Đức
Giám Mục Marcel Piquet Lợi được Chúa gọi về
ngày 11-7-1966 sau hơn 50 năm phục vụ trên cánh
đồng truyền giáo tại Việt Nam.
Năm 1966 Giáo phận Nhatrang chưa có Giám Mục mới,
Tiểu Chủng Viện Sao Biển vẫn đang giữ
chương tŕnh Pháp và thiếu các giáo sư chuyên môn,
Linh Mục Nhiếp Chính Gauthier Báu, Hội đồng
Linh Mục Địa Phận và Ban Giám Đốc Tiểu
Chủng Viện quyết định gởi hai lớp
Première và Seconde niên khóa 1966-1967 ra ở nội trú Trường
Providence (Thiên Hựu) Huế. Khi ấy Cha Phanxicô Xavier
Nguyễn Văn Thuận là Giám Đốc Tiểu Chủng
Viện Hoan Thiện.
Tôi gặp Đức Cố Hồng Y lần đầu tiên lúc tôi học lớp Première nội trú tại Trường Thiên Hữu (Providence) Huế năm 1966. Đầu niên học 1966- 1967, Linh Mục hướng dẫn hai lớp Première và Seconde của Nhatrang là cha René Gantier mời Cha Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận giảng tĩnh tâm ba ngày cho hai lớp chúng tôi. Sau ba ngày nghe giảng, suy gẫm, huấn đức, tham dự thánh lễ, tôi chỉ c̣n nhớ được một chuyện. Đó là định nghĩa của ngài về hai chữ KINH NGHIỆM.
Tôi
không nhớ đề tài này ngài giảng vào ngày thứ
mấy, buổi sáng hay chiều của ba ngày tĩnh tâm.
Vào đề, ngài hỏi chúng tôi:”Kinh nghiệm
là ǵ?”. Chúng tôi thinh lặng không đứa nào mở
miệng. Và cuối cùng
ngài thao thao đưa ra định nghĩa của ngài: “kinh
nghiệm là dại đi một lần, và không có cái dại
nào giống cái dại nào, dại hoài, dại măi, dại
suốt cuộc đời. Đó là định nghĩa của
hai chữ kinh nghiệm”.
Suốt
ba ngày tĩnh tâm tôi chỉ c̣n nhớ có bấy nhiêu. Chỉ
nhớ duy nhất một định nghĩa hóm hỉnh,
hay hay, và đầy thâm thúy này.
Định nghĩa này nó lúc nào cũng ám ảnh tôi
những khi tôi làm sai điều ǵ, những khi tôi làm
điều ǵ lầm lỡ, nhất là những lúc tôi
thất bại chuyện ǵ. Nó
luôn luôn theo tôi suốt 37 năm qua cho đến ngày hôm
nay. Mỗi khi nói chuyện
với ai, với bạn bè, với những người
gặp tôi chia sẻ, tâm t́nh kinh nghiệm trường
đời hay đời sống thiêng liêng, thành công hay
thất bại, vui hay buồn, tôi đều kể lại
định nghĩa này. Nó
trở thành một bài học
sống động trong mấy chục năm qua của tôi.
Mỗi lần thất bại hay làm sai điều ǵ
tôi đều bằng ḷng chấp nhận hậu quả
sự việc, tự an ủi ḿnh và tự nhắc nhủ
“đó là một kinh nghiệm, đó là một bài học
để lần sau mà tránh, không lập lại nữa”.
Và với ư thức đó mỗi lần thất bại
tôi không thấy làm tủi nhục, buồn khổ, thất
vọng. Và lúc ấy
câu tục ngữ “thất bại là mẹ thành
công, thua keo này bày keo khác” lại đến với
tôi và tôi lại cố gắng vươn lên trong cuộc
sống. Để rồi lại
hăng say lao đầu vào một hoạt động dại
dột mới...
