T̀NH CA CHO NGƯỜI
ĐƯỢC YÊU
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG
(Năm A)
Mt 11, 2 – 11
TRĂM HAY KHÔNG BẰNG MĂT
THẤY.
TỪ THỰC TẾ LỊCH SỬ.
Cuối tháng 8.2006, Mỹ đă thực hiện
một vụ dẫn độ hy hữu trong lịch
sử tội phạm, khi trao trả về Đức
một phụ nữ đă 84 tuổi, Elfriede Rinkel, vốn
là một nữ cai ngục Đức trong Thế chiến
thứ 2, đă chạy trốn sự trừng phạt
của công lư trong suốt sáu thập kỷ qua. Theo sự
thú nhận của Rinkel th́ bà ta là một trong số 958
nữ cai ngục của
trại tập trung Ravensbruck tại nam Berlin, Đức.
Đây là một trại tập trung khét tiếng chủ yếu dành cho
phụ nữ với số tù nhân lên đến 150.000 (trong
đó 130.000 là nữ), khoảng 90.000 tù nhân đă bị
đưa vào pḥng hơi ngạt hoặc chết v́ đói
rét.
Cơ quan điều tra Mỹ đă phải nghiên
cứu, sàng lọc trong số 70.000 hồ sơ liên quan
đến trại Ravensbruck và quyết tâm t́m kiếm
bằng được v́ "đây là những kẻ
giữ vai tṛ quan trọng đưa đến những cái
chết đau thương của tù nhân trong các trại tập
trung của Đức quốc xă".
Năm 1962, Rinkel kết hôn với Fred Rinkel,
một người Do Thái gốc Đức có cha mẹ
đều đă bị Đức quốc xă giết
hại trong trại tập trung . Cho đến khi qua
đời, người chồng của Rinkel vẫn không
hề hay biết quá khứ đen tối của
người vợ yêu qúy.
Người xưa nói: Lưới trời
lồng lộng, tuy thưa mà khó thoát. Cái kim để trong
bị lâu ngày cũng sẽ ḷi ra.
Chuyện "bằng giả" hay "bằng
thật, học giả" không mới, nhưng đáng
kinh ngạc là nó được tổ chức rất quy mô
và công khai. Hàng ngàn người cũng nộp đơn,
cũng đi thi nhưng thật sự chẳng phải thi
ǵ cả, mà chỉ cần chi vài trăm ngàn đồng là
có ngay cái bằng tin học hay Anh văn do Bộ GD-ĐT
cấp hẳn hoi. Rất nhiều khách hàng của
đường dây này là cán bộ công chức nhà
nước sẵn sàng chấp nhận cái kiểu
"học giả, bằng thật". Chỉ từ tháng 6-2000 đến nay, các cấp
quản lư đă phát hiện tới 7.425 trường
hợp văn bằng chứng chỉ không hợp pháp.
Con số đó có lẽ
chưa phản ánh đúng thực tế nghiêm trọng
của vấn đề. Cái giả tồn tại và
nhiều khi lấn lướt cái thật, v́ biết núp kín
dấu kỹ và biết dùng danh lợi để che
dấu mọi khuất tất giữa cái xă hội cũng
chạy theo thành tích và sẵn sàng bao che những sự
giả dối.
Nhưng có một con số khiến
mọi người phải chưng hững: Trong 1.000
năm trong tổng thể lịch sử của dân Israel, đă
có 600.000 nam tiên tri và 600.000 nữ tiên tri. Hiệp ước
Avodâ Zara chỉ giữ lại 48 tên của nam tiên tri và 7
nữ tiên tri v́ họ có ích lợi cho các thế hệ.
“Tiên tri” v́ vậy mất dần ư nghĩa trong đại. V́
thế, khi xác nhận Gioan Tẩy Giả là một tiên tri,
Chúa Giêsu nói tiếp ngay như một lời thanh minh cho ư
nghĩa từ “tiên tri” mà Người đă dùng: “Đây c̣n
hơn cả ngôn sứ nữa” (Mt 11,9 c), là sứ giả
do Chúa sai đi dọn đường (x.Mt 11,10)
TỪ PHÍA GIOAN TẨY
GIẢ
Bị rơi vào tay vị vua
dâm ác, Gioan Tẩy Giả biết cái chết có thể
đến bất cứ lúc nào, Ngài lo nghĩ nhiều
về những môn đệ vẫn trung thành với Ngài.
Ngài muốn gửi gắm họ cho Chúa Giêsu, nhưng
phải làm sao để đánh động họ và làm cho
họ “tâm phục khẩu phục” trước khi dạy
họ gắn bó với Đấng Messia đích thực.
Ngài đă cho họ những dấu chỉ để
nhận ra Đấng Thiên Sai và ai đáp ứng đầy
đủ các tiêu chí ấy, th́ đó chính là và mới là
Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi: “người
mù xem thấy; kẻ què đi được; người
cùi được sạch; kẻ điếc nghe
được; người chết sống lại;
kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.
Những điều đó, các
môn đệ của Gioan Tẩy Giả đă mắt
thấy tai nghe. Những điều đó cũng là những
ǵ Kinh Thánh đă nói. Trọn vẹn các tiêu chí ấy đă
thể hiện nơi hành động của Chúa Giêsu, Đấng
mà Thầy Gioan gửi họ đến. Trăm nghe không bằng
một thấy!
