giải giáo lư Kitô học truyền thống với những vấn nạn thúc bách nối liền với văn hoá đương thời và với các tôn giáo ngoài Kitô-giáo. Tôi sẽ trở lại với Haight và Dupuis, nhưng trước hết tôi muốn phác thảo toàn cảnh thần học được mở rộng của cuộc thảo luận.
KITÔ-HỌC TỪ TRÊN CAO và
KITÔ HỌC TỪ DƯỚI THẤP
Những thập niên vừa qua đă nh́n thấy nỗi lên hai cách thức tách biệt nhau về suy tư mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô. Những ǵ được biết như là « Kitô-học từ trên cao » khởi đầu với Ngôi Thứ Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa, với Ngôi Lời Thiên Chúa đă có từ trước, trong tương quan của Người với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh. Phương pháp luận nầy xuất phát một cách « đi xuống » cho tới Mầu Nhiệm Nhập Thể, cho tới biến cố trong đó Ngôi Lời, Ngôi Thứ Hai, trở thành người nơi Chúa Giêsu Kitô. Cuối cùng, bước tiếp cận Kitô học nầy lôi kéo sự chú ư của chúng ta về cách thức mà Ngôi Lời hoá thành nhục thể đă chịu đau khổ và đă chết v́ tội chúng ta, rồi sống lại từ kẻ chết và trở lại « bên hữu » Chúa Cha. Cách thức suy nghĩ nầy về Chúa Giêsu Kitô, cách truyền thống nhất, thường được gọi là Kitô-học « từ trên cao », do nó nhấn mạnh đến Thiên tính của Chúa Giêsu Kitô. Những ví dụ quan trọng của lối tiếp cận nầy có thể được t́m thấy trong Dẫn nhập vào Kitô giáo (Introduction to Christianity) của Joseph Ratzinger (1968), Đức Kitô (Le Christ. NXB Caillou Blanc,181) của Jean Galot,Ḍng Tên, trong Giáo Lư Giáo Hội Công giáo (Catéchisme de l’Église Catholique, 1994) và trong tuyên bố của CDF, Dominus Jesus (05.12.2000). Một Kitô học từ trên cao cũng thấm đẫm các bài viết của Romano Guardini và của Hans Urs von Balthasar.
Cách suy tư thứ hai về mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô được gọi là « Kitô-học từ dưới thấp ». Các nhà thần học nào chọn cách tiếp cận nầy th́ khởi đi từ khuôn mặt nhân loại của Chúa Giêsu. Thông thường nhất, phân tích khởi sự hoặc từ việc xem xét tổng quát về những ǵ muốn chỉ một con người hoặc từ việc tái cấu tạo nhân vật lịch sử Giêsu, người Do Thái ở Galilêa trong thời kỳ vua Hêrôđê Cả ( mất năm 4 trước CN) và con ông,Hêrôđê Antipas (mất năm 39). Loại tư duy thần học nầy tiến hành sau đó bằng phương pháp « đi lên », với một suy tư về sự kết hợp độc nhất của Chúa Giêsu với Thiên Chúa trong khi Người c̣n sống nơi dương thế, sự kết hợp toát ra một cách tỏ tường, trong lời Người cầu nguyện với Thiên Chúa mà Người gọi là « Abba », qua những lời Người giảng dạy, cũng như trong quyền uy cá nhân phi thường của Người và ḷng trắc ẩn của Người đối với những người khác, kể cả trong các phép lạ Người làm. Cuối cùng, Kitô-học « từ dưới thấp » nầy t́m cách thâm nhập vào mầu nhiệm đau khổ của Chúa Giêsu, cái chết và sự phục sinh của Người, vừa tự hỏi v́ sao Chúa Kitô c̣n hơn cả một người tử v́ đạo trong hnững kẻ khác và vừa cũng tự đặt nghi vấn về tính chất đặc thù của các lần Người hiện ra sau khi sống lại. Kitô-học « từ dứơi thấp » mang đặc thù của việc nó nhấn mạnh nhân tính của Chúa Giêsu Kitô. Chung chung và ở một mức độ nhất định, nó dựa trên các kết quả những phân tích phê-b́nh lịch sử Kinh Thánh. Chúa Giêsu : Ḷng Trắc Ẩn của Thiên Chúa (1983) của Monika Helwig ; Chúa Giêsu trong Tiêu điểm (1983) của Gerard Sloyan, cũng như cuốn Chúa Giêsu : Một chân dung Tin Mừng (1992) của Donald Senior,cp và Kitô học (1995) của Gerard O’Collins,Ḍng Tên, là những ví dụ được thừa nhận rộng răi của cách tiếp cận nầy. Leonardo Boff, Gustavo Gutierrez,Hans Kung,Karl Rahner, Edward Schillebeeckx, Elisabeth Schussler Fiorenza và Jon Sobrino được đồng hoá với Kitô-học « từ dưới thấp ».
Hai cách thế tư duy về Chúa Giêsu Kitô nầy đều dựa trên Kinh Thánh và Tín Lư. Kitô học « từ trên cao » lấy nguồn hứng từ lời mở đầu Phúc Âm Thánh Gioan : »Và Ngôi Lời đă hoá thành nhục thể và đă cư ngụ giữa chúng ta, (...)đầy ân sủng và chân lư » (Ga 1,14). Đối ngược, Kitô-học « từ dưới thấp » coi trọng chứng từ mà « Chúa Giêsu đă lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết và Người đă được nhậm lời v́ có ḷng tôn kính » (Dt 5,7).Hơn nữa,cả hai phương pháp nầy cắm neo trong giáo lư do Công đồng Cancêđôni (451) công bố, khẳng định rằng Chúa Giêsu Kitô là « Thiên Chúa thật » và là « người thật » trong « cùng một ngôi vị ». Nói cách khác, Kitô-học dạy chúng ta rằng Chúa Giêsu Kitô hợp lại tất cả những phẩm chất Thiên Chúa (như sự toàn năng) và tất cả những nét của hữu thể nhân loại (như là một nhận thức giới hạn và rơ ràng ). Hẳn nhiên, giáo lư (Công đồng ) Cancêđônia diễn tả nghịch lư ở ngay trung tâm đức tin Kitô-giáo vào Chúa Giêsu Kitô - sự hiện diện của hai bản thể trong cùng một ngôi vị - đă làm nẩy sinh hai Kitô-học, « từ trên cao » và « từ dưới thấp ».
Trong mỗi cách tiếp cận nầy đều có những điểm mạnh và những điểm yếu. Công trạng của Kitô-học « từ trên cao » là nó nhận thức được Chúa Giêsu Kitô trong ḷng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, từ đó mà đưa ra ánh sáng thiên tính của Người và tính chất duy nhất của Mầu Nhiệm Nhâp Thể : Ngôi Lời Thiên Chúa đă trở nên con người một cách tṛn đầy trong một cá nhân duy nhất,Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên, do viễn cảnh cũng như những phạm trù « đi xuống » của nó, Kitô-học « từ trên cao » có nguy cơ không nói lên đủ về nhân tính tṛn đầy của Chúa Kitô. Một Kitô-học « từ trên cao » có thể mặc nhiên thông truyền một ảo thần thuyết (docetisme), lập trường theo đó Con Thiên Chúa chỉ có dáng vẻ bề ngoài của một hữu thể nhân loại trong khi Người sống trên trần gian mà thôi. Hơn thế, nó có khuynh hướng đọc Tân Ước hoàn toàn qua những cặp kính của lời mở đầu Phúc Âm theo Thánh Gioan hoặc các thư thời kỳ tù ngục của thánh Phaolô,như là thư gửi tín hữu Côlôxê, trong đó không đả động ǵ tới sự đa dạng – có người cho đó là những mâu thuẫn - của chứng từ của Giáo Hội sơ khai liên quan đến Chúa Kitô, và do vậy đến mức độ nào đó, bỏ qua sự phức tạp của căn tính Chúa Kitô.
Một trong các công trạng của Kitô học « từ dưới thấp » là nó nhấn mạnh đến sự liên đới của Chúa Kitô với chúng ta. « Người đă làm việc với đôi bàn tay con người ;Người đă tư duy với sự trí thông minh con người ; Người đă hành động với một ư chí con người » (Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng,22). Kitô-học « từ dưới thấp » cho chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu đă « bị thử thách trong mọi sự, giống như chúng ta,ngoại trừ tội lỗi » (Dt 4,15). Một công trạng khác của cách tiếp cận nầy nữa, ấy là ngày nay nó nói với rất nhiều người. Bởi v́ khuynh hướng hiện tại là tư duy bằng các từ ngữ lịch sử, chúng ta muốn biết Chúa Giêsu đă sống thời kỳ nào, Người đă thâm nhập thế giới Do Thái thời đó ra sao và v́ sao Người tượng trưng cho mối đe doạ đối với người La Mă như vậy. Một Kitô-học “từ dưới thấp” tập trung vào khuôn mặt nhân loại của Chúa Giêu Nazzaret mà không thờ ơ với Chúa Giêsu như là Đức Kitô, như là Con Thiên Chúa. Nguy cơ của cách tiếp cận nầy là nói quá ít điều về thiên tính của Chúa Kitô và sự phi thường duy nhất của Người trong ḷng lịch sử. Nói cách khác, Kitô học “từ dưới thấp” có thể tiến hóa hướng tơi nhất tính thuyết (Ebionisme), lạc giáo vốn quan niệm Chúa Giêsu đơn thuần chỉ là một con người được tràn đầy Thánh Linh khi chịu phép rửa mà thôi.
NHỮNG ĐIỀU TRA
MỚI ĐÂY CỦA
Chính nguy hiểm nầy, đánh mất tầm nh́n về thiên tính của Chúa Giêsu Kitô, mà ĐHY Ratzinger [nay là Đức Giáo Hoàng Biển-Đức XVI] đă muốn chống lại khi cho công bố Dominus Jesus, vào ngày 05.09.2000. Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin đă tuyên bố : Chúa Giêsu Kitô “đang gặp hiểm nguy ngày nay v́ những giả thuyết duy tương đối. V́ thế trên hết mọi sự, cần phải tái khẳng định tính chất vĩnh viễn và trọn vẹn Mạc Khải của Chúa Giêsu Kitô”. Sáu tháng sau đó (26.02.2001), như là phần tiếp theo của Dominus Jesus, ĐHY Ratzinger đă loan báo rằng Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin đă kết luận hai năm điều tra về cuốn sách của Jacques Dupuis.Từ nay, tất cả mọi bản in cuốn Vers une théologie Chrétienne du pluralisme religieux (Hướng tới một thần học Kitô-giáo của thuyết đa nguyên tôn giáo) phải đính kèm một “thông báo phê b́nh” của Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin nhắc nhở tám nguyên tắc thần học thích đáng,trong đó bốn nguyên tắc sau đây liên quan một cách đặc thù tới Chúa Giêsu Kitô:
1).” Phải tin vững vàng rằng Chúa Giêsu Kitô,Con Thiên Chúa làm người, chị đóng đinh và đă sống lại, là Đấng trung gian duy nhất và phổ quát của ơn cứu độ cho toàn nhân loại
2). “Do đó sẽ đi ngược vơi đức tin Công giáo không chỉ với việc khẳng định một sự tách rời giữa Ngôi Lời và Chúa Giêsu hoặc một sự tách rời giữa hành động cứu độ của Ngôi Lời và [hành động cúu độ] của Chúa Giêsu, mà cả việc ủng hộ luận đề một hành động cứu độ của Ngôi Lời trong thiên tinh, độc lập với nhân tính của Ngôi Lời nhập thể”.
3). “V́ thế trái với đức tin của Gáio Hội khi ủng hộ rằng Mạc Khải qua/trong Chúa Giêsu Kitô bị giới hạn, không trọn vẹn hoặc không đầy đủ”.
4). “Đúng với giáo lư Công giáo khi khẳng định rằng những mầm giống chân lư và ḷng nhân hậu có ở trong các tôn giáo khác tham dự một cách nhất định vào các chân lư chứa đựng qua/nơi Chúa Giêsu Kitô. Ngược lại, cho rằng những yếu tố chân lư và ḷng nhân hậu nầy, hoặc một số trong các yếu tố ấy, không bắt nguồn một cách tối hậu từ sự trung gian - nguồn của Chúa Giêsu Kitô, là một quan niệm sai lạc”.
Theo Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin, bản thông báo ấy cần thiết để “tránh vịêc khi đọc tác phẩm sẽ không du nhập vào những lời nói hai nghĩa và những hiểu sai”. Jacques Dupuis đă trả lời rằng Ngài ủng hộ tám nguyên tắc thần học của Thánh Bộ TLĐT trong sách của Ngài, và những nhà phên b́nh cuốn sách cũng đồng ư với Ngài. Tuy vậy Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin muốn không c̣n chút nghi ngờ ǵ về những lời giảng dạy nầy. Dường như rơ ràng là ĐHY Ratzinger và Thánh Bộ TLĐT lo lắng về tính dễ hiểu của cuốn sách do ĐHY và Thánh Bộ cảm thấy bất an khó chịu về Kitô-học “từ dưới thấp”.
Dupuis ủng hộ giáo lư {Công dđồng] Cancêđônia về Chúa Giêsu Ktô,như là Thiên Chúa thật và là người thật, bằng cách tŕnh bày về Người như là “điều phổ quát cụ thể”. Ngài muốn qua đó nói rằng Chúa Giêsu Kitô vừa là Ngôi Lời vừa là một nhân vật lịch sử hoàn toàn duy nhất. Vừ giới thiệu Chúa Giêsu Kitô như Ngôi Lời phổ quát của Thiên Chúa Vĩnh Cửu trở thành người nơi Chúa Giêsu Kitô, Dupuis cũng làm nỗi bật cá thể mang tính lịch sử đă ban những lời giảng dạy của Người và đă biểu lộ chính ḿnh một cách nhất quyết qua văn hoá xứ Galilêa và qua niềm tin Do Thái của Người. Với những nét đặc thù mang tính lịch sử của Chúa Giêsu Kitô, Dupuis đă đề xuất rằng Ngôi Lời, cho dù đượ mạc khải trọn vẹn nơi Chúa Giêsu Kitô, luôn có tự do hành động trong nhiều biểu hiện khác cùng một lúc, tuy nhiên kém trọn vẹn hơn, qua lịch sử. Do tính chất phổ quát của Ngôi Lời, các truyền thống tôn giáo ngoài Kitô-giáo có thể tham dự vào sự trung gian của Chúa Giêsu Kitô. Mệnh đề nầy, có vẻ như bị tranh căi, đă được khích lệ trong tông thư của Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II Redemptoris Missio (Sứ Mệnh Đấng Cứu Chuộc) ngày 07.12.1990. Tóm lại, với việc phối hợp Kitô-học “từ trên cao” và Kitô-học “từ dưới thấp”, Dupuis đă khẳng định thiên tính của Chúa Giêsu Kitô và cùng lúc,nhân tính của Người.
(c̣n tiếp
một kỳ)
BTGH chuyển ngữ và giới thiệu.
Leonardo Boff, Gustavo Gutierrez,Hans Kung,Karl Rahner,
Edward Schillebeeckx, Elisabeth Schussler Fiorenza và Jon Sobrino , theo tác
giả bài viết nầy, được đồng hoá
với Kitô-học « từ dưới thấp ». Gần
đây chúng ta có linh mục người gốc Việt-Nam
Phan Đ́nh Cho,giáo sư đại học Georgetown,Hoa Kỳ,
cũng đă mắc vào sai lầm trong thần học và Kitô-học,
với cuốn sách « Being
Religious Interreligiously » (tạm dịch : Sống Đạo
theo cách thức Liên Tôn) đă khiến Ngài gặp rắc rối
với Toà Thánh, khi Thánh Bộ Tin Lư Đức Tin và cả HĐGM
Hoa Kỳ buộc Ngài phải đính chính và sửa đổi. Trong danh sách các linh mục
nêu trên, BTGH đă giới thiệu một số bài viết
phê b́nh suy tư và lập trường sai lầm của các
Vị, - trong đó có những vị chủ trương
Thần Học Giải Phóng như L.Boff hoặc J.Sobrino;
hoặc chống đối như Hans Kung, đă gây bao
đau khổ khó khăn cho Giáo Hội và ảnh hưởng
không nhỏ tới nhiều Kit6o-hữu. Xin vui ḷng
đọc lại trong BTGH số 9 ; 53 ;
54 ;v..v...và BTGH 76 (Tuyên Ngôn Dominus Jesus).
T̀M HIỂU KINH
THÁNH . T̀M HIỂU KINH THÁNH .T̀M HIỂU KINH THÁNH |
ĐỀ TÀI 63
TINH THẦN TRÁCH
NHIỆM VÀ LIÊN ĐỚI TRONG CỘNG ĐOÀN
Chương 5 thư thứ I gửi tín hữu Côrintô là một thí dụ điển h́nh minh chứng cho thấy t́nh trạng suy đồi luân lư trong cộng đoàn kitô tiên khởi. Đó là trường hợp loạn luân: một tín hữu sống như chồng với vợ kế của cha ḿnh. Chúng ta không biết rơ thánh Phaolô đă nhận được tin tức từ ai. Có thể là từ gia nhân của ông Cloe, là những người đă báo cho thánh nhân biết t́nh trạng chia rẽ trong cộng đoàn (1,11), hay cũng có thể từ các tín hữu tới thăm Phaolô tại Ephêxô như Stefana, Fortunato và Acaico (16,17-18). Văn bản cũng không cho biết người cha của tín hữu phạm tội loạn luân đó c̣n sống hay đă chết. Và người mẹ ghẻ ở đây chắc là người ngoại đạo. Như thế phải giải thích trường hợp này ra sao đây? Nội vụ chỉ là một trường hợp sa đọa luân lư, hay là loại hôn nhân tinh thần, trong nghĩa lấy nhau nhưng không giao hợp tính dục? Hoặc nó ám chỉ kiểu phô trương sự tự do tính dục, đựơc hiểu như dấu chỉ trưởng thành của cái tôi nội tại, không bị các diễn tả tính dục rừng rú làm tổn thương? Trước hết đó không phải là trường hơp hôn nhân tinh thần, bởi v́ ở đây thánh Phaolô khẳng định rằng lối sống vô luân đó cũng bị người ngoại giáo lên án nữa, chứ đừng nói tới kitô hữu. Tiếp đến nó cũng không phải là một trường hợp suy đồi luân lư, bởi v́ văn bản chương 6,12-20 có đề cập tới lập luận của những tín hữu tự coi ḿnh là những người mạnh mẽ được soi sáng, nên nghĩ rằng họ có phép làm mọi sự và áp dụng quan niệm đó vào trong cả lănh vực tính dục nữa (6.12). Do đó xem ra trường hợp loạn luân trên đây thuộc một phạm vi rộng lớn hơn. Nó là hậu qủa của chủ trương tự do tính dục, con đẻ của thuyết duy linh. Thuyết này chỉ đề cao con người nội tâm và coi mọi sự c̣n lại, kể cả cuộc sống tímh dục, chỉ là đồ vật, như đồ ăn thức uống để dùng không hơn không kém (6,13). V́ thế người chủ trương nó rao giảng qua lời nói và việc làm rằng các liên hệ tính dục là vô thưởng vô phạt đối với con người bị giản lược chỉ c̣n là tinh thần.
Phản ứng của Phaolô xem ra có thứ tự và phức tạp. Trước hết thánh nhân cho thấy sự phiền trách rơ ràng của ngài. Đây là tội vô luân trầm trọng tới độ cả nền luân lư buông thả ngoại giáo cũng không dung thứ. Tiếp đến thánh nhân phiền trách thái độ của cộng đoàn dung thứ và thờ ơ đối với một tội nặng như vậy. Thực là vô ư thức và mâu thuẫn biết bao! Các tín hữu kitô Côrintô dám tự cao tự đại là những người trưởng thành và toàn thiện, mà lại thờ ơ không hề bầy tỏ lập trường hay can thiệp dứt phép thông công người anh em phạm tội vô luân nặng như vậy. Tuy nhiên, thánh Phaolô không chỉ giới hạn trong việc phiền trách tội cố ư bỏ quên đó của tín hữu. Trái lại ngài ra lệnh cho họ triệu tập phiên họp, và ngài sẽ hiện diện trong tinh thần để xét xử vụ này.
