Cha
Thánh Joseph Marchand, người của Thần Khí
Mừng kính 174 năm Tử
Đạo của thánh Joseph Marchand
30.11.1835 – 30.11.2009
Teresa
Cha Thánh Joseph Marchand
bị xử bá đao
Ảnh chụp từ
sách Lịch sử Giáo Hội Công Giáo (Lm Bùi Đức Sinh
OP, t.391)
Thánh nhân: Joseph
Marchan, Linh mục Thừa Sai Paris (MEP)
Tên Việt
Năm sinh: 17.8.1803
Tử đạo: 30.11.1835
Hưởng dương: 32
tuổi
Nơi sinh: Làng Passavant (Doubs, Pháp)
Địa chỉ: Xă Passavant, Sở Doubs, miền đông nước Pháp.
Chịu chức: 4.4.1829
Đi truyền giáo: 20.4.1829
Xứ truyền giáo:
-
-
Dạy
học tại Chủng viện Lái Thiêu;
-
Coi sóc 25 giáo họ tỉnh B́nh
Thuận;
-
Coi sóc các xứ Cái Nhum, Cái Mơn,
Mặc Bắc (tỉnh Bến Tre), Băi Xan, Giồng Rùm (tỉnh Trà Vinh), cộng
đoàn Mến Thánh Giá Cái Nhum đều thuộc Giáo
phận Vĩnh Long;
-
Giảng
đạo xứ Chợ Quán (ngoài thành Phiên An, Sài G̣n);
-
Giảng
đạo trong thành Phiên An, Gia Định (Sài G̣n).
Pháp trường: Sân nhà thờ Thợ
Đúc, Giáo phận Huế (cách thành Huế 5km)
Giáo xứ: Phường Đúc, Giáo
phận Huế
Địa chỉ giáo xứ: Phường Đúc, thành phố Huế,
tỉnh Thừa Thiên Huế
(Cách Toà Giám Mục Hà
Nội 657km)
Điện thoại: 054.3821092
Thánh tích: Trong số hàng trăm
ngh́n vị Tử Đạo Việt Nam và trong 117 vị
đă được phong hiển thánh, cuộc tử
đạo của thánh Joseph Marchand thật bi thương
và hăi hùng nhất. Ngài bị giam ngục, bị tra hỏi và bị tra
tấn bằng ḱm thép nung đỏ. Ngài là vị duy
nhất bị án bá đao, nghĩa là bị cắt xẻo
một trăm nhát trước khi bị chặt ra làm
bốn phần, c̣n thủ cấp bị nghiền nát đổ
xuống biển.
Chứng từ đời sống thừa sai của
thánh Marchand là sự nhiệt tâm truyền giáo, ḷng yêu
mến các tín hữu và ư chí cương quyết trong
phục vụ duy nhất cho Tin Mừng qua những lời nói cuối cùng
của thánh Marchand, ngài chỉ nhắc đi nhắc
lại một lời: “Tôi chỉ biết có một
việc giảng đạo mà thôi”. Thánh Marchand đă nói điều ḿnh tha thiết
nhất, một lời xuất phát từ tận đáy
ḷng.
Nhờ ơn Thánh Thần Chúa
đánh động nên tôi đă quyết định
dừng chân ở thành phố Huế một đêm, sau khi
tôi hoàn thành xong chuyến đi công tác đầu năm 2007
tại Sài G̣n và các tỉnh miền Tây, chuẩn bị
đi về các tỉnh miền Trung. Tôi nhớ măi cảm
xúc khi về đến Huế. Ngay buổi chiều hôm
đó, khi vừa đặt chân tới Huế, tôi đă
được đón nhận điều kỳ diệu,
mà về sau, trong suốt cả năm qua tôi luôn cầu
nguyện và suy nghĩ v́ thấy canh cánh day dứt, u
buồn trong ḷng.
Khi ở ga Sài G̣n, tôi đă
điện thoại cho bạn bè ḿnh đang ở Huế và
nói là muốn nghỉ ở nơi yên tĩnh. Quả
thực, tâm trạng tôi lúc đó không c̣n vui được
v́ thấm mệt bởi chuyến đi công tác nhiều
ngày, đi lại vất vả lúc là ô tô, lúc là xe honda, lúc
trên phà, lúc đi bộ… tôi chỉ muốn ghé vào Huế t́m
sự yên tĩnh và thơ mộng để lại sức
tiếp tục chuyến công tác nhiều ngày tiếp theo vào
chiều hôm sau. Nhưng khi tôi tới Huế mấy
người bạn đă tha tôi đi khắp phố
phường, tôi đành kệ thân xác ră rời v́ biết
ḿnh không phải lái xe. Điều kỳ diệu
đến với tôi khi cô bạn cho tôi biết
chương tŕnh đi những đâu, trước tiên là
đi ăn tối, sau đó đi một ṿng thành phố
Huế rồi ra sông Hương đi qua cầu Tràng
Tiền, bên kia cầu Tràng Tiền có quán chè Huế nổi
tiếng là ngon. Khi vừa nghe
nhắc đến sông Hương và cầu Tràng Tiền
th́ tôi thấy trong ḷng xao xuyến lạ thường;
những h́nh ảnh, những câu chuyện về Huế dần
hiện trong tâm trí: tôi bắt đầu nhớ lại
những ǵ ḿnh đă ghi nhớ về Huế và tôi đă t́m
thấy điều ǵ đang làm ḷng ḿnh xốn xang, có
tiếng gọi tha thiết của ai đó đang rất
u buồn, rất khổ tâm nài xin tôi hăy đi đến
sông Hương, hăy đứng lại bên ḍng sông Hương.
Tiếng gọi tha thiết ấy như nỗi nhớ
của đôi bạn tri kỷ đă phải sống xa cách
nhau nay có giây phút gặp nhau, yêu thương, hờn dỗi
và chỉ muốn thực sự được gần
nhau.
Tôi thinh lặng cảm nghiệm
điều kỳ diệu và không vội đ̣i hỏi
đến sông Hương ngay, tôi cũng không kể cho
bạn bè ḿnh biết là ḿnh cần phải tới sông
Hương ngắm nh́n ḍng sông, tôi nghĩ là sẽ đi
thẳng qua cầu để tới quán chè Huế.
Nhưng ư Chúa thật nhiệm mầu, khi tốp xe chúng tôi
đi tới gần chân cầu Tràng Tiền th́ bị
lạc nhau do đèn tín hiệu giao thông và tốc độ
xe đi khác nhau. Xe của tôi đi trước một
hiệp đèn và phải đi chậm chậm trên cầu
rồi dừng đỗ lại ở nhịp giữa
cầu đợi các xe sau. Chính lúc đó, tôi xuống xe,
đi tới lan can thành cầu lặng nh́n ḍng sông
Hương trong ánh đèn hắt ra từ gầm cầu
bảy màu sắc tuyệt đẹp, làn nước
trở nên lung linh dịu dàng. Tôi nghĩ đến ḍng sông
Hương đă chứng kiến và đón nhận
lịch sử của Huế từ hàng ngh́n năm, qua bao
nhiêu triều đại vua chúa, những khi yên b́nh,
những khi chiến tranh, những thời bách hại
đạo, các vị tử đạo và có một vị
thánh… tôi cố nhớ tên của ngài… Bỗng tôi giật
ḿnh v́ tiếng gọi của các bạn để ra xe. Tôi
đă đứng ngắm nh́n ḍng sông chỉ chừng 2-3
phút.
Đêm hôm đó, tôi không ngủ
được v́ muốn nhớ ra tên của vị thánh
tử đạo ở Huế, một vị thánh rất
đặc biệt. Tôi vẫn thấy trong ḷng bứt
rứt không yên, thấy như ngài giận hờn tôi; thấy
như những lời xin lỗi của tôi vẫn chưa
làm ngài vui để tôi có thể trở về Hà Nội vào
sáng hôm sau. Và tôi chợt nhận ra tên của ngài, đó là
của cha thánh Joseph Marchand. Tôi hiểu, tiếng gọi tôi
rất tha thiết khi năy ở bên ḍng sông Hương là
của cha Marchand, trong tiếng gọi của ngài tôi nghe
thấy tiếng kêu của biết bao linh hồn khác.
T̀NH
THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA QUA VỊ THỪA SAI
Cha Jean Marchand sinh tại làng
Passavant (miền Doubs, nước Pháp) vào ngày 17.8.1803. Khi học
xong trường đạo tại Orsans, cha Marchand vào
Đại Chủng Viện thành phố Besançon, rồi
nhập Chủng viện Hội Thừa Sai Paris lúc đă
lănh chức phụ-phó-tế (sous-diacre) ngày 25.12.1828.
Cha Marchand lănh chức linh mục
ngày 04.4.1829, ngài lên đường ngày 24 cùng tháng 4 đó
để sang xứ Đàng Trong (Việt Nam). Khó có thể
h́nh dung buổi chia tay đầy lưu luyến và cảm
động của những người thân yêu trong gia
đ́nh.
Tháng 3 năm 1830, cha Marchan
đặt chân đến Việt Nam, theo học tiếng
Việt tại Chủng Viện Lái Thiêu, và bắt
đầu các sinh hoạt tông đồ nơi những vùng
có đạo của tỉnh Mĩ Tho, Vĩnh Long, Châu
Đốc, và cho tới tận Phnom Penh, kinh đô xứ
Campuchia. Không lâu sau, cha Marchand trở
lại Lái Thiêu, ngài dạy học cho một số
ít chủng sinh, trong số đó có hai thày Philip Phan
văn Minh và thày Mattheu Lê văn Gẫm. Sau này thày Minh làm linh
mục, thày Gẫm sống đời gia đ́nh. Cả hai
thày đều chịu phúc tử đạo thời vua Minh
Mạng. Một năm sau khi cha Marchand tới Nam Kỳ th́
có thêm cha Gilles Delamotte (tên Việt là Y), mới
từ Pháp đến Quảng Trị. Ngài ở tại
chủng viện Phương Ru (An Ninh) học tiếng
Việt vài tháng, sau đó sang định cư bên làng Nhu Lư,
ở nhà ḍng các chị Mến Thánh Giá.
Thời gian dạy học ở
Chủng viện Lái Thiêu, cha Marchand nhận bài sai lo cho toàn
khu vực tỉnh B́nh Thuận, coi sóc 25 họ đạo
với khoảng 7000 tín hữu, phương tiện đi
lại đều bằng thuyền rất khó khăn. Trong một lá thư ngài viết về cho gia đ́nh
đề ngày 13.6.1832, có đoạn: “… 25 giáo họ cách nhau rất xa.
Muốn chu toàn bổn phận, con không thể bỏ phí
một giây nào… từ năm giờ sáng đến chín
giờ tối, nhiều ngày chẳng có lúc nào rảnh
rỗi cả. Con chỉ có thể dành chút thời giờ
chu toàn việc đạo đức riêng lo cho phần
rỗi ḿnh, c̣n th́ luôn luôn phải làm việc để thánh
hóa kẻ khác… Con chỉ tiếc một điều là không
thể tận tụy hơn được nữa,
để vừa giúp giáo dân, vừa giúp lương dân,
lại cón phải bắt buộc di chuyển bằng
thuyền, nên không thể đi mọi nơi, hầu
dẫn về đoàn chiên Chúa Giêsu những con chiên bất
hạnh lạc đường…”
Cuộc cấm đạo ngày 6.1.1833 do vua Minh Mạng
ra chiếu chỉ lùng bắt các giáo sĩ Âu châu đă
khiến Đức cha Jean
Louis Tabert, cha Etienne Theodore Cuenot và các cha thừa sai
cùng các chủng sinh trốn qua Thái Lan vào đầu
năm 1833. Chỉ có hai cha, cha Marchand và cha
Delamotte là nhất quyết xin với Đức cha Tabert và
cha Cuenot cho phép được ở lại. Cha Marchand ẩn
tránh ở miền Lục Tỉnh, giúp các họ Cái Nhum,
cộng đoàn Mến Thánh Giá Cái Nhum, xứ Cái Mơn, Băi
Xan, Giồng Rùm và trú tại Mặc Bắc thuộc
tỉnh Vĩnh Long; c̣n cha Delamotte lánh nạn tại
Dương Sơn, Nhu Lâm rồi lại về làng Nhu Lư là
các làng thuộc tỉnh Quảng Trị.
Vua Minh Mệnh là người trí
thông minh, nhưng tâm ác độc. Cái trí thông minh của nhà
vua là trí thông minh của người theo Nho học,
thường mang cái nh́n thiên về quá khứ và bảo
thủ hơn là biết nhận xét hiện tại mà
chuẩn bị tương lai. Và cái ác độc bẩm
sinh của nhà vua th́ đối với mọi người,
chẳng trừ ai, kể cả đối với thân
bằng quyến thuộc. Đặc biệt, vua rất
ghét đạo Công giáo. Chuyện vua Minh Mạng ra chiếu
chỉ lùng bắt, giết hại các giáo sĩ Âu châu là do nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân xuất phát ở ngay trong
triều đ́nh thời vua Gia Long sau khi Đức cha Pigneaux
de Behaine đưa Hoàng tử Cảnh trở về
Việt Nam Hoàng tử không chịu bái yết Tôn Miếu làm
cả triều đ́nh phải sửng sốt. Năm 1794, Hoàng
tử Cảnh 14 tuổi được lập làm Đông
Cung Thái Tử, mùa hè năm ấy Nguyễn Ánh đi đánh
Tây Sơn ở Quy Nhơn sai Đông Cung trấn giữ Gia
Định, mùa đông trấn giữ Diên Khánh. Cùng năm
đó Nguyễn Ánh nhận Minh Mạng làm con nuôi, lúc ấy
Minh Mạng 3 tuổi. Kể từ năm 1794, Đông Cung
Thái Tử luôn làm rất tốt các việc Nguyễn Ánh
giao: một mặt lo việc trị an, một mặt lo
việc quân nhu, pḥng ngự. Là người đức
độ, nhân từ, hiểu biết và luôn lắng nghe
lời khuyên của Đức Cha Behaine đă làm cho Nguyễn
Ánh có lần nhận định về Đông Cung đó là
nhân từ có thể đi đến nhu nhược: “Phàm nhân hậu phải có
cương quyết mới được việc.
Ngươi làm Nguyên Soái trấn giữ Diên-khánh thế mà
Phước trước đă tự tiện làm oai, sau
lại vô lễ với Sư phó ngươi mà ngươi
một niềm nín nhịn há chẳng là quá nhân hậu
ư? Từ nay về sau, kể từ Phó tướng
trở xuống, kẻ nào không vâng lệnh th́ đem chém
để nghiêm tướng lệnh.” (x. Đại
Trong số các quan cận thần của vua Gia Long, có Lê
Văn Duyệt (1764-1832) là một công thần trụ
cột của nhà Nguyễn.
Ông đă theo ṭng chúa Nguyễn Phúc Ánh từ năm 17 tuổi, cùng
với chúa Nguyễn Phúc Ánh và các tướng lĩnh khác
lấy thành B́nh Định, chiếm thành Phú Xuân, thâu
đất Bắc Hà về cho nhà Nguyễn, giữ chức
Tổng Trấn thành Gia Định 2 lần: từ 1812 đến
1815 (triều
vua Gia Long) và
từ 1820 đến
1832 (đời vua Minh Mạng).
Vua Minh Mạng và
tả quân Lê Văn Duyệt vốn có nhiều hiềm khích và tư thù: Lê
Văn Duyệt đă cho xử chém Huỳnh Công Lư, cha
đẻ một quí phi được vua Minh Mạng
sủng ái; Lê Văn Duyệt không ủng hộ việc Minh
Mạng lên ngôi mà ủng hộ con của Hoàng tử Cảnh khi vua Gia Long băng hà; Ông
tỏ ư ủng hộ các Thừa sai Châu Âu làm nghịch ư vua
Minh Mạng; Lê Văn Duyệt chủ trương một
kiểu “kinh tế thị trường” mới mẻ,
đem lợi ích kinh tế lớn lao cho vùng Sài G̣n Chợ
Lớn bằng cách mở rộng việc mua bán với
Campuchia, giao thương với cả Pháp, Anh, Bồ
Đào Nha; Do từ tiền triều đă được
hưởng quyền “nhập triều bất bái” (vào
triều không phải lạy) nên sau này ông không chịu
lạy vua Minh Mạng; Lê Văn Duyệt nhiều lần
vượt quyền, hoặc làm sai ư triều đ́nh
đặc biệt là sau khi vua Gia Long qua đời. Dù không
ưa Lê Văn Duyệt nhưng vua Minh Mạng không dám làm ǵ
Lê Văn Duyệt v́ công lao và uy quyền quá lớn của
ông với triều đ́nh. Năm 1832, Lê văn Duyệt qua
đời hưởng thọ 68 tuổi. Từ khi con nuôi
ông là Lê
Văn Khôi nổi loạn chiếm thành Phiên An
(tức thành Gia Định) vào năm 1833, vua Minh Mạng
thường ban trách Lê Văn Duyệt, dù ông đă mất.
Năm 1832, ngay
sau khi Lê văn Duyệt đă mất, vua Minh Mạng
liền cho quân vào chiếm lại thành Phiên An. Trong những
quan lại thay thế ấy có Nguyễn Văn Quế làm
tổng đốc, Bạch Xuân Nguyên làm bố chính,
Nguyễn Chương Đạt làm án sát. Và vốn là
người tham lam, tàn ác; nên khi đến làm bố chính
ở Phiên An, Bạch Xuân Nguyên nói rằng phụng mật
chỉ truy xét việc riêng của Lê Văn Duyệt, rồi
đ̣i hỏi chứng cớ, trị tội bọn tôi
tớ của ông Duyệt ngày trước (trong số
đó có Lê Văn Khôi bị cầm tù). Đến đêm
ngày 18 tháng 5 năm Quí Tị (1833), Khôi cùng với 27
người lính hồi lương vào dinh quan
Bố, giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên, người
trực tiếp lo vụ án Lê Văn Duyệt. Nguyễn
Văn Quế đem người đến cứu, chúng
cũng giết nốt. C̣n quan Án và quan Lănh th́ chạy thoát
được. Phó lănh binh Phiên An là Giả Tiến Chiêm
đem hơn 400 lính chống lại nhưng bị thua
bỏ chạy. Sau đó, Lê Văn Khôi cho mở cửa tù,
thả hết phạm nhân và phát khí giới cho họ. Ông
tự xưng là Đại nguyên súy, phong quan tước cho
thuộc hạ, rồi cùng lập một triều đ́nh
riêng. Chiếm được thành Phiên An, Lê Văn
Khôi sai Thái Công Triều đem quân đi lấy các tỉnh
thành. Chỉ trong ṿng chưa đầy một tháng, sáu
tỉnh Nam Kỳ đều thuộc về quân nổi
dậy. Cuộc binh biến
này, có thể hiểu là
một cuộc đảo chính quân sự của một
tầng lớp thống trị địa phương,
nhằm chống lại nhà nước phong kiến triều
đ́nh đă lôi cuốn
được nhiều thành phần, như: giáo dân Thiên
Chúa, một số Hoa kiều, một số dân tộc ít
người vùng Tây Ninh, binh lính quê ở miền Bắc, miền
Trung, một số địa chủ, ḍng dơi công thần và
một số quan lại dưới quyền Lê Văn Duyệt...
Cha Marchand
đến Việt Nam vào những năm Tả quân quận
công Lê văn Duyệt và Lê văn Khôi (? – 1834) giữ
trấn Gia Định. Ngài không hề can gián vào việc
chính trị của triều đ́nh, một ḷng một ư
chỉ biết giảng đạo và nâng đỡ
đời sống đạo cho các tín hữu ở
Lục tỉnh Nam Kỳ trong khi phải chứng kiến
những dư luận về triều đ́nh nhà Nguyễn. Qua lời các tín
hữu họ Chợ Quán, Lê văn Khôi khám phá ra ngài đang
lẩn trốn trong rừng Mặc Bắc liền cho
người mời ngài về Chợ Quán, cha từ
chối. Các tín hữu Chợ Quán nài xin cha hăy vào thành,
mọi người nói:
-
“ Nếu cha không chịu về, sợ quan giận mà
chém hết bổn đạo trong thành. Ở đó, bổn đạo cũng đông lắm…”
Sau khi cha
Marchand nghe các giáo hữu cho biết là trong thành có rất
nhiều bổn đạo th́ thấy chạnh ḷng
thương mà đành ḷng về xứ Chợ Quán do cha
Phước làm chính xứ. Cha Marchand về xứ Chợ
Quán th́ ở nhà thờ, nhưng rất ít khi ở nhà, cha lo
đi thăm các gia đ́nh công giáo trong thành. Tướng
Khôi nhiều lần mời cha vào thành Phiên An, nhưng cha
vẫn không chịu trong thành.
Khi quân triều đ́nh bao vây thành Phiên An từ năm
1832, Lê văn Khôi cho quan đem voi ra Chợ Quán bắt ép cha
Marchand phải vào thành. Cha buộc phải vào thành theo ư
của Khôi. Cha Phước và nhiều tín hữu Chợ
Quán cũng theo vào với cha. Trong thành, tướng Khôi
xử đăi cha khá rộng răi, có nhà riêng để dâng
lễ hàng ngày, các tín hữu được tụ họp
đọc kinh, xem lễ, nghe giảng và lănh các bí tích. Cha
Marchand xử thế lịch sự và thẳng thắn với
tướng Khôi, với những người thân trong gia
đ́nh Khôi cùng các tướng trong thành nên được
mọi ngựi rất kính trọng. Nhiều lần,
tướng Khôi cho cha biết ư muốn được cha
tiếp sức để chống lại quân triều
đ́nh, nhưng trước sau cha chỉ nói:
-
“Tôi chỉ
biết việc đạo, c̣n việc binh lính th́ tôi không
hề biết.”
Một hôm, cha được tướng Khôi mời
vào dinh nguyên soái. Tướng Khôi cho cha xem một xấp
thư kêu gọi dân chúng và tín hữu nổi đạy
chống nhà vua, ông xin cha kư tên. Cha Marchand hiểu đă
đến lúc tỏ rơ lập trường của ḿnh,
liền đứng dậy cầm xấp thư ném tất
cả vào lửa. Thấy vậy, tướng Khôi biết
không thể làm ǵ được cha.
Từ triều đ́nh, vua Minh
Mạng liền cử Tống Phúc Lương, Nguyễn
Xuân, Phan Văn Thúy, Trương Minh Giảng và Trần
Văn Năng đem thủy bộ binh tượng vào
đánh Lê Văn Khôi. Địa chủ, phú hào các nơi dao
động, không dám ủng hộ ông nữa. Tiếp
đó, một tướng giỏi của ông là Thái Công
Triều (quê Thừa Thiên, nguyên là vệ úy coi vệ
biền binh ở Phiên An và là người được
Khôi giao quản lĩnh phân nửa Nam Kỳ) cũng bất
ngờ đầu hàng triều đ́nh, khiến lực
lượng nổi dậy suy yếu nhanh chóng. Nhân cơ
hội này, các tướng nhà Nguyễn nhanh chóng thu phục
lại các tỉnh đă mất. Lê Văn Khôi phải rút vào
thành Phiên An cố thủ. Ông cầu viện Xiêm. Vua Xiêm nhân
muốn lấn đất Đại Nam nên điều quân
sang giúp.
Đầu
năm 1834, Lê Văn Khôi bị bệnh phù thũng, chết
ở trong thành, không rơ bao nhiêu tuổi. Con trai ông là Lê Văn
Cù mới 7 tuổi được cử lên thay.
Tướng Nguyễn Văn Trắm (em họ ông)
đứng ra chỉ huy quân trong thành. Quân triều đ́nh
chia làm 8 mũi, tấn công ồ ạt vào 8 cửa thành
Phiên An. Thành Phiên An cố thủ được tới ngày
mồng 8
tháng 9 năm
1835 th́ quân nổi dậy chống cự không nổi. Thành
Phiên An thất thủ, 1.831 người gồm cả già
trẻ, gái trai đều bị chém chết, số
người Hoa bị bắt tại chỗ hơn 800
người chôn chung một chỗ. Khi quân triều
đ́nh chiếm thành Phiên An, sáu người bị bắt
giữ ngay tức khắc và bị kết tội tham gia
chống triều đ́nh đem về Huế
xử, trong đó có tướng Nguyễn Văn Trắm,
một người con của Lê Văn Khôi (7 tuổi) hai
thủ lănh gốc Hoa tên Mạch Tấn Giai (người
Tiều), Lưu Hằng Tín (người Quảng) và cha
Phước bị kết án xử trảm (lăng tŕ).
Riêng cha Joseph Marchand bị xử bá đao.
Bị dẫn về Huế trong
chiếc cũi nhỏ dài một mét (1m), rộng bảy
tấc (0,7m) và cao tám tấc (0,8m) đi suốt chặng
đường 1121 dặm trong thời gian hơn một
tháng. Đến Huế bị giam ngục, bị tra
hỏi và bị tra tấn bằng ḱm thép nung đỏ. Tất
cả những giam cầm, bắt bớ, đánh
đập không thể làm ngài thú tội đă giúp quân
phiến loạn và cũng không t́m được chứng
cớ đáng tin cậy để kết án ngài, các quan ṭa
truyền ngài phải chối đạo và quá khóa. Ngài từ chối trong lời khẳng định:
-
“Tôi chỉ lo
cầu nguyện cùng Chúa và làm lễ thôi.”
Tin về thành Phiên An bị thất thủ, gần hai
ngh́n người trong thành bị giết chết, chôn
tập thể ngay trong thành và chôn rải rác từ thành ra
Chợ Lớn đă khiến người dân vô cùng sợ
hăi. Khắp nơi tin về cha Marchand và cha Phước
bị bắt giam trong ngục Vơ Lâm gần toà Tam Pháp ở
Huế đă lan đi nhanh chóng. Không một tín hữu nào
dám liều ḿnh xin quan giảm nhẹ h́nh phạt tra
tấn, mọi người chỉ biết cầu
nguyện cho hai cha. Càng lúc việc truy lùng bắt
đạo càng gắt gao. Tại Huế, lang y Simon Phan
Đắc Ḥa là một người rất có thế giá
nhưng cũng không thể giúp được ǵ cho cha
Marchand và cha Phước. Bầu khí ảm đạm
của cái chết tang thương gần kề với hai
vị chứng nhân Tin Mừng bao trùm Giáo Hội Việt
Nam. Những cuộc tra vấn và cực h́nh ḱm kẹp
được công khai cho bàn dân thiên hạ thấy: họ
cho nung đỏ ḱm sắt và cho kẹp hai lần vào hai
đùi cha, rồi giữ nguyên cho tới khi ḱm nguội.
Mỗi lần như vậy, mùi thịt cháy xông lên khét
lẹt, chính quân lính cũng phải quay mặt đi. Hai
lần cha ngất xỉu, nhưng khi tỉnh lại
trả lời quan, cha vẫn giữ nguyên lời khai
cũ. Họ đành nhốt cha vào cũi rồi đưa
về ngục. Tiếng khóc nghẹn đi, những
giọt nước mắt cố nén lại của các giáo
dân và các nữ tu cải trang làm dân thường vào xem quan
tra vấn cha Marchand càng làm cho lời cầu nguyện tha
thiết hơn.
Trong lần đối chất của ngày hôm sau,
để tạo chứng gian buộc tội cha Marchand, các
quan dỗ ngon ngọt với con trai Lê văn Khôi, hứa
trả tự do cho cậu nếu khai rằng “Tây
dương đạo trưởng giúp cha em khởi
nghĩa”. Nhưng cậu bé bảy tuổi ấy không
biết nói dối, cậu nói:
-
“Cha Du hoàn toàn vô
can dầu cho cha tôi có hứa với cha nhiều lần.”
Cuối cùng, các quan đành chuyển qua “tội
giảng đạo”. Họ nhắc đến chiếu
chỉ nhà vua, và hứa ân xá nếu cha bước qua Thánh
Giá. Cha Marchand cám ơn quan và tuyên bố sẵn sàng chịu
cực h́nh chứ không thể chối Chúa. Quan lại cho
tiếp tục nhốt cha trong cũi. Sáu tuần lễ
ở Kinh đô đă trôi qua như thế. Các tín hữu ghé
vào thăm và tiếp tế cho cha đều thuật
lại rằng:
-
“Cha Du vẫn luôn
vui vẻ và thường cầm cuốn sách nhỏ
để đọc đêm ngày.”
-
Thừa
lệnh vua Minh Mạng, bản án cuối cùng
được viết như sau:
“Tây dương Ma Sang kêu danh là Du, Gia Tô đạo
trưởng, pḥ nguỵ Khôi, nhận tội có viết
thư xin Hồng Mao (nước Anh) và Xiêm La (Thái Lan) sang
giúp nguỵ thần. Lệnh xử bá đao”.
Sáng sớm ngày 30.11.1835, bảy phát súng thần công
nổ vang kêu mọi người đến tham dự
cuộc xử án. Cha Marchand và bốn tử tù (một
người đă chết trong ngục) chỉ
được đóng khố, bị dẫn đến
cửa Ngọ Môn tŕnh diện và phục lạy vua năm
lạy. Vua Minh
Mạng tỏ vẻ giận dữ ném chiếc cờ
hiệu xuống đất. Đó là dấu không ân xá
lần cuối, năm tội nhân được
đưa ra pháp trường. Riêng cha Marchand, theo mật
lệnh, được đưa vào ṭa Tam Pháp tra khảo
một lần nữa. Đọc nội dung cuộc tra
khảo này, chúng ta thấy quan quân không đả
động ǵ đến lư do chính trị cả!
Năm người lính
cầm năm ḱm nung đỏ kẹp vào bắp vế cha.
phía sau là năm người lính khác cầm roi để
năm lư h́nh không được phép nương tay. Ba
lần ḱm kẹp, thân thể cha Du có đủ 15 vết
bỏng. Song song với cuộc tra tấn là mẫu
đối thoại sau:
-
Tại sao Gia Tô móc mắt mấy
người gần chết?
-
Không có, không bao giờ tôi thấy
điều đó.
-
Tại sao mấy người
kết hôn lại phải đến các thày đạo
trước bàn thờ?
-
Họ đến để thày
cả chúc phúc và chứng nhận trước mặt các tín
hữu ở đó.
-
Khi làm yến tiệc trong nhà
thờ, bay làm những sự quái gở lắm phải
không?
-
Không, chẳng có những
điều quái gở.
-
Vậy sao có thứ bánh dùng làm bùa
mê thuốc lú để phát cho những đứa đă
xưng tội mà làm nó mê đạo đến thế?
-
Cha Marchand
kiệt sức không thể trả lời được
nữa, ngài lặng yên cầu nguyện với Chúa.
Sau đó, lính
đưa các tử tội đến pháp trường
tại họ Thợ Đúc bên sông Hương, cách Kinh thành
ba dặm đường. Năm cây cọc đă cắm sẵn.
Lính trói năm tử tội, cha Marchand bị trói vào cây
cọc thứ hai. Ngài bị án “Phản loạn” và sẽ
chết giữa những người phản loạn. Dân
chúng bị đuổi lùi ra xa 30 thước. Cứ
mỗi tử tội lại có ba lư h́nh, một cầm ḱm,
một cầm đao, c̣n một lo đếm số cho
đủ 100 lát cắt. Trước đó, lính đă nhét
vào miệng tội nhân và cột chặt, để không ai
có thể kêu la được nữa. Sau một hồi
trống, lư h́nh cắt lớp da trên trán cha Marchand lật
xuống che mặt, rồi cắt từng mảnh hai bên
ngực, sau lưng, tay chân. Quá đau đớn, vị
chứng nhân giẫy giụa, quằn quại, ngước
mắt lên trời cao rồi gục đầu xuống
nhắm mắt ĺa đời. Ngài chịu chết cách anh dũng.
Sau khi cha Joseph
Marchand chết, quân lính cắt đầu của ngài,
cởi dây, bổ thân ḿnh làm bốn, đưa ra ngoài
biển khơi rồi ném xuống biển chung với
bốn tử tội kia. C̣n thủ cấp cha,
được đưa đi bêu ở nhiều nơi,
rồi được trả về kinh đô, bị
bỏ vào cối giă nát thành bột và bị rải
xuống biển.
Trong những lá
thư của cha Delamotte và cha Marette gửi cho Hội
Thừa Sai Paris (MEP) vào ngày 29.1.1836 và ngày 21.2.1836 đă
thuật lại diễn biến bị bắt, các lời
khai và cuộc tử đạo của cha Joseph Marchand. Có
thể căn cứ vào những lời nói cuối cùng
của một người sắp chết mà biết
được người đó như thế nào, bởi
v́ trước khi chết, người ta chỉ nói
những ǵ ḿnh tha thiết nhất, những ǵ xuất phát
từ tận đáy ḷng. Giáo Hội đă rất thận
trọng khi nghiên cứu hồ sơ cha Joseph Marchand, căn
cứ vào các buổi tra khảo, nhất là cuộc thẩm
vấn cuối cùng, Giáo Hội khẳng định ngài
đă hiến mạng sống v́ đức tin.
THEO
TIẾNG YÊU THƯƠNG
Ngay khi tôi ở ga Hà Nội về đến nhà, tôi
t́m sách đọc hạnh thánh Joseph Marchand. Tiếng nấc
nghẹn trong họng, sống mũi cay và những giọt
nước mắt trào ra lúc nào không biết. Tôi đă dâng
lời cầu nguyện xin ngài tha thứ v́ tôi ở bên
ngài, bên ḍng sông Hương quá ít thời gian, tôi thấy
buồn và thương ngài vô cùng, tôi xin phép thân thưa
với ngài, gọi ngài yêu thương là “cha Marchand”.
Nhiều ngày sau, tôi cố viết lại cảm xúc
khi đến Huế, cảm xúc về sự níu lại vô
h́nh lúc đứng nh́n ḍng sông Hương nhưng không
thể v́ quá xúc động, mỗi lần định
viết là tôi lại khóc, tôi khóc rất nhiều. Gần hai
năm qua những xúc động trong ḷng tôi đă dần
bớt cảm thấy đau thương cho tới ngày
lễ thánh Simon Phan Đắc Hoà 12.12.2008, tôi nhớ về
cha Marchand, cảm xúc thương cha trở về, tôi
đă khóc. Lần này, tôi khấn xin cha Marchand phù giúp tôi
viết bài viết về ngài. Đêm hôm sau, sau khi
đọc hạnh thánh cha Marchand trong Uống Nước
Nhớ Nguồn, tôi có thắc mắc là muốn
được biết về cuộc hành h́nh xử bá
đao ngài như thế nào, nếu chỉ đọc các
điều tả lại trong sách th́ tôi vẫn chưa thể
h́nh dung ra hết được.
Có lời khuyên đến với tôi trong tâm trí đó
là: “Hăy t́m điều ǵ đó về cha Marchand trong sách
Lịch sử Giáo Hội Công giáo của Linh mục Bùi
Đức Sinh (OP)”. Tôi vội cầm cuốn sách và
đặt trên giường, hai bàn tay mở khoảng
giữa sách, thật kỳ diệu, tôi thấy bức tranh
vẽ về cuộc xử bá đao cha Marchand trang 391, tôi
thầm gọi cha Marchand, dâng lời tạ ơn ngài v́ ngài
đă cho tôi biết việc ngài bị xử bá đao như
thế nào. Tôi dùng máy ảnh chụp lại bức ảnh
trong sách lúc đó là 0h33’ ngày 13.12.2008. Đêm đó, tôi đă
thức khuya hơn với những thắc mắc xuất
hiện dồn dập trong đầu ḿnh. Những ngày
tiếp theo tôi dành nhiều thời gian t́m nhiều tài
liệu về lịch sử triều Nguyễn, Tây Sơn,
t́m đọc các tài liệu về Đức Cha Pigneaux de Behaine, Đức Cha Jean Louis Tabert và các cha thừa sai cùng thời với
cha Marchand. Thật bất ngờ, khi tôi hiểu và cảm
thấy hổ thẹn về lịch sử nước nhà
v́ trước đây ḿnh được biết sử
“lơ mơ” quá!
Những câu hỏi được đặt ra và tôi
nhận được những thông điệp trả
lời: V́ sao cha Marchand lại vào thành Phiên An? V́ sao cha
Marchand chỉ nói được mỗi câu “Tôi chỉ
biết lo mỗi việc giảng đạo”? Tướng
Lê văn Khôi là ai? Lê văn Duyệt là người như
thế nào? Nguyễn Ánh và Đức Cha gặp nhau trong hoàn
cảnh nào? Có phải Hoảng tử Cảnh là “con tin”? Việc
Nguyễn Ánh nhận Minh Mạng làm con nuôi là có ư ǵ? Nguyễn
Ánh và Minh Mạng có h́nh thức trả thù, xử tội
như thế nào? V́ sao tài liệu sử lại ghi Đông
Cung chết do bệnh dịch đậu mùa? Đông Cung có
thể đă đoán trước cái chết của ḿnh; Vụ
án về cái chết của Tống thị Quyên, vợ
của Đông Cung; Tương lai của Hoảng tử
Cảnh là tương lai của đất nước.
Tôi lấy làm
ngượng khi tài liệu sử nước nhà ghi Hoàng
tử Cảnh là “con tin” cho tới giờ vẫn chưa
được sửa (?!). Hiểu lịch sử phải
hiểu sự thật về lịch sử chứ không
phải chỉ hiểu một nửa sự thật
lịch sử. Khi bắt đầu đọc hạnh
thánh cha Joseph Marchand, tôi đồng thời t́m hiểu
kỹ hơn về các nhân vật lịch sử triều
Nguyễn, tôi muốn chia sẻ về một tân ṭng tự
nguyện theo Chúa v́ đă được Chúa mạc
khải cho thấy Ngài, thấy t́nh yêu của Chúa và
sống trong t́nh Chúa, người tân ṭng ấy là Hoàng
tử Cảnh, vị vua tương lai vương
triều nhà Nguyễn.
Trước
khi Hoàng tử Cảnh ra đời năm năm, xứ An Nam đang có
nội chiến, xâu xé nhau giữa nhà Nguyễn
đương vị và quân khởi nghĩa Tây Sơn (“Những người
miền núi phía Tây”). Cuộc nổi dậy xuất phát từ
Qui-Nhơn, phía nam xứ Huế. Vào cuối năm 1775, quân
Tây Sơn bắt giữ toàn thể hoàng gia ở vùng
Long-Xuyên, và xử tử nhà Vua và đứa con của nhà
vua. Là người đại diện duy nhất của nhà
Nguyễn, chàng trẻ tuổi Nguyễn Ánh, Hoàng đế
Gia Long tương lai, lúc đó 16 tuổi, trốn thoát
được nhờ sự giúp đỡ của Giám
Mục Pigneaux de Behaine. Người công giáo nh́n thấy trong
chàng trai này một vi tân “Mai-Sen được cứu
khỏi nước”.
Tạm thời, nhà Tây
Sơn cho rằng cuộc chinh phục Nam kỳ đă thành
công, nên xuất quân ra Qui Nhơn để chuẩn bị
đánh Bắc Hà. Nguyễn Ánh qui tụ phe của ông và nhóm
Trung Hoa của quan đầu tỉnh Hà Tiên, và cố tái
chiếm vùng đất đồng bằng sông Cửu Long.
Sài g̣n được chiếm lại vào năm 1776. Ở
phía Bắc, cùng năm đó, Thăng Long rơi vào tay nhà Tây
Sơn, và toàn vùng bị rơi vào nạn đói kinh
khủng. Vào giữa năm 1778, hải tặc Kampuchia xâm
chiếm khu đạo ở Hà Tiên, càn giết những người
công giáo, gây ra nhiều tử vong cho những nhà truyền
giáo. Pigneaux và những chủng sinh trốn ở Tân-
triệu, gần Sài g̣n.
Nguyễn Ánh ở gần đó
nên thường thăm viếng Đức cha Behaine.
Từ lúc đó, nảy sinh ra một t́nh bạn khắng
khít giữa hoàng thân và giám mục. Yên ổn được
3 năm, quân Tây Sơn trở lại miền Nam vào năm
1782, đóng quân trước cửa thành Sài G̣n và chiếm
được thành. Hơn 10,000 (mười ngàn)
người Trung Hoa ở Chợ Lớn bị sát hại
bởi phe chiến thắng. Đức cha Behaine bắt
buộc phải bỏ trốn cùng với các chủng sinh
và một số người công giáo, trước tiên là
đến Campuchia, rồi đến những ḥn
đảo thuộc vịnh Xiêm La. Trên đảo Poulo Vai, Đức
cha viết ra quyển giáo lư bằng tiếng Nam Kỳ,
trong khi chờ đợi hết mùa mưa. Vào tháng giêng
năm 1784, Đức cha Behaine gặp Nguyễn Ánh, cũng
trốn tránh như ông và đang ở trong bước
đường cùng. Đức cha chia sẻ với
Nguyễn Ánh và quân lính đang đói khát những
lương thực cuối cùng, nhờ vậy cứu
được họ. Đức cha cùng với họ
đi đến đảo Poulo Condore. Quân Tây Sơn
rượt đuổi cả Giám Mục. Nguyễn Ánh
chỉ c̣n 1000 quân. Họ đành trốn trở lại Phú
Quốc. Làm sao quật lại thế cờ? Cầu
viện với người Xiêm? Làm như vậy sẽ có
nguy cơ mất các tỉnh. Dù vậy họ cũng
đành phải cầu viện. Kết quả là một
thất bại nặng nề. Nguyễn Ánh xác tín rằng
v́ quân Tây Sơn quá hùng mạnh, nên không một quốc gia
Châu Á nào có thể đơn phương đẩy lùi
họ được. Người Bồ đào nha,
người Hoà Lan, và người Anh, đồng t́nh
sẵn sàng tiếp viện. V́ không muốn sự nhập
cuộc của người Tin lành với nước Anh,
hoặc người đạo Calvin với người Hoà
Lan, cũng như không muốn những khó khăn
trước kia với người Bồ Đào Nha tái
xuất hiện, Pigneaux đề nghị với
Nguyễn Ánh cầu viện nước Pháp. Nguyễn
Ánh cuối cùng chấp nhận đề nghị nầy. Đức
cha Behaine được cử đi Versailles.
Đức cha rời
đảo Poulo-Panjang, cùng với con của Nguyễn Ánh là
Hoàng Tử Cảnh, 4 tuổi, và người bạn thâm
giao Nam Kỳ, linh mục Paul Nghi, và 2 quan lại, cùng
với 40 người lính. Họ đến Pondichéry vào
năm 1785. Nhưng tại đây, trong khi những
thương gia tán thành ư kiến của giám mục, th́ chính
quyền địa phương và vị chỉ huy căn
cứ Hải quân lại cho rằng kế hoạch này
sẽ không mang lại lợi ích nào. Đức cha bắt
đầu đặt nghi vấn về kế hoạch
của ḿnh liền gửi thư cho Hội Truyền giáo Paris
để báo tin ông sẽ quay trở lại Nam kỳ.
Cuối cùng mọi chuyện được sắp xếp
ổn thoả, và tàu có thể rời bến đi Pháp.
Đến Lorient ngày 5 tháng 2 năm 1787. Triều đ́nh
đánh giá cao phẩm chất và sự chính xác của bài
tường tŕnh. Tướng Montmorin và tướng De Castries,
Tổng thư kư các Bộ Ngoại giao và Bộ Hải
Quân, đều tán thành đề án của Giám Mục và
hứa sẽ giải quyết thuận lợi cho Giám
mục. Trong khi chờ đợi, nét uy nghi của Đức
cha Behaine và tính cách ngoại lai của hoàng tử
được triều đ́nh yêu thích. Hoàng tử Cảnh
chơi đùa với các con của vua Louis XVI là Marie Therese,
Louis Joseph Xavie Francois, Louis Charles và Sophie Helene.
Ngày 5.5.1787
Đức cha Behaine và Hoàng tử Cảnh vào triều
kiến ở Versailles. Hoàng tử Cảnh khôi ngô, rất
được chú ư. Đức cha mời Léonard
(người hầu chải đầu cho Hoàng Hậu Marie
Antoinette) sửa tóc cho Hoàng tử, bỏ khăn nhiễu
thay bằng khăn lĩnh (satin) đỏ thắt múi
(noeud), do Léonard vẽ kiểu. Lại may cho Hoàng tử
một bộ y phục kiểu Pháp pha Á đông, bỏ áo
dài, quần lụa, và xin họa sĩ
Hoạ
sĩ Maupérin vẽ chân
dung Hoàng tử Cảnh mặc áo đỏ, đi hia
đỏ, tay phải đặt lên một cái mũ,
đầu quấn khăn Léonard. Bức tranh này
được trưng bầy ở Académie Royale de
Peinture et Sculpture (Hàn lâm viện Hội họa và Điêu
khắc) năm 1791, sau do Hội Thừa Sai Hải Ngoại ở Paris giữ. Dân Pháp nồng nhiệt
đón chào, nhiều người làm thơ về Đức
cha Behaine và Hoàng tử Cảnh... Xin trích mấy câu trong bài
thơ được đọc giữa bữa tiệc
ở Versailles, đăng trên một tờ báo ở Paris:
(...)Ta hăy bắt đầu bằng hài
đồng nổi tiếng
Mà số phận đáng cho
ta lưu ư:
Sinh ra để đội
mũ miện
Nay lại ngồi chung
với chúng ta.
Hoàng tử bé
bỏng ơi, hăy vui lên
Một ngày kia Hoàng tử
sẽ lên ngôi,
Pigneaux rất thương
yêu Hoàng tử.
Hoàng tử Cảnh
được đón sang Pháp mà không phải bị bắt
làm “con tin”. Nếu Thên Chúa không để cho có cuộc
gặp gỡ của Nguyễn Anh với Đức cha
Behaine th́ triều Nguyễn sẽ thế nào? Chính Giám mục Pigneaux là
người đầu tiên đem quân đội Pháp
đến Việt Nam theo sự cầu viện của
Nguyễn Ánh, để giành lại ngôi vua từ trong tay nhà
Tây Sơn; Nếu Đức cha không chọn việc
đưa Hoàng tử Cảnh đi nơi khác với hy
vọng cứu Hoàng tử Cảnh, cứu một
đất nước, cứu lấy vị vua
tương lai. Bức chân dung Hoàng tử Cảnh năm
1787, khi đó ngài lên 7 tuổi, ánh mắt sáng ngời tinh
anh, vẫn nước da vẫn ngăm ngăm, trán hơi
dô, hai má hồng xinh, nụ cười ẩn nơi đôi
môi đỏ mọng cho thấy ngài được chăm
sóc và nuôi dưỡng rất tốt. Đức cha Behaine
đă luôn để mắt dơi theo Hoàng tử Cảnh
từng li từng tí, yêu thương và dạy dỗ. Trong
năm năm sống ở Pháp, tuổi thơ của Hoàng
tử Cảnh gắn bó nơi đây, từng nhịp chân
chạy nhảy trong vườn thượng uyển cùng
các hoàng tử và công chúa của vua Louis XVI. Những đêm
hoà nhạc với tiệc tùng trong cung điện. Hoàng
tử Cảnh được chơi đùa nô nghịch
như bao đứa trẻ khác. Và hẳn là có những lúc
các hoàng tử và công chúa bị vua cha phạt và Hoàng hậu
là người “bảo lănh”…
Hoàng tử Cảnh đến nước
Pháp, ngài sống ở Pháp năm năm trong thời gian
nước Pháp và các nước lân cận đang có các
nghiên cứu khoa học, những phát minh của các nhà bác
học nổi tiếng thế giới như Edward Jenner
(1749-1823); Jean Baptiste de Lamarck (1744-1829); Joseph Priestlay
(1783-1804)…
Hoàng tử Cảnh đến nước
Pháp, ngài được nghe hoà nhạc những bản giao
hưởng, thính pḥng, opera của các thiên tài như Johann
Sebastian Bach (1685-1750) Johann Chrysostom Wolfgang Amadeus Mozart
(1756-1791), của Ludwig Van Beethoven (1770-1827)…
Hoàng tử Cảnh đến
nước Pháp, ngài được học hành và vui chơi
cùng với các con của vua Louis XVI.
Hoàng tử Cảnh đến
nước Pháp, ngài được Đức cha Behaine cho
đi tham dự lễ tại các nhà thờ, đi tham quan
các tu viện, các lâu đài, các phố phường với
những ngôi nhà kiến trúc cổ và Đức cha cũng
sẽ đưa ngài tới thăm những khu phố
nghèo, những người khốn khổ…
Hoàng tử Cảnh đến
nước Pháp, ngài được đón mừng Chúa Giáng
Sinh trong năm năm, niềm vui và b́nh an, tiếng
cười và quà mừng… tất cả đều xuất
phát từ t́nh yêu trong t́nh người, t́nh Chúa.
Hoàng tử Cảnh đến
nước Pháp chỉ năm năm nhưng ngài đă
bắt đầu cảm nhận kinh nghiệm về Thiên
Chúa, sự hiện diện của Thiên Chúa qua những con
người tốt bụng luôn đối xử rất
tốt với ngài.
Hoàng tử Cảnh đến
nước Pháp năm năm và ngài ước nguyện
nước An Nam sẽ sớm có được sự
văn minh của nền văn minh các nước
phương Tây.
Khi trở về nước,
điều ngài khao khát đó là mong được chịu
phép Rửa tội. Sự chờ đợi trong vô vọng
v́ biết ḿnh không được phép lạnh nhận Bí
tích Rửa tội đă làm ngài rất buồn, càng đau
khổ hơn khi Đức cha Behaine qua đời,
người cha linh hướng không c̣n ở bên ngài
nữa. Hoàng tử Cảnh đă không thể sống
tiếp và không lâu sau đó ngài ra đi. Trước khi
chết, Hoàng tử Cảnh đă lănh nhận Bí tích Rửa
tội sau cùng nhưng không có ǵ là muộn đối
với Chúa.
Tôi chưa được
biết, hơn hai trăm năm qua có lẽ đă từng
có linh mục dâng lễ cầu cho linh hồn Hoàng tử
Cảnh, vợ và các con cháu của ngài. Nhưng tôi nghĩ,
sẽ là chưa muộn, tôi sẽ dâng lời cầu
nguyện cho ngài trong đêm Giáng Sinh 2008 trong b́nh an và vui
tươi. Tôi thầm tạ ơn Chúa và cha thánh Marchand
về tất cả những chia sẻ trong bài viết của
ḿnh v́ đó là ơn của Thánh Thần Chúa.