Cách làm khôn ngoan cho thấy Gioan
Tẩy Giả làm một nhà sư phạm lỗi lạc.
Cách Ngài chỉ dạy cho các môn đệ khiến ta không
khỏi nghĩ đến phương pháp “đỡ
đẻ” của nhà hiền triết Hy Lạp Socrates.
Phương pháp nầy hệ tại ở chỗ gợi
ư, rồi để cho người nghe tự khám phá ra chân
lư. Câu hỏi duy nhất mà Thánh Gioan Tẩy Giả căn
dặn các môn đệ hỏi Chúa Giêsu, khi họ
đến gặp Người : “Thầy có phải là
Đấng phải đến hay chúng tôi c̣n phải
đợi ai khác?”(Mt 11,3).
Hiểu ư người anh
họ Gioan, Chúa Giêsu không trả lời khẳng
định, mà chỉ đưa ra những lời đă
ghi trong Kinh Thánh, mà ai đă nghe, đều biết đó là
dấu chỉ của Đấng Kitô: cũng là những ǵ
họ thấy nơi Chúa Giêsu.
TỪ PHÍA
CHÚNG TA.
Ngày nay, dưới bàn tay đạo diễn của
Xa-tan, đủ loại tiên tri giả theo nhau xuất hiện:
làm cho con người luôn lo sợ bất an, như những
kẻ xúi giục một số người quá khích điên
cuồng giết người vô tội, phỉnh gạt họ
sẽ đạt hạnh phúc thiên đàng bằng sự căm
thù và giết chóc; làm cho con người lung lạc đức
tin, nghi ngờ chân lư và rời xa Thiên Chúa và Hội Thánh Công
Giáo như những người sử dụng sách báo, phim ảnh,
các phương tiện truyền thông để “giết chết
Thiên Chúa” ( lời tuyên bố của Phillip Pullman, tác giả
cuốn sách “Chiếc la bàn bằng vàng” chuyển thể thành
phim vừa mới tŕnh chiếu ngày 07.12 năm nay); tôn thờ
vật chất, xác thịt đẩy con người tới
việc coi nhau như những món đồ vật để
thoả măn sự ích kỷ và dâm ô, trụy lạc, đă làm cho đời sống luân lư đạo
đức của không ít người trẻ tuổi hư
đốn, sai lạc.
Ma túy lúc ấy chỉ là phương tiện làm
cho người sa đà không c̣n ư chí để dừng bước
và quay lui. Những hành vi của “văn hóa sự chết”
như ngừa tránh, nạo phá thai, an tử hay là hôn phối
đồng tính,…chỉ là hậu quả tất yếu; tiếp
tay vào đó phá hoại một cách “tích cực”, làm cho anh em
ḿnh sa vào hố sâu lầm lạc, mất đức tin, khiến
Xa-tan và các thế lực thù ghét Hội Thánh vui mừng hoan
hỉ, chính là những người thừa thông thái, thừa
địa vị danh giá, nhưng vô cùng thiếu khiêm nhường,
- trong đó không thiếu những giám mục, linh mục,
tu sĩ, những nhà thần học lỗi lạc : tất
cả đều thông tuệ.
Họ chỉ quên một điều: sứ mệnh
Chúa giao cho họ. Đúng ra, họ quên rằng tất cả
những điều tốt đẹp họ đang có, chỉ
là những nén vàng Chúa trao cho họ sinh lời.
Họ đă đem nó sinh rất nhiều lăi, song là
làm lợi cho Xa-tan và hoả ngục, phát xuất từ sự
ích kỷ và kiêu căng của họ. Hai tiêu chí để họ
tự thẩm định những ǵ họ làm có phải là
suy nghĩ, lời nói và hành vi của ngôn-sứ thật hay
của tiên tri giả, Phản-Kitô: phải xuất phát từ
Thiên Chúa và v́ tha nhân. Không có bất cư ai trong số những
người nầy có được những tiêu chí đó,
dù chỉ là một chút hơi hướng!
Đang buồn thay, lạy Chúa, cái đáng sợ
nhất nơi chúng con và cũng là cái đáng cho chúng con sợ
nhất, ấy là sự vô cảm đến rợn người.
Trong cuộc mưu sinh bận rộn vất vả v́ cơm-gạo-áo-tiền
đang vắt kiệt dần thể xác và tinh thần mỗi
người, chúng con thấy Chúa cứ xa dần, Lời của
Chúa ngày càng lộ ra khắt khe hơn, sứ mệnh Kitô-hữu
ngày càng lạc lỏng và nên gánh nặng, bỏ đi không được
– v́ áy náy lương tâm – nhưng c̣n đâu sức hơi tâm
trí và thời giờ để thực hiện. Đời
sống Kitô-hữu của chúng con, v́ thế, như “bèo dạt
mây trôi”, đến đâu hay đó, được chăng
hay chớ.
Có chăng một lúc nào đó, nh́n lại cuộc đời,
chúng con c̣n biết giật ḿnh trước câu hỏi do những
người thân, do tha nhân đặt ra cho chính con: Anh/Chị
có thật là người đă lănh nhận Chúa Kitô và sứ
mệnh ngôn sứ của người, hay chúng tôi c̣n phải
đợi ai khác?
Khi ấy, con sẽ trả lời ra sao?