Đây là một hành động thánh thiêng ra vạ tuyệt thông và chúc dữ tín hữu phạm tội loạn luân nói trên. Nói cách khác, nó là một lễ nghi phụng vụ lên án hữu hiệu. Giáo đoàn tụ tập nhau không được mời gọi tuyên án, mà chỉ là ṭa án chứng kiến vụ phán xử thánh thiêng mà thánh Phaolô đ̣i buộc thôi, bởi v́ chính thánh Phaolo từ xa đă tuyên án tín hữu nói trên rồi. Tất cả xảy ra ”nhân danh Chúa Giêsu”, và ”với quyền của Đức Giêsu Chúa chúng ta”, như thánh nhân viết. Phaolô tự giới thiệu như là dụng cụ sự quyết định của Thiên Chúa, hiện thực một cách bí tích ngay trong lời nói của thánh nhân. Và trong lễ nghị phụng vụ này thánh nhân tuyên đọc lời ra vạ tuyệt thông và chúc dữ cho kẻ phạm tội: ”Anh chị emh hăy khử trừ kẻ gian ác khỏi cộng đoàn”.
Đối với chúng ta lời phán xử có tính cách thánh thiêng này xem ra tối nghĩa, v́ nó là đặc điểm của một nền văn hóa cổ xưa mang sắc thái phù phép và có các lược đồ diễn tả sự chúc dữ của các thần linh, được tín hữu kêu cầu qua các lễ nghi thánh như là sét đánh trên các kẻ gian ác. Thế rồi số phận của người bị vạ tuyệt thông c̣n khó hiểu hơn nữa. Hắn bị nộp cho Satan, để cho ”thân xác bị hủy diệt” và cho ”tinh thần” được cứu rỗi trong ngày Chúa Kitô quang lâm. Ngoài việc nới tới Satan như dấu chứng của tâm thức coi thế giới là nơi ở của các thần dữ, như h́nh ảnh linh động diễn tả các lực lượng của sự dữ và của cái chết, nghĩa là một h́nh ảnh vô hại, lời nói liên quan tới sự hư mất của ”thịt xác” và ơn cứu rỗi của ”tinh thần” không có nghĩa như chúng ta thường hiểu, nghĩa là phần vật chất và phần linh thiêng nơi con người. Thật ra chúng ta biết rằng trong nền văn hóa semít hai từ thịt xác và tinh thần ám chỉ toàn con người trong hai khía cạnh đặc thù của nó, tức cái gịn mỏng và thực tại được Thiên Chúa làm cho sống động. Vậy sự hư mất của thịt xác ám chỉ cái chết của kẻ bị vạ tuyệt thông, bị bỏ mặc cho sức hủy hoại của các lực lượng ma qủy hoạt động bên ngoài không gian được che chở là Giáo Hội. Thế c̣n ơn cứu rỗi của tinh thần th́ ám chỉ cái ǵ? Có người nghĩ rằng nó ám chỉ viễn tượng của một ơn cứu rỗi đời đời của người bị vạ tuyệt thông. Như thế th́ án phạt giống như một liều thuốc có mục đích chữa bệnh. Phân tích cho cùng, th́ có lẽ thánh Phaolô nhắm tới mục đích tích cực chung kết đó. Nhưng cũng có người khác từ chối kiểu giải thích lạc quan lời phán xử của thánh Phaolô, mặc dầu vẫn chấp nhận tính cách bí hiểm của kiểu nói ”để cho tinh thần được cứu rỗi trong ngày của Chúa”. Có lẽ nó có nghĩa là sau cùng th́ tinh thần của kẻ bất xứng ấy bị lấy đi. Phải công nhận rằng chúng ta không thể luôn luôn hiểu thấu tư tưởng của thánh Phaolô và giải thích được các kiểu diễn tả bí ẩn của ngài. Kiểu nói trên đây là một trường hợp điển h́nh. Dầu sao đi nữa, xem ra văn bản không chứa đựng viễn tượng cứu rỗi cho người phạm tội loạn luân đă bị ném ra khỏi cộng đoàn và rơi vào ṿng tay của Satan. V́ sự hư mất của hắn ta lại không phải là điều mà vạ tuyệt thông và lời chức dữ muốn tạo ra hay sao? Phản đối để bênh vực trong trường hợp này có thể là nhiệm vụ của thần học giải nghi của các nhà luân lư, nhưng không phải là của thánh Phaolô. Phaolô không quan tâm đến số phận của kẻ loạn luân cho bằng muốn bênh vực cộng đoàn khỏi bị ảnh hưởng nguy hại của tội lỗi. Thật thế, v́ sau khi giải quyết vụ loạn luân này, thánh nhân chú ư tới bản chất của cộng đoàn giáo hội. Lời lẽ của thánh nhân có tính cách khuyến dụ, khích lệ và nêu bật chủ đề phục sinh. Nó không chỉ là các lời dậy bảo có tính cách luân lư và mời gọi thiện chí của tín hữu, mà đưa ra các lư lẽ thần học sâu sắc. Kitô hữu đă được ơn thánh Chúa hoạt động thánh hóa. Chính Phaolô đă nhọc công giật họ thoát khỏi qúa khứ nô lệ tội lỗi, và tạo ra cho họ một chân trời mới của cuộc sống tự do. T́nh trạng sống mới và tự do đó đ̣i buộc tín hữu phải có trách nhiệm chiến đấu cam go, không để cho các lực lượng tiêu cực của qúa khứ trở lại thống trị họ. Cuộc sống của họ hiện nay là cuộc sống tự do, đúng, nhưng một sự tự do thường xuyên bị đe dọa, v́ các lực lượng sự dữ không ngừng đánh phá để cướp tín hữu trở lại dưới ách thống trị của chúng. Cuộc sống kitô giữa ḷng Giáo Hội là cuộc sống có ơn thánh giải thoát của Chúa và nỗ lực chống lại các lực lượng xâm lăng của tội lỗi.
Thánh Phaolô đă dùng các h́nh ảnh trong lễ nghi vượt qua do thái để khai triển đề tài này. Chiên vượt qua bị sát tế là chính Đức Giêsu bị đóng đanh chết trên thập gía để đền tội thay cho nhân loại. Chính cái chết cứu chuộc đền bù đó đă mở ra một không gian mới của cuộc sống tự do, mà tín hữu được dẫn vào tham dự. Họ trở thành bánh không men hay bột mới, nghĩa là bánh không dậy men được dùng trong các ngày của tuần bắt đầu từ lễ vượt qua (x. Xh 12,15-20; 13,3-7). Men mà người do thái phải vứt ra khỏi nhà trong tuần bánh không men, ám chỉ thực tại sống tội lỗi, mà tín hữu đă được giải thoát, và họ phải dấn thân chiến đấu chống lại thực tại sống tội lỗi đó để khỏi bị nó tái xâm nhập. Kiểu giải thích ám tỷ của thánh Phaolô xem ra không luôn luôn mạch lạc, bởi v́ trong khi bánh không men vừa ám chỉ các kitô hữu vừa ám chỉ thái độ sống họ cần có, th́ men lại ám chỉ cung cách sống gian ác.
Lời khuyến dụ của thánh Phaolô dựa trên thực tại cứu độ Thiên Chúa đă hiện thực qua cái chết trên thập giá của Đức Giêsu Kitô. Các khẳng định của thánh Phaolô vừa ở thể vị biến (infinitivo) vừa ở thể sai khiến (imperativo). Loan báo và khuyến du, tín lư và luân lư, hiện hữu và hoạt động, gắn liền nhau như hai khía cạnh của cùng một thực tại làm thành bản chất cuộc sống của tín hữu. Khẳng định điều tín hữu ”là” (essere) sẽ không trung thực, nếu không đồng thời khẳng định điều tín hữu ”phải là” (deve essere) và ngược lại. Thật thế, bí tích rửa tội giải thoát tín hữu khỏi tội lỗi khiến họ được tự do, nhưng đàng khác tín hữu cũng phải tự giải thoát ḿnh khỏi tội lỗi. Sự tự do như là t́nh trạng được ơn thánh chiếm hữu, là sự cao cả sinh động, v́ thế nó đích thực trong sức bắn vọt hoạt động của việc dấn thân tự giải thoát. Nghĩa là theo thánh Phaolô, một đàng Thiên Chúa ban cho tín hữu ơn được tự do khỏi ách thống trị của tội lỗi, nhưng đàng khác tín hữu cũng phải tích cực hoạt động để tự giải thoát, đừng để cho ḿnh phải rơi trở lại vào ṿng kiềm tỏa của tội lỗi. Ơn tự do không phải là một đồ vật bất động, mà là một hạt giống qúy được gieo vào ḷng cuộc sống người tín hữu. Do đó cần phải nỗ lực tưới bón, chăm sóc, vun trồng nó mỗi ngày. Nếu không, ơn thánh Chúa có thể chết đi mà không sinh hoa trái. Nói cách khác, Phaolo nêu bật phần trách nhiệm của mỗi một tín hữu trong cuộc sống ḷng tin. Ơn cứu độ Chúa ban không phải là một thứ bùa chú tự động, mà là hạt giống có sức phát triển nẩy nở và sinh hoa trái thiêng liêng tùy thuộc sự cố gắng tiếp nhận và cộng tác đầu tư của mỗi người. Điều Phaolô muốn nhấn mạnh với tín hữu Côrintô ở đây là tinh thần đồng trách nhiệm và tinh thần trách nhiệm. Mỗi tín hữu đều có trách nhiệm đối với ơn cứu rỗi của chính ḿnh, và ơn cứu rỗi của người khác, trong nghĩa không ai có thể khoán trắng tương lai cứu độ của ḿnh cho người khác, và cuộc sống tội lỗi hay thánh thiện của mỗi người đều có ảnh hưởng tới ơn cứu độ của tha nhân.
THÔNG BÁO NĂM THÁNH PHAOLÔ |
|
CHUẨN BỊ SỐNG
NĂM THÁNH THÁNH PHAOLÔ 29.06.2008 – 28.06.2009 CŨNG LÀ HỌC HỎI VÀ
ĐÀO SÂU TÍN LƯ - THẦN
HỌC - MỤC VỤ QUA CÁC THƯ CỦA THÁNH PHAOLÔ
TÔNG ĐỒ. V̀ THẾ BẢN TIN GIÁO HỘI VỚI SỰ CHO PHÉP CỦA TÁC GIẢ
LINH MỤC LINH-TIẾN-KHẢI SẴN SÀNG KÍNH GỬI TÀI
LIỆU VỀ THÁNH PHAOLÔ ĐẾN TẤT CẢ NHỮNG AI
MUỐN CÓ TÀI LIỆU QUƯ BÁU NẦY. |
ĐỌC & SUY GẪM
MUỐI CHO ĐỜI
Ratzinger, Joseph
Benediktus XVI:
Salz der Erde: Christentum und
katholische
Kirche an der Jahrtausendwende
Bản dịch tiếng
Việt:
Muối Cho Đời: Ki-tô giáo
và GH Công giáo trước thềm ngàn năm mới. Trao-đổi với Peter
Seewald
Phạm Hồng-Lam &
Trần-Hoành
Chương I
VỀ CON NGƯỜI
Ta có thể dùng thần-học như
một tṛ chơi không, như nhà văn Hermann Hesse* đă viết trong tác-phẩm
“Glasperlenspiel”(Nhạc-cụ thủy-tinh) của ông?
Như vậy không
đủ. Tôi muốn nói rằng cũng có yếu-tố
tṛ chơi trong đó. Nhưng thần-học không nhằm
dựng lên một thế-giới giả-tạo, không
phải là một loại suy-nghĩ toán-học như trong
“Glasperlenspiel”, mà nó thực-chất là một cuộc
đụng-độ với thực-tại, với
mọi khía-cạnh và đ̣i-hỏi của nó. Như
vậy yếu-tố tṛ chơi là một phần của
thần-học, v́ tṛ chơi cũng đúng là một
thành-tố của cuộc sống con người, nhưng
nó không đủ để luận-bàn về
thần-học.
Ngài cũng ưa một tác-phẩm khác
của Hesse, cuốn “Steppenwolf” (Sói miền thảo-nguyên). Tiểu-thuyết
này được coi là một trong những tài-liệu
quan-trọng nhất nói về sự bi-quan văn-hoá và
chủ-nghĩa hiện-sinh trong giai-đoạn ban
đầu. Trong đó Hesse tả một con người
tâm-bệnh quá nhạy-cảm. Những dằn-vặt
nội-tâm của nhân-vật này cũng là một thứ
chẩn-đoán cơn bệnh thời-đại. Mô-tả
của Hesse có liên-hệ ǵ với con người ngài không?
Không. Lối
chẩn-đoán và tiên-đoán của cuốn sách quả là
một khám-phá đối với tôi. Một cách nào đó
cuốn sách loan-báo tất-cả những vấn-đề
mà chúng ta phài đối diện trong những thập niên
1960’, 1970’. Sách tả chỉ một nhân-vật, nhưng
nhân-vật đó đă tự phân thành nhiều dạng h́nh
để cuối cùng dẫn đến sự tự
huỷ ḿnh. Việc cường-điệu cái Tôi trong
đó cũng có nghĩa là sự huỷ-hoại chính nó. Nghĩa
là không có hai hồn trong một quả tim, mà chỉ là con
người đă bị huỷ-diệt. Tôi đọc
không phải để qui-chiếu vào ḿnh, nhưng dùng nó
như một ch́a khoá để thấu hiểu
trước và vạch trần vấn-nạn của con
người cô-đơn và muốn tự thu ḿnh vào
cô-đơn trong thời hiện-đại.
Quan-niệm về đa dạng nhân-cách,
nghĩa là người ta cho rằng con người không nên
giữ nguyên một bản-sắc, nhưng nên tạo cho
ḿnh nhiều nhân-cách, hôm nay có thể khoác cho ḿnh bộ
mặt này, mai có thể mang một bộ mặt khác. Quan-niệm
đó bắt đầu rộ nở thật sự trong
thời-đại chúng ta. Mọi chuyện đều có
thể. Cá-nhân không c̣n bị buộc chặt vào một khuôn
nào nữa, cuộc sống v́ thế là một cuộc
chơi không cùng với muôn cảnh muôn tṛ.
Chính cái
thay-đổi tuỳ-tiện đó làm cuộc sống
trở nên trống-rỗng. Cuộc đời không chỉ
đơn-thuần là một cuộc chơi. Nó quá
quan-trọng, v́ trong đó ta phải đối diện
với sự chết và đau-khổ. Con người có
thể để mất bản-sắc, nhưng không
thể trốn chạy khỏi trách-nhiệm, và quá-khứ
cuộc sống sẽ luôn mang nó về với trách-nhiệm
đó.
Và rồi ngài nghiễm-nhiên là một
giáo-sư, ngài đă dạy ở Bonn, Münster, Tübingen và
Regensburg. Nội-dung giảng-dạy của ngài mang chất
cải-cách. Hồng-y Joseph Frings ở Köln cuối cùng đă
mời ngài làm cố-vấn riêng. Thế rồi có
chuyện lạ xẩy ra. Công-đồng đă
được chuẩn-bị xong mọi chi-tiết
từ lâu. Nhưng sau khi hồng-y Frings đọc bài
diễn-văn nẩy lửa do cố-vấn ḿnh viết,
th́ mọi dự-thảo công-đồng bỗng-nhiên
được thảo lại và các phiên họp dự-trù
phải được sắp-xếp lại. Chuyện
thật xẩy ra như thế nào?
Như Karl Rahner
thường nói, không nên đánh-giá quá cao vai-tṛ cá-nhân. Công-đồng
là một tập-thể lớn, trong đó cá-nhân có thể
đưa ra những đóng-góp có tính-cách
quyết-định, nhưng chúng chỉ có thể thành h́nh
khi tập-thể muốn điều đó. Có thể
những người khác cũng đă nẩy ra những ư
như thế nhưng chưa diễn ra được,
tập-thể cũng đang chờ-đợi cái ǵ
đó.
Hoàn-cảnh của
Công-đồng lúc đó là : các nghị-phụ không
đến dự chỉ để thông qua những văn
bản đă soạn sẵn hoặc, có thể nói, để
làm công-việc chưởng-bạ. Nhưng, thể theo
chức-vụ ḿnh, các ngài đến để cùng nhau
gắng sức t́m cho ra từ-ngữ cần nói lên trong
thời-điểm đó. Ư-tưởng chung của các ngài
lúc đó là chính các ngài phải ra tay thực-hiện
nghĩa-vụ của ḿnh, không phải để gây
đảo-lộn đức tin, nhưng trái lại
để phục-vụ đức tin một cách
đúng-đắn. Theo cái nh́n đó th́ diễn-từ
khai-mạc của hồng-y Frings (cũng như
diễn-từ của hồng-y Liénart/Lille) thực ra
chỉ là nói lên điều các nghị-phụ đang
ư-thức.
Ngài đă viết ǵ trong diễn-từ đó?
Trước hết
nó không phải do tôi viết, đó cũng chẳng phải
là một diễn-văn. Chuyện thế này, Rôma lúc đó
đă có sẵn những danh-sách đề-nghị
người vào các bộ và các uỷ-ban. Nhiều vị
thấy như vậy chưa được. V́ thế
hồng-y Frings và cả hồng-y Liénart đưa tay góp ư là
chúng ta nên triển-hạn việc bầu, v́ cần
phải gặp nhau trước để biết ai
hợp với lănh-vực nào đă. Đó quả là
tiếng nổ đầu tiên khi Công-đồng bắt
đầu. Nếu nghĩ lại th́ đấy là
chuyện chẳng gay-gắt ǵ cho cam. Việc t́m ra
ứng-viên thích-hợp là chuyện thường-t́nh. Cái ư
bất-chợt của hai hồng-y cũng là ư của toàn
hội-nghị.
Chuyện thứ hai
xẩy ra khi bản văn về mạc-khải
được đưa ra để thảo-luận – câu
chuyện tôi kể có thể gồm nhiều
biến-cố trong đó. Lúc đó hồng-y Frings
tuyên-bố - tôi có góp tay trong lời tuyên-bố này - rằng bản văn soạn
sẵn không thích-hợp để làm việc, nó cần
phải được các nghị-phụ soạn lại
từ đầu. Đúng là một quả bom.
Kết-quả kà các nghị-phụ phát-biểu chính các
ngài sẽ viết lại các văn-kiện từ
đầu.
Bài diễn-từ
thứ ba, một diễn-từ trở thành nổi
tiếng, là chuyện hồng-y Frings yêu-cầu Thánh-bộ
đức tin phải cải-tổ các phương-pháp làm
việc và công-việc này phải được
tiến-hành một cách trong-sáng. Đó là ba phát-biểu
đă gây tiếng vang trong dư-luận.
Trái bom đă được chuẩn-bị
trước? Và ngài đă không ngạc-nhiên về
kết-quả của bài phát-biểu?
Có lẽ nó đă làm
nhiều người ngạc-nhiên, nhưng nó cũng
hợp với mong-đợi chung. Hồng-y Frings
trước đó đă tiếp-xúc với một số
cá-nhân và biết được họ cũng mong chuyện
đó. Có thể nói, điều hồng-y Frings nói ra hợp
với mong-đợi của nghị-hội.
Ngài được kể là một nhà
thần-học tiến-bộ. Đă là một ngôi sao sáng
lúc c̣n là giáo-sư, các giờ giảng bài của ngài
đầy ắp sinh-viên. Ngài thảo-luận công-khai
về sự thẳng-thắn và khoan-dung. Ngài cũng
chống lại cung-cách tân kinh-viện cứng-nhắc
của Rôma và đổ cho các vị trách-nhiệm ở
đó làm ngưng-trệ Giáo-hội. Là một nhà
thần-học trẻ ngài lúc đó đă phàn-nàn là
Giáo-hội đưa ra “quá nhiều luật-lệ,
nhiều cấm-đoán quá cứng-nhắc, nhiều
thứ trong đó đă khiến người ta chẳng c̣n
màng ǵ tới chuyện mất niềm tin của
thế-kỉ này, thay v́ ra công giúp con người trở
về với ơn cứu-độ”. Có thể nói
rằng, không có sự dấn-thân của ngài th́ những
cải-cách của Vatican II đă không có được.
Người ta nói quá
lời về tôi. Nếu lúc
đó đă không có nhiều người cùng nghĩ như
thế th́ làm sao một cá-nhân, nhất nữa tôi là một
nhà thần-học chưa có tiếng-tăm quốc-tế
nào, lại có thể tạo được những
biến-chuyển, cho dù nhà thần-học ấy nói ra nhờ
cửa miệng của một hồng-y có tiếng.
Sau khi giáo-chủ
Gio-an XXIII triệu-tập Công-đồng và đưa ra
khẩu-hiệu “Aggiornamento” (Cập-nhật với
thế-giới hôm nay) th́ trong các nghị-phụ cũng có
ư-muốn mạnh-bạo phải t́m cái ǵ mới, cần
phải ra khỏi sách-vở khuôn-sáo cũ, cần phải
mạnh-dạn với một tự-do mới. Không-khí
đó lan từ Nam Mỹ tới Úc châu. Lúc đó Phi châu
đă có không-khí đó chưa th́ tôi không biết. Nhưng
chắc-chắn là đại đa-số các giám-mục
đă mang tâm-trạng đó.
Tôi không c̣n nhớ
từng câu mà ông đă trưng, nhưng đúng là tôi lúc
đó quan-niệm rằng thần-học kinh-viện,
như nó vẫn đóng khung như bấy giờ, đă
không c̣n là dụng-cụ thích-hợp nữa để nói
chuyện đức tin với thế-giới ngày nay. Phải
thoát ra khỏi vỏ cứng đó, phải
đương-đầu với t́nh-trạng ngày nay
bằng ngôn-ngữ mới, bằng sự cởi-mở
mới. V́ thế trong Giáo-hội cũng phải có bầu
khí tự-do lớn hơn. Có lẽ một phần cũng
do nhiệt-huyết tuổi trẻ mà tôi đă
mạnh-dạn với ư-nghĩ đó. Nhưng nói chung trong
ḷng Giáo-hội lúc bấy giờ, song-song với không-khí
tưng-bừng lạc-quan của thời hậu chiến,
đă mang tâm-thức và niềm hi-vọng là chúng ta có thể
bắt đầu một thời-điểm mới cho
Ki-tô giáo.
Ngài vẫn thường nhấn mạnh
luôn cố-gắng trung-thành với công-đồng Vatican
II và “chẳng muốn quay
về cái quá-khứ hôm qua không thể trở lại”
nữa. Nhưng đàng khác, chỉ ít năm sau
Công-đồng, ngài lại kể ra những tiêu-cực và
“t́nh-trạng phản Công-đồng ». Người ta
chờ thay v́ một bước nhảy-vọt đi
tới th́ lại chứng-kiến một “tiến-tŕnh
suy-sụp”. Cái ǵ đă trệch đường?
Đó là
vấn-nạn lớn nhất đă đặt ra cho
hết thảy chúng ta. Ta có thể kê ra các mong-chờ đă
không được thực-hiện. Và ngày nay, những
kẻ “cấp-tiến” đang lớn tiếng về
một t́nh-trạng “mùa đông của Giáo-hội”. Chúng ta
đă không chứng-kiến được một
thời-điểm mới cho Ki-tô giáo, mà lại thấy
nhiều bất-cập - bên cạnh một số thành-công,
dĩ-nhiên –, điều đó chẳng cần phải
dấu-diếm. Tại sao thế? Tôi thử nêu lên hai
điểm: Thứ nhất là v́ chúng ta đă trông-mong
nhiều quá. Chúng ta dĩ-nhiên không thể tự tạo ra
Giáo-hội. Chúng ta có thể thi-hành công-việc của ḿnh,
nhưng thành bại không tuỳ ở hành-động
của ta. Những biến-chuyển lớn lịch-sử
có hướng riêng của chúng, mà một số biến-chuyển
đó chúng ta đă không lường trước
được đúng-đắn. Đó là điểm
một, chúng ta đă chờ nhiều quá, và nhiều khi
chờ những điều không phải, ta muốn
Giáo-hội phải bành-trướng ra, nhưng
thời-điểm của Giáo-hội có thể lại
không phải như thế.Điểm thứ hai là có
một khoảng-cách lớn giữa những ǵ các
nghị-phụ muốn và những ǵ chúng ta nắm
được do truyền-thông cung-cấp và đă
ảnh-hưởng lên ư-thức chung. Các nghị-phụ
đă muốn cập-nhật đức tin - và qua đó
muốn tạo sức bật cho đức tin. Nhưng ta
th́ lại nghĩ cải-cách của Công-đồng là
nhằm trút đi những ǵ không cần-thiết
để ta bớt đi được một số gánh
nặng. Và như vậy cải-cách rốt cuộc xem ra
không phải là sống đức tin cách
triệt-để, nhưng chỉ là một cách làm loăng
đức tin. Càng ngày ta càng
thấy những giản-lược, những thích-ứng
và nhượng-bộ không phải là h́nh-thức
đúng-đắn để làm nhẹ, đào sâu và
cô-đọng đức tin. Nghĩa là tựu-trung có hai
quan-điểm về cải-cách. Một quan-điểm
nhắm tới việc bỏ bớt quyền-lực và
yếu-tố bên ngoài để tập-trung vào đời
sống đức tin. C̣n quan-điểm kia có thể nói
chỉ nhắm tới việc làm sao bỏ bớt
ràng-buộc để sống cho thoải-mái. Như
vậy th́ lạc lối là cái chắc.
Rơ-ràng lối cắt-nghĩa trên vẫn
tồn tại cho tới hôm nay. Thật lạ-lùng, phe
cải-cách cũng như phe truyền-thống ai cũng
bảo ḿnh làm theo Công-đồng. Từ năm 1975 ngài
đă tiên-tri là di-sản của Công-đồng “chưa
được tỏ-hiện. Nó đang chờ
thời-điểm của nó và tôi tin chắc rằng
thời-điểm đó sẽ tới”.
Phải, đúng, có
hai lối giải-thích Công-đồng. Tuy nhiên càng ngày càng
rơ là các văn-kiện Công-đồng hoàn-toàn đặt
nền-móng vào hướng liên-tục của đức
tin. Hiện nay có nhiều người bảo các
văn-kiện Công-đồng mới chỉ là đà
khởi đầu, qua đó ḿnh phải chọn lấy
một hướng đi mà không cần phải bám sát vào
các văn bản. Nói như vậy th́ đâu c̣n ǵ là
Công-đồng nữa. Dĩ-nhiên ta không để bị
trói vào những từ-ngữ chết, nhưng ư-nghĩa
đích-thực của các bản văn có thể nhận
ra nếu được diễn-giải đúng-đắn;
đó là di-sản lớn của Công-đồng. Chính
từ đó mà ta phải đón-nhận, giải-thích và
am-hiểu. Chính nhờ thế mà ta có được muôn vàn
sáng-kiến đặc-biệt trong tương-quan mới
đối với thế-giới, với sự
giải-thích về tự-do tôn-giáo v.v.Trong đó,
dĩ-nhiên, cũng đầy-dẫy những
chỉ-dẫn giúp đào sâu và khuyến-thích đức tin
mà ta cần khai-thác. Đây là điều tôi muốn
nhấn mạnh đặc-biệt: Di-sản thật
của Công-đồng nằm nơi các văn-kiện
của nó. Khi ta diễn-dịch chúng một cách
trung-thực và đúng-đắn, ta sẽ tránh
được thái-độ quá-khích của cả hai phía;
và chúng sẽ mở ra cho chúng ta con đường
tương-lai sáng-lạn.
Đánh
gía của ngài về sự lạm-dụng Công-đồng
có liên-quan ǵ đến bước khởi đầu
cuộc nổi loạn của sinh-viên ở Âu châu (cuối
những năm 1960’. ND)? Rơ-ràng có một chuyển
hướng trong thời-gian ngài dạy học ở
Tübingen. Từ một giáo-sư thần-học
cấp-tiến ngài bổng dưng bị sinh-viên coi là
kẻ thù. Họ giật mi-crô không để cho ngài nói.
Biến-cố đó đă như một
chấn-động đối với ngài. Về sau ngài
tâm-sự: “Trong những năm đó tôi học
được đến lúc nào th́ phải chấm dứt
thảo-luận, nếu không nó sẽ biến thành láo-khoét,
và tới lúc nào phải ra tay chống-cự để
bảo-toàn tự-do”
Người ta không bao giờ giật mi-crô của tôi. Tôi cũng đă không bao giờ gặp khó-khăn ǵ với sinh-viên, chỉ có vấn-đề với những nhân-viên tạm gọi là thuộc cấp trung của đại-học mà thôi. Các buổi lên lớp rất trôi-chảy và việc tiếp-xúc với sinh-viên không có vấn-đề ǵ. Nhưng đúng, tôi thấy đây-đó len-lỏi vào một tinh-thần mới, người ta sử-dụng các phương-tiện ki-tô giáo một cách ư-hệ quá-khích và tôi thấy những giả-dối ở đây. Đây là thời-gian tôi thấy và chứng-kiến hai quan-điểm khác nhau về cải-cách. Tôi thấy có sự lạm-dụng về Giáo-hội và đức tin, được người ta dùng như những phương-tiện quyền-lực, nhưng để thoả-măn những mục-tiêu riêng với những tư-tưởng và ư-niệm khác hẳn. Chẳng c̣n ư-hướng đồng-nhất phục-vụ cho đức tin nào nữa. Thay v́ phục-vụ đức tin, người ta biến nó thành phương-tiện bởi những ư-hệ độc-đoán, tàn-bạo, man-rợ. Từ đó tôi hiểu rằng muốn thực-thi Công-đồng th́ phải chống lại khuynh-hướng này. Như đă nói, tôi không có vấn-đề nào với sinh-viên. Nhưng tôi đă thấy sự độc-đoán, kể cả dưới h́nh-thức tàn-bạo, đă thực-sự được mang ra sử-dụng như thế nào.Để cụ-thể-hoá những chuyện xẩy ra lúc đó, tôi kể về một cuốn sách của Beyerhaus vừa in. Beyerhaus là đồng-nghiệp tin-lành gắn-bó nhiều năm với tôi. “Thánh-giá Giê-su, phải chăng đó là một h́nh-thức vinh-danh bạo dâm và khổ-dâm?”. Và “Tân-ước là một tài-liệu về sự bất-nhân, một cuộc lừa-đảo tập-thể lớn !”. Hai khẩu-hiệu đó không xuất-phát từ truyền-đơn của đám bôn-xê-vích vô-thần, nhưng từ truyền-đơn của đại-diện sinh-viên phân-khoa “Thần-học tin-lành” của đại-học Tübingen trong mùa hè 1969 và được phân-phối trong sinh-viên. Tiêu-đề của truyền-đơn là: “Chúa Giê-su – Ông du-kích rởm”. Người ta dựa vào phê-b́nh tôn-giáo mác-xít để qui Giáo-hội vào tội đồng-loă với tư-bản để bóc-lột dân nghèo, để gán cho khoa thần-học truyền-thống vai-tṛ củng-cố tư-bản. Giáo-sư dạy môn Kinh thánh Tân-ước ở Tübingen cũng phụ-hoạ vào tuồng kịch này. Trong một cuộc họp toàn sinh-viên giáo-sư Ulrich Wickert và tôi đă làm mọi cách yêu-cầu ban đại-diện phân-khoa thần-học tin-lành tuyên-bố đứng ngoài những lời-lẽ phạm-thượng đó, nhưng vô-ích. Người ta khẳng-khái trả lời truyền-đơn chỉ nhắm vào những hậu-quả chính-trị mập-mờ, cần phải nêu chúng lên để t́m cho ra sự thật. Giáo-sư Wickert tha-thiết kêu-gọi hăy vứt câu “Giê-su đáng nguyền-rủa!” ra khỏi tập-thể này, lời kêu-gọi đă tan vào khoảng không. (P. Beyerhaus, Der kirchlich-theologische Dienst des Albrecht-Bengel-Hauses, in trong: Diakrisis 17, số tháng ba 1969, trang 9 tt.). Bên đại-diện phân-ban thần-học công giáo đă không xẩy ra chuyện tới mức như thế, nhưng luồng tư-tưởng căn-bản tương-tự cũng đă ập vào. Lúc đó tôi chợt hiểu ra vấn-đề: ai muốn tiếp-tục là cấp-tiến ở đây, kẻ đó phải bán nhân-cách ḿnh.
Và
giáo-tŕnh „Nhập-môn Ki-tô giáo“ nổi tiếng của ngài
đă bắt đầu không hẳn một cách t́nh-cờ
với câu chuyện chú Hans hạnh-phúc?*
Phải, đúng thế. Thời đó, sau khi trải qua những năm sôi-động, tôi chợt nhớ tới câu chuyện này. Cả Ki-tô giáo lúc khởi đầu cũng bị coi là một gánh nặng, y như thỏi vàng trong câu chuyện. Và càng ngày tôi càng rơ ra là nếu cứ tiếp-tục diễn-giải theo nhu-cầu giai-đoạn (như trong câu chuyện chú Hans) th́ t́nh-h́nh càng thêm tệ hơn. Câu chuyện thần-thoại diễn-tả đúng t́nh-trạng thời đó. Song cần nhớ là tôi đă viết giáo-tŕnh này vào năm 1967, nghĩa là trước khi những lộn-xộn xẩy ra.
Có người
đoán nhân-vật Hans trong giáo-tŕnh của ngài ám-chỉ Hans…
Không, hoàn-toàn không phải Hans Küng (linh-mục, nhà thần-học đương-thời người Thuỵ-sĩ). Tôi cực-lực minh-xác điều đó. Tôi hoàn-toàn không có ư tấn-công Hans Küng.
Ngài có
thể đă là một nhà phê-b́nh lớn trong
truyền-thống phản-kháng Giáo-hội ở
Đức. Cái ǵ đă cản bước ngài? Hans Küng
đoán là Phao-lô VI đă đem
những chức-vụ lănh-đạo ra để cầm
chân một số đầu-óc chỉ-trích.
Tôi hoàn-toàn không biết chuyện đó. Phao-lô VI đă không nói ǵ với tôi về chuyện đó. Tôi chỉ gặp ngài vào năm 1977, nghĩa là sau lễ phong giám-mục của tôi. Chuyện tôi được phong tổng giám-mục giáo-phận München năm 1977 là cả một ngạc-nhiên và là một chấn- động cho tôi, hoàn-toàn chẳng phải là chuyện đền-đáp cho những nhượng-bộ xu-thời nào cả. Dù ở trong hoàn-cảnh nào, dù tư-tưởng của tôi có phát-triển và thay-đổi theo tuổi-tác, sức thúc-ép căn-bản đối với tôi, cả lúc c̣n làm việc cho Công-đồng, vẫn là làm sao tháo-gỡ hạt nhân đức tin khỏi những lớp vỏ xơ-cứng để đem lại cho nó sức mạnh và sự linh-động. Sức thúc-ép này rất kiên-định suốt đời tôi. Nó giữ tôi không sa vào hướng chống lại Giáo-hội. Dĩ-nhiên trách-vụ giám-mục có một số sắc-thái khác với vai-tṛ một giáo-sư. Nhưng điều quan-trọng là tôi không bao giờ đi trệch khỏi sự kiên định đó, nó đă ghi dấu trên cuộc đời tôi (kiên-định đó tôi đă thấm-nhuần từ thủa thiếu-thời) và tôi luôn trung-thành với hướng đi chính này của đời ḿnh.
Chính
ngài vẫn luôn công-khai tuyên-bố đặt
mhiệm-vụ lên trên con người cá-nhân và không bao
giờ làm ngược lại. Rơ-ràng thái-độ đó
phù-hợp với ư-niệm của ngài về
nhiệm-vụ, vâng-lời và phục-vụ. Chính những
ư-niệm này đă bị những đợt
biến-chuyển văn-hoá làm giảm giá.
Nhưng trước sau
ǵ rồi con người cũng phải trở lại
với những ư-niệm đó. V́ nếu không có sự
sẵn-sàng qui-phục ḿnh vào một toàn-thể với
giá-trị ta đă nhận ra và chính ḿnh không chịu
phục-vụ th́ làm sao có được tự-do chung. Tự-do con người
luôn là tự-do được chia-sẻ. Nó phải
được cùng nhau gánh-vác và v́ thế nó đ̣i-hỏi
phục-vụ. Các đức-tính đó, nếu ta muốn
gọi chúng là đức-tính, hẳn nhiên có thể bị
lạm-dụng bằng cách xếp chúng vào một
hệ-thống sai-lạc. Thuần h́nh-thức, chúng có
thể không tốt, mà chỉ tốt khi gắn liền
với mục-đích nó phục-vụ. Trong
trường-hợp của tôi, mục-đích đó là
đức tin, là Chúa, là đức Ki-tô và v́ vậy tôi
biết chắc ḿnh đă đặt chúng đúng chỗ.
Vào một lúc nào đó ngài
bắt đầu chống lại các nhà thần-học và
càng ngày càng to tiếng đối với các chỉ-trích
trong nội-bộ thần-học. Một trong những câu
chủ-chốt của ngài: „Đó là Giáo-hội của Chúa
chứ không phải là chỗ thử-nghiệm cho các nhà
thần-học“.
Tôi không muốn
chống lại các nhà thần-học, v́ như vậy là
tôi chống chính ḿnh. Thần-học là một
dụng-cụ rất quan-trọng và cao-cả, và nhà
thần-học cũng làm một công-việc
trọng-đại. Cả phê-b́nh và tự phê-b́nh là một
phần của thần-học. Tôi chỉ chống lại
cái thần-học mất khuôn-thước và v́ vậy không
c̣n phục-vụ đúng-đắn được
nữa. Vả lại, chúng ta là những người
phục-vụ chứ đâu phải là kẻ có quyền
bảo Giáo-hội phải thế này thế nọ.
Đối với tôi đó là điểm
quyết-định. C̣n câu „đó là Giáo-hội của Chúa
chứ không phải của chúng ta“ là tôi muốn nói rằng
không phải chúng ta là người bắt Giáo-hội
phải ra thế này thế kia, nhưng ḿnh là những
người tin rằng chính Chúa đă lập nên Giáo-hội
và v́ thế phải cố-gắng để nh́n ra ư Ngài
về Giáo-hội và sẵn-sàng phục-vụ cho
Giáo-hội đó. (c̣n tiếp nhiều kỳ)
VẤN ĐỀ HÔM NAY
ĐỨC THÁNH CHA
BIỂN ĐỨC XVI
TỐ GIÁC NHỮNG
H̀NH THỨC CŨ VÀ MỚI VỀ PHÂN BIỆT ĐỐI
XỬ VỚI NỮ GIỚI
Ngày 25.05.2008, Nhóm
Nữ Nghị Sĩ Việt-Nam với 127 thành viên
đầu tiên đă chính thức ra mắt. Đây
là lần đầu tiên ở Việt Nam có một tổ
chức nữ Nghị sĩ, nhằm nâng cao hoạt
động lập pháp và giám sát về vấn đề
b́nh đẳng giới và
thể hiện vai tṛ ra quyết định ngày càng lớn
hơn của phụ nữ Việt Nam nhất là trong
vấn đề b́nh đẳng giới, đặc
biệt là việc hoàn thiện hệ thống luật pháp
cũng như đưa vấn đề b́nh đẳng
giới lồng ghép với các chương tŕnh phát
triển kinh tế xă hội. Thực chất mục
đích liền kèm là để chuẩn bị cho hội
nghị Phụ Nữ Thế Giới 2008 do Việt-Nam
đăng cai tổ chức từ ngày 5 – 7 tháng 6.2008
với khoảng 1.000 người từ 100 quốc gia
đến tham dự. Qua chương tèinh nghị sự
các lần hội nghị phụ nữ trước đây
đều cho thấy mục tiêu đấu tranh b́nh
đẳng giới luôn được đặt lên hàng
đầu, song quanh quẩn vẫn chỉ là dấu tranh
để hợp pháp hoá nạo phá thai , ly dị va ‘hôn nhân
đồng tính’. BTGH xin giới thiệu bài nói chuyện của
Đức Thánh Cha Biển- Đức XVI ngày 10.02.2008, mong
có thể giúp ích cho cái nh́n đúng đắn về nữ
giới.
(bài do Jesús Colina ghi lại
trong Zenit,số ngày 10.02.2008)
Đức Thánh Cha Biển-Đức XVI đă tố
giác những h́nh thức phân biệt đối xử cũ
và mới chống lại phụ nữ đi từ những
lạm dụng thiên nam giới cho tới việc sử dụng
phụ nữ như đồ vật trong quảng cáo.
Ngoài ra Đức Thánh Cha Biển-Đức
XVI đă khuyến khích một cuộc nghiên cứu nhân loại
học đổi mới về nữ giới – nhưng cũng
về nam giới nữa - một mặt lưu tâm đến
truyền thống Kitô-giáo,mặt khác hợp nhất những
tiến bộ khoa học và sự bén nhạy về văn
hoá.
Đó là những ǵ Người
giải thích trong buổi triều yết dành cho những người
tham dự hội nghị quốc tế về « Người
Nữ và Người Nam, Con
Người trong sự toàn vẹn của nó » , được
tổ chức từ 7 – 9 tháng hai do Hội Đồng Giáo
Hoàng về Giáo Dân tổ chức,nhân kỷ niệm 20 năm
Tông Thư « Mulieris Dignitatem » (Phẩm giá phụ nữ)
của Đức Gioan-Phaolô II. Trong bài diễn văn với
những người tham dự hội nghị, đa số
là nữ giới, Đức giáo hoàng nh́n nhận là một
« năo trạng duy thiên về nam giới (*)không màng đến
sự mới mẻ của Kitô giáo công nhận và công bố
phẩm giá b́nh đẳng và trách nhiệm của nữ giới
so với nam giới », « vẫn c̣n dai dẵng ».
Đức Thánh Cha nói thêm :
« Có những nơi và những nền văn hoá ở đó
người phụ nữ bị phân biệt đối xử
và bị đánh gía thấp chỉ v́ họ là phụ nữ,
ở đó người ta c̣n viện dẫn cả những
lập luận tôn giáo và những áp lực gia đ́nh,xă hội
và văn hoá để ủng hộ sự bất b́nh đẳng
giới tính, ở đó những hành vi bạo lực đối
với phụ nữ vẫn xảy ra, biến họ thành
một đối tượng để hành hạ và bóc lột
trong quảng cáo và trong kỹ nghệ tiêu thụ và giải
trí ».
Trong bối cảnh nầy,Ngài
nói tiếp, « chắc chắn chúng ta cần phải
có một nghiên cứu nhân học đổi mới,trên nền
tảng truyền thống Kitô-giáo vĩ đại, hợp
nhất những tiến bộ mới của khoa học với
những dữ liệu liên quan đến những sự bén
nhạy văn hoá ngày nay, và như vậy sẽ góp phần
vào việc đào sâu không chỉ căn tính nữ giới mà
cả của nam giới cũng thường là đối
tượng cho những suy tư thiên vị và mang tính ư thức
hệ ».
Với việc giới thiệu
truyền thống Kitô-giáo và nhất là sự đóng góp của
Đức Gioan-Phaolô II, Đấng đă suy tư về chủ
đề tinh duy nhất – tính hai mặt của người
nam và người nữ, Đức Thánh Cha khẳng định :
« Tính duy nhất – hai mặt nầy của người
nam và người nữ dựa trên nền tảng phẩm
giá của mọi con người, đươc dựng nên
theo h́nh ảnh và giống như Thiên Chúa là Đấng
« đă dựng nên người nam và người nữ »,
như sách Sáng Thế nhấn mạnh (St 1,27).
« Đối diện với
những trào lưu văn hoá và chính trị đang t́m cách loại
bỏ hoặc chí ít cũng che phủ và làm cho lẫn lộn
những sự khác biệt giới tính được khắc
ghi trong bản tính con người, xem chúng như một khía
cạnh văn hoá », Đức Thánh Cha nhắc lại
« kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng đă tạo
dựng hữu thể nhân loại nam và nữ, với một
tính duy nhât và trong cùng một lúc một sự khác biệt
nguyên thủy và bổ sung cho nhau»
Người giải thích :
« Bản tính con người và chiều kích văn hóa hợp
nhất với nhau trong một quy tŕnh phong phú và phức tạp
cấu thành sự h́nh thành của căn tính, ở đó
hai chiều kích, chiều kích của nữ giới và chiều
kích của nam giới, tương ứng với nhau và bổ
khuyết cho nhau ».
Trong bối cảnh nầy,
Đức Thánh Cha đ̣i hỏi quyền của các trẻ
em « có thể cậy trông vào người cha và người
mẹ chăm sóc chúng và cùng theo chúng trong bước trưởng
thành » và Người nhắc nhở rằng « nhà nước
phải ủng hộ bằng những chính sách xă hội phù
hợp, tất cả những ǵ khuyến khích sự ổn
định và sự hiệp nhất của hôn nhân, phẩm
giá và trách nhiệm của những người phối ngẫu,
quyền và bổn phận không thể thay thế được
của họ làm những người giáo dục con cái họ ».
Để kết thúc, Đức
Thánh Cha Biển-Đức XVI đă cầu chúc « rằng
nữ giới cũng có khả năng cộng tác vào việc
xây dựng xă hội, với việc đề cao ‘thiên tư
nữ giới’ đặc thù ».
BTGH chuyển ngữ và giới thiệu
(*) Machist[macho] (danh
từ : Machisme) :là một từ gợi lên một
sự đề cao tính chất đàn ông nhất
định đến mức thái quá, có thể đi
tới chỗ ghét phụ nữ và chế độ nam
trị.
◙ PHỤ LỤC :
GỢI Ư SUY
NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT X TN (Năm A)
Mt 9, 9 - 13
CỘI NGUỒN LUẬT LỆ: CHỌN
LỰA SỰ SỐNG
Không thể
nào t́m thấy lại bài giảng nối kết với Bài
Phúc Âm của Chúa Nhật X thường niên Năm A, người
phụ trách mạng xin gợi ư với các bạn bài Tin Mừng
Chúa Nhật VI thường niên Năm A.
“Một
nhà hiền triết trong Cựu Ước,Ben Sirac, khẳng
định sáng hôm nay rằng mỗi người có tự
do tuân giữ Luật Lệ: “Nếu
ngươi muốn, ngươi
có thể giữ các giới răn”.
Ông mời gọi độc giả của ông tự do chọn
giữa nước và lửa, giữa sự sống và sự
chết,như một người mẹ chỉ có cho con ḿnh
một lời ủy thác :”Hăy làm những ǵ con muốn. Con được
tự do”. Hăy nhớ rằng tác
giả sách Đệ Nhị Luật đă nói thêm: “Vậy
hăy chọn sự sống” (Đnl 30,19).
Bài giảng trên núi tỏ ra mơ
hồ rối rắm chẳng kém. Không chỉ có Chúa Giêsu bắt
buộc chúng ta phải tuân giữ luật, mà để chọn
lựa sự sống, chúng ta phải tự điều chỉnh
với các trực giác căn bản đă linh ứng cho chúng
ta luật ấy trong kế hoạch vĩ đại ban đầu
của Đấng Tạo Hoá.
Vượt
qua Luật Lệ : “Nếu
sự công chính của các ngươi không hơn sự công
chính của các luật sĩ và biệt phái, các ngươi
sẽ không vào được Nước Trời”. Và Chúa
Gêsu hôm nay cho chúng ta bốn luật làm ví dụ: hai điều
cấm đoán chính thực của Đấng Tạo Hoá,
giết người và ngoại t́nh, đồng thời hai
cam kết tự do ưng thuận: lời thề và hôn nhân.
Khôn ngoan b́nh dân quanh ta luôn chỉ
cho chúng ta thấy những phương thế để
thoát ra khỏi những luật lệ đó: “Tôi có một ư
tưởng khác. Các điều kiện đă thay đổi
tiến hoá rồi. Chính nó là đứa tấn công tôi. Chính
cô ta đă thay đổi..”. Bởi v́ năo trạng nệ luật, hoặc
lư lẽ ngụy biện của những người khéo
xoay xở không thích hợp với tinh thần Bát Phúc. Sự
tự do mà Thiên Chúa trao cho chúng ta đ̣i hỏi chúng ta phải
vượt qua mọi h́nh thức luật lệ để
vươn lên tới các trực giác của Đấng Tạo
Hoá.
Những ǵ hợp pháp không hẳn
đă là đạo đức và các luận điểm bất
công rất nhiều trong mọi xă hội. Chúng ta biết những
kẻ mạnh và đầy quyền lực ở thế
gian nầy lợi dụng những kẻ hở trong các luật
lệ chúng ta biết dường nào, bởi v́ không bộ
luật nào là hoàn chỉnh toàn vẹn cả. Trước tất
cả những sự ấy, con cái nam nữ của Nước
Trời sẽ làm ǵ?
Bài giảng
trên núi, mà chúng ta suy tư từ ba tuần nay, mời gọi
chúng ta nghiêm chỉnh xem xét quyền và các giá trị của xă hội. Phải
vào trong Nước Thiên Chúa. Đâu là luật mới nầy
nay phải cai quản hết mọi quan hệ của chúng
ta trong thế giới, nơi mà Thiên Chúa trở thành vua để
bảo đảm hạnh phúc cho mọi con cái của Người,
nhất là những kẻ bé mọn?
Bernard Lafreńere,C.S.C
|
◙
PHỤ TRANG:
VIỆT-NAM 7 NGÀY QUA
+ (VnExpress 25.05) Khởi công khu du lịch
phức hợp lớn nhất Việt
+ (TTXVN 25.05) Ra
mắt Nhóm nữ Nghị sĩ Việt
+ (ThanhNien 35.05) Phương
pháp xác định nhanh H5N1. Kit chuẩn
đoán nhanh, là phương pháp vận dụng phản
ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu gián
tiếp, gọi tắt là phản ứng SSIA, dưới
dạng trắc nghiệm xê dịch. Phương pháp này
dựa trên một cặp chế sẵn, gồm dung
dịch kháng thể: Gama-globulin và huyền dịch hồng
cầu, được lấy từ huyết thanh của
thỏ và ngan, đă gắn các Protein virus cúm A, cho hiệu
giá ngưng kết ổn định trên dăy lỗ khay vi
chuẩn độ 96 lỗ. Bệnh phẩm thích hợp
cho phản ứng SSIA là dịch họng và dịch ở
khí quản gia cầm. Bước tiến này là hết
sức quan trọng, bởi nó vừa giúp cho các cấp chính
quyền, cơ quan chức năng và người chăn
nuôi phát hiện dịch một cách nhanh chóng, khẩn
trương khống chế dịch, nhưng đồng
thời cũng cho họ nhiều giải pháp để
lựa chọn, chứ không đơn thuần là tiêu
huỷ cả đàn, khi kết quả xét nghiệm
dương tính với H5N1 như lâu nay. Theo đó, mức
độ thiệt hại về kinh tế sẽ giảm
đi rất nhiều.
+ ( VnEconomy 26.05) Người nước ngoài được
sở hữu nhà tại Việt
+ (TTXVN 25.05) Việt
+ (Tuoi Tre 26.05) Một người chi 246.000
đồng thuốc chữa bệnh/năm. Theo đại diện Cục Quản lư
dược, năm 2007 b́nh quân mỗi người VN sử
dụng 13,4 USD tiền thuốc/năm, gấp đôi so
với năm 2000. Đến hết năm 2008, chi phí cho
thuốc chữa bệnh b́nh quân đă tăng lên 15,2 USD.
Cũng trong năm nay, thị trường dược
phẩm VN đạt 1,34 tỉ USD, tăng trưởng
16,5%, cao hơn so với dự tính của các tổ
chức quốc tế là 1 tỉ USD.
+ (TTXVN 27.05) Chỉ số giá tiêu dùng tháng 5
tăng gần 4%. Theo Tổng
cục Thống kê, sau khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) có
dấu hiệu giảm nhiệt ở tháng 4 (2,2%) th́ tháng 5
CPI lại tăng cao, tăng 3,91% so với tháng 4. Tính chung
trong 5 tháng đầu năm 2008, CPI tăng 15,96%, cao hơn
so với cùng kỳ năm 2007; chỉ số giá tiêu dùng b́nh
quân 5 tháng qua so với b́nh quân 5 tháng 2007 tăng 19,09%; chỉ
số giá tiêu dùng tháng 5/2008 so với tháng 5/2007 tăng 25,2%.
+ (TTXVN 27.05) Kim ngạch xuất khẩu
đạt 23,4 tỷ USD. Bộ
Kế hoạch và Đầu tư cho biết tháng 5, kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 5,15
tỷ USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
của cả nước 5 tháng qua lên 23,4 tỷ USD, tăng
27,2% so với cùng kỳ năm trước.Đa số các
mặt hàng xuất khẩu đều có kim ngạch
tăng mạnh so với cùng kỳ năm ngoái như
sản phẩm nhựa tăng hơn 30%; hàng điện
tử, vi tính và linh kiện tăng hơn 25%; sản
phẩm gỗ tăng 21%, dệt may tăng 19%.Từ
đầu năm đến nay đă có 8 nhóm hàng
đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD là
dầu thô, than đá, hàng dệt may, giày dép, sản phẩm
gỗ, thủy sản, gạo và cà phê.
+ (Hanoi Moi 27.05) Tháng 10-2008: Hăng hàng không của
nhạc sĩ Hà Dũng sẽ thực hiện chuyến bay
đầu tiên. Thủ tướng Chính phủ vừa
đồng ư cấp giấy phép kinh doanh vận chuyển
hàng không cho Cty cổ phần hàng không Tăng tốc (Air
Speed Up Corporation) do nhạc sĩ Hà Dũng làm chủ.
Trước đó, vào tháng 3-2008, Đề án thành lập
hăng đă được Cục Hàng không VN thông qua. Nhạc
sĩ Hà Dũng, chủ của hăng hàng không này cho biết, dự kiến
chuyến bay đầu tiên sẽ thực hiện vào
cuối tháng 10/2008. Trong thời gian đầu, Air Speed Up
sẽ tập trung vào các đường bay trục nội
địa Hà Nội – TP.HCM – Đà Nẵng. Vé
được chia ra thành 2 hạng: phổ thông và
thương gia với giá vé theo đúng khung mà Bộ Tài
chính phê duyệt có mức trần là 1,7 triệu cho
chặng nội địa.
+ (NLĐ 27.05) Chính thức tuyển lao
động Việt
+ (NLĐ 29.05) VN đủ nhiên liệu cho nhà máy
điện hạt nhân. Bộ Tài nguyên - Môi trường đă hoàn thành đề án
thăm ḍ quặng urani cho nhà máy điện hạt nhân.
Cục Địa chất - Khoáng sản cho biết VN có
tiềm năng trung b́nh trên thế giới về quặng
urani, đủ khả năng đáp ứng cho phát
triển điện hạt nhân. Kết quả điều
tra của ngành địa chất cho thấy quặng urani
ở nước ta tồn tại trong nhiều cấu trúc
địa chất, phân bố chủ yếu ở Tây
Bắc và Trung Bộ, trong đó có triển vọng nhất
là quặng urani trong cát kết ở miền Trung. Theo xác
định sơ bộ, các mỏ quặng urani này có
thể khai thác được bằng phương pháp
lộ thiên kết hợp hầm ḷ.
+ (TTXVN 30.05) Phấn đấu kiềm
chế lạm phát ở mức 22%
trong năm nay. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho
rằng nếu thực hiện chặt chẽ, hiệu
quả chính sách tiền tệ và 8 nhóm giải pháp kiềm
chế lạm phát của Chính phủ th́ lạm phát năm
nay có thể khống chế được ở mức
thấp nhất khoảng 22%.
+ (TTXVN 30.05) Ṿng 13 đối thoại nhân
quyền giữa VN-Hoa Kỳ. Ngày
29/5, Việt Nam và Hoa Kỳ đă tiến hành “Ṿng 13
đối thoại nhân quyền” giữa hai nước
tại Hà Nội. Đoàn Hoa Kỳ do ông David Kramer, Trợ
lư Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ về Nhân
quyền, Dân chủ và Lao động dẫn đầu.
Đoàn Việt
+ (NLĐ
31.05) Tháng 5, VN-Index
mất 108,26 điểm. Ngày 30-5,
ngày đầu tiên sàn TPHCM giao dịch b́nh thường
trở lại sau sự cố kỹ thuật, Chỉ
số VN-Index giảm thêm 6,41 điểm, chỉ c̣n 414,1
điểm. Tương tự, chỉ số HaSTC-Index trên
sàn Hà Nội cũng giảm 1,41 điểm, c̣n 119,31
điểm. Đây cũng là phiên giao dịch cuối cùng
của tháng 5. Với 17 phiên giao dịch, tổng số
điểm mà VN-Index bị lấy đi trong tháng này lên
tới 108,26 điểm. Đáng lưu ư, trong khi các nhà
đầu tư trong nước vẫn ồ ạt tháo
chạy khỏi thị trường trong ṿng hơn một
tháng qua th́ các nhà đầu tư nước ngoài vẫn
đều đặn mua vào v́ họ cho rằng đây là
cơ hội để mua được những
thương hiệu lớn với giá rẻ.
+ (Thanh Nien 31.05) Đám cưới 1 triệu USD. Từ ngày 24-29.5 tại khách sạn Nam
Hải (Hội An, Quảng
+ (Hanoi Moi 30.05) Quốc hội thông qua Nghị
quyết mở rộng địa giới Thủ đô Hà
Nội. Cuối phiên họp
chiều nay, Quốc hội đă biểu quyết thông qua
Nghị quyết điều chỉnh địa giới
hành chính giữa tỉnh Hà Tây và tỉnh Phú Thọ, giữa
tỉnh B́nh Phước và tỉnh Đồng Nai,
đạt tỷ lệ 96,75%;
Quốc hội cũng đă biểu quyết thông qua
Nghị quyết về việc mở rộng địa
giới Thủ đô Hà Nội với tỷ lệ
tán thành đạt 92,9%.Về thời điểm có
hiệu lực của Nghị quyết về việc
mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà
Nội, tiếp thu ư kiến của đại biểu
Quốc hội, Chính phủ đề nghị Quốc
hội cho phép thực hiện thời điểm có hiệu
lực của Nghị quyết mở rộng địa
giới hành chính Thủ đô Hà Nội từ ngày 1/8/2008.
+ (Nhan Dan
31.05) Vi phạm bản
quyền ở Việt
* H. Hesse (1877-1962): nhà văn
người Đức, giải Nobel văn-chương
năm 1946.
* Câu
chuyện thần-thoại của Đức, tả anh làm
công Hans được chủ trả lương bằng
một thỏi vàng lớn. Trên đường về nhà,
để khỏi phải khệ-nệ mang thỏi vàng
nặng, Hans đă lần-lượt đổi nó
để lấy nhiều thứ nhằm thoả-măn cho
nhu-cầu trước mắt của ḿnh và cuối cùng
vui-vẻ về tới nhà với tay không.