Thơ Paul Nguyễn Văn Giàu - Thơ Paul Nguyễn Văn Giàu - Thơ Paul Nguyễn Văn Giàu

LỜI KHẨN NGUYỆN CỦA RỪNG

Thiên nhiên Việt Nam ngày nay chịu  quá biết bao sự tàn phá, chắn chắn không bao giờ còn cơ hội phục hồi được nữa. Trong đó Dalat thơ mộng, thân yêu của chúng ta hầu như bị khai thác cạn kiệt! Những môn sinh GHHV chắc hẳn là những người có tâm hồn nhạy cảm nhất và cảm thấy xót xa nhất…

Vậy mà cách đây nhiều thế hệ “thực dân” Tây phương vừa khám phá, vừa khai thác vừa bảo vệ và khuyến cáo dân địa phương phải biết yêu quí, giữ gìn thiên nhiên.

Bài thơ LA PRIÈRE DE LA FORÊT sau đây được kỹ sư Lê Văn Ký, giáo sư Nông Lâm Súc Sài Gòn xác nhận tác giả là một nhà Lâm nghiệp người Đức

Một cư dân đương thời Đà Lạt (1942) chụp lại tấm bảng gỗ, gồm 2 phần, cao độ 1,2m rộng 0,8m đặt tại một gốc thông lớn gần thác Cam Ly, ngay đầu con đường dẫn lên Lăng Nguyễn Hữu Hào (song thân Nam Phương Hoàng hậu) ghi lại bài thơ rất tha thiết nầy.

Tuy ít người biết đến nhưng bài thơ đã từng được dịch ra nhiều thứ tiếng, vì tính chất nhân văn của nó như Das Gebet des Waldes, Prayer of the Forest…

 .

 

Nguyên văn bài thơ (trình bày trang dòng theo bảng trong ảnh chụp)

 

Prière de la forêt

Home! Je suis la                                           Je suis le lit

chaleur de ton                                               dans lequels tu dors

foyer, par les                                                 et le bois dont tu

froides nuits                                                   fais les navires.

d'hiver, l’ombrage                                         Je suis le manche

ami lorsque brûle                                          de ta houe et la

le soleil d'été. Je                                           porte de ton enclos.

suis la charpente                                          Je suis le bois de

de ta maison, la                                            ton berceau et

planche de ta table.                                      de ton cercueil.

                                                                      Je suis le pain de la bonté

                                                                     et la fleur da la beauté(*)

                                                                    Ecoute ma prière:

                                                                    Ne me détruis pas!

 

LỜI KHẨN NGUYỆN CỦA RỪNG

Người hỡi! Ta là ánh lửa hồng,

Sưởi người ấm áp những đêm đông,

Là bóng mát che ngày hè nắng cháy.

Là xà nhà vững vàng nâng bộ mái,

Là mặt bàn người quen thuộc mỗi ngày.

Là chiếc giường ru giấc ngủ no say,

Tấm ván đóng thuyền vượt qua giông bão.

Ta là cán cuốc giúp làm nên cơm áo,

Là cổng rào bảo vệ mảnh vườn mơ.

Là chiếc nôi ru người thuở ấu thơ,

Là áo quan phủ kín người mãi mãi.

Ta là chiếc bánh của lòng nhân ái(*)

Là cánh hoa tươi đẹp ngoài đồng

Người có nghe lời ta khẩn nguyện không:

Đừng hủy diệt ta để người nguy khốn!

 

 


P.Giàu

23.4.2013

(*) Không rõ thêm vào lúc nào không có trong tấm bảng trên ảnh chụp.

 

 

 

© Lớp Ngôn Sứ, Khoá 15 GHHV, Đà Lạt