Ngày
4-5-1967 Cha Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận được
Ṭa Thánh đặt làm giám mục chính ṭa giáo phận
Nhatrang và v́ trường Thiên Hữu không đủ học
sinh để mở lớp Terminale, nên lớp chúng tôi mười
đứa, được ngài gởi lên ở Đại Học
Xá Viện Đại Học Đàlạt, và đi học lớp
Terminale tại Trung Học Adran.
Ngài sắp xếp Viện Đại Học cho một
chiếc xe đưa đón chúng tôi đi học, v́ từ
Đại học Xá đến trung học Adran xa khoảng
4 hoặc 5 cây số. Lâu
lâu ngài lên Đà lạt thăm 10 đứa chúng tôi, mỗi
lần lên, ngài đem cho chúng tôi vài kư mực khô cho
chúng tôi nướng rồi cha con nhâm nhi tṛ chuyện với
nhau. Đối với ngài
từ sau lần gặp gỡ đầu tiên qua ba ngày giảng
tĩnh tâm, tôi cảm thấy rất gần gũi thân
t́nh, chứ không xa cách “kính nhi viễn chi” như
đối với Đức Giám Mục tiền nhiệm
Marcel Piquet. Mỗi lần gặp giám mục thường
người công giáo chúng ta phải qú xuống hôn nhẫn.
Khi gặp Đức Cố Hồng Y, tôi cũng qú xuống
hôn nhẫn ngài, nhưng tôi chưa kịp qú xuống
là ngài kéo tôi đứng dậy và bắt tay, mặc dầu
trước đó ít phút, tôi thấy linh mục giám
đốc tiểu chủng viện hay linh mục quản
hạt hoặc linh mục tổng đại diện
địa phận qú xuống hôn nhẫn ngài.
Đây cũng là điều làm tôi ngạc nhiên không
ít trong buổi tiếp xúc đầu tiên khi ngài làm giám
mục Nhatrang. Nó cũng
làm tôi tự đặt câu hỏi ‘tại sao’ trong
đầu tôi và tôi vẫn nhớ măi trong suốt 36 năm
qua. Cũng v́ cử chỉ này tôi cảm thấy
gần gũi ngài hơn cả với các vị cộng
tác viên của ngài như các linh mục tổng đại
diện, giám đốc chủng viện hay linh mục hạt
trưởng. Đối với
các vị này tôi luôn “kính nhi viễn chi”, c̣n đối
với ngài, vị giám mục địa phận th́ tôi
lại cảm thấy gần gủi thân t́nh như cha với
con. Thái độ này của
tôi đối với ngài nó vẫn luôn thoải mái thân
t́nh suốt thời gian ngài làm giám mục địa phận
Nhatrang. Mỗi lần có
điều thắc mắc, hay muốn xin điều ǵ
th́ tôi thoải mái nói thẳng không ấp úng e ngại
ǵ. Khi ngài về Sàig̣n,
đi tù, rồi sau này gặp lại tại Úc th́ có
chút thay đổi, có thể v́ tôi đă thay đổi
nhiều, không c̣n là chủng sinh, đă lập gia đ́nh
và không c̣n chung một con đường đặc biệt
ấy nữa chăng nên tôi mặc cảm hoặc không
có nhiều dịp gần gũi ngài v́ ngài cũng đă
thay đổi nhiều với những công việc bận
rộn hơn tại Roma, rồi với chức vụ Hồng
Y có thể càng làm tôi không c̣n dịp để liên lạc
hoặc gặp gỡ với ngài nữa.
Một
kỷ niệm để đời khác của tôi với
ngài là năm 1968, sau khi tốt nghiệp trung học đệ
nhị cấp (Baccalauréat De L’Enseignement Secondaire) tôi đă
hân hạnh được ngài đă đến tận
giáo xứ dâng lễ và trao cho tôi và người bạn
cùng lớp chiếc áo ḍng đen (soutane).
Và sau đó hai đứa chúng tôi lại được
gửi lên
học tại Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
cùng với một anh em khác. Đây
cũng là một vinh dự cho ba anh em cùng lớp chúng
tôi, v́ thường thường mỗi năm mỗi
Nhatrang, 1968 ngày nhận áo
Soutane
giáo phận chỉ được gửi hai chủng
sinh.
Hồ Trí Thức, Đức
GM NVT, Cha Xứ BMH, Nguyễn Đ Khoa
Sang
năm thứ hai lớp chúng tôi phải làm một tháng
‘linh thao’ (Exercises spirituels) kiểu Ḍng Tên với cha
linh hướng Paul Deslierres. Sau
một tháng, tôi cảm thấy bối rối về
ơn thiên triệu của tôi, tôi thấy 50% tôi có
ơn gọi, 50% tôi cảm thấy lo sợ cho cuộc sống
độc thân linh mục. Làm
linh mục th́ dễ, tôi chỉ cần chăm chỉ học
hành, ngoan ngoăn giữ mọi việc học viện đ̣i
hỏi th́ cuối năm 1976 tôi sẽ tốt nghiệp
khoá đào tạo. Nhưng
sau đó th́ sao? Liệu tôi có sống trọn vẹn cuộc
sống độc thân được không v́ năm
đó tôi nghe nói có khoảng 2000 linh mục bên Âu châu
đang nộp đơn xin Giáo hội cho lập gia đ́nh,
một số khá đông rời bỏ chức linh mục.
Ḍng Chúa Cứu Thế tại Việt Nam lúc đó
bắt đầu phong trào Vào Đời, Ḍng Phan Xi Cô cũng
cho anh em chủng sinh về Cầu Muối Sàig̣n ở
chung với nhau và đi học đại học, đi làm
việc một thời gian trước khi tiếp tục
học thần học. Lúc
đó tôi gặp cha linh hướng và tŕnh bày sự
quan tâm của tôi và đưa ra một vài suy nghĩ riêng
tư và hỏi ư kiến ngài.
Cuối cùng tôi đă vạch cho tôi một hướng
đi hơi phiêu lưu mà chưa một chủng sinh nào
đă đi qua. Tôi không
muốn đi “thử” (probation) một vài năm tại
một trường trung học hay một giáo xứ trong
chiếc áo ḍng đen, v́ tôi nghĩ rằng tôi vẫn
phải sống g̣ bó trong chiếc áo ḍng và chẳng có
ǵ là thử thách. Tôi cũng
không muốn đi “thử tự do” (probation libre), v́
tuy không mặc áo ḍng, nhưng mọi người và
chính bản thân tôi, tôi cũng phải luôn nhớ rằng
tôi là một đại chủng sinh. Tôi
cũng không ‘happy’ với con đường này. Tôi nghĩ ra một con đường thứ
ba, chưa thấy anh em chủng sinh nào từng đi qua,
nhưng tôi cảm thấy thú vị và phiêu lưu
hơn. Tôi muốn ra
đi, ra đi ‘bụi đời’ một thời gian
để thử xem ḿnh có bản lănh sống độc
thân không. Tôi muốn ra
đi nhưng không hẹn ngày trở lại.
Chính những ngày, tháng, năm ấy sẽ quyết
định tôi có trở lại hay không. Tôi đă đưa việc này bàn thảo với
cha linh hướng, nhưng ngài bảo tôi điều này
tôi phải bàn với giám mục của tôi.
Thế là cuối tháng ba năm 1970, tôi tức tốc
lấy vé máy bay, bay về Nhatrang để gặp Đức
Giám Mục. Theo tôi biết lúc ấy các Giám Mục Việt
Nam rất khó khăn trong vấn đề này, và tôi chưa
thấy có trường hợp chủng sinh nào được
phép làm như vậy. Sau khi tŕnh bày với Đức Cha Thuận trường
hợp của tôi, ngài ôn tồn nói với tôi con cứ
việc làm như con đă nghĩ và khi nào muốn trở
lại tiếp tục th́ gặp ngài.
Tôi thật vui mừng v́ ư định của tôi
đă được chấp thuận.
Tôi ở lại Nhatrang tham dự Khóa 3 ngày tĩnh tâm
Cursillo (5-4-1970). Tôi trở
lại học viện giữa Tháng Tư năm 1970, gặp
lại cha linh hướng và chuẩn bị dọn ra khỏi
học viện. Đối
với Viện Trưởng học viện, các vị
giáo sư, các anh em chủng sinh, các linh mục trong địa
phận và nhất là gia đ́nh tôi, th́ tôi cho biết
là tôi không c̣n là chủng sinh nữa.
Điều này đă làm nhiều người ngạc
nhiên về quyết định của tôi, riêng gia đ́nh
tôi, cha mẹ,các em và những người bà con th́ rất
buồn. Tôi đă ra
ngoài ở trọ, t́m việc làm và học tại Viện
Đại Học Đàlạt một năm, rồi chuyển
về Đại Học Văn Khoa Sàig̣n v́ cảm thấy
Đà Lạt quá bé nhỏ.
Sau
khi vùng vẫy hoạt động với Phong Trào Thanh
Niên Công Giáo Đại Học trong môi trường
đại học, Hội Ái Hữu Lớp Dự Bị
Hôn Nhân của Trung Tâm Gia Đ́nh Mục Vụ DCCT, Phong
trào Focolare, dạy học tại các trường Trung Học
Nguyễn Bá Ṭng Sàig̣n, Lê Bảo Tịnh, kèm cho các học
sinh chương tŕnh Pháp lớp Troisième, năm 1973
tôi học xong cử nhân giáo khoa triết Tây ở
đại học Văn Khoa Sàig̣n và cảm thấy ḿnh
có khả năng sống độc thân được
75%, 80%, tôi lại gặp lại Đức Cha Thuận và
cho ngài biết tôi có ư định tiếp tục trở
lại Giáo Hoàng Học Viện Đàlạt.
Nhưng lúc ấy ngài lại mở cho tôi một cơ
hội khác, ngài muốn cho tôi đi Phi Luật Tân 6
tháng tu nghiệp tại trung tâm Phong Trào Focolare tại
Manila, rồi qua Loppiano Ư Đại Lợi hai năm rồi
học thêm vài năm, sau đó trở về Việt Nam
làm việc trong Phong Trào Tông Đồ Giáo Dân của Giáo
Phận. Nhưng sau khi gặp
LM Tiến Sĩ Nguyễn Hưng Giáo Sư Ngữ Học
tại Văn Khoa Sàig̣n, mới từ Pháp về, hỏi
ư kiến ngài, tôi lại quyết định xin Đức
cha trở lại Giáo Hoàng Học Viện tiếp tục
học thần học rồi sau khi ra trường sẽ
đi du học sau. Nhưng
mọi sự đă thay đổi với biến cố
30 Tháng Tư năm 1975. Bây
giờ thỉnh thoảng khi nghĩ lại quá khứ,
tôi không biết có nên tiếc nuối v́ đă mất một
cơ hội tốt hay không.
Năm
1971, 1972, 1973 lúc c̣n ở Sàig̣n, thỉnh thoảng tôi
ghé lại văn pḥng Tái Thiết Việt Nam (COREV) tại
123 Huyện Thanh Quan, những lúc đến thăm Đức
Cha, ngài đă đưa cho tôi một vài cuốn sách về
Phong Trào FOCOLARE, một cuốn đă ảnh hưởng
tôi không ít trong cuộc sống của tôi cho đến
ngày hôm nay, đó là cuốn GEN Revolution mà tôi quên tên
tác giả, không biết có phải của chị Chiara
Lubich hay của Pascal Foresi. Đọc
cả cuốn sách và cho đến ngày hôm nay sau hơn
30 năm tôi chỉ c̣n nhớ một câu mà lúc nào tôi cũng
coi như là một nguyên tắc hành động xử thế
với mọi người, đặc biệt với những
người thân như cha mẹ, anh em, vợ con khi tôi muốn
họ thay đổi. Câu
đó là:“Muốn người khác thay đổi, bạn
hăy thay đổi chính ḿnh”. Trong suốt 22 năm
qua, từ ngày rời Việt Nam, lập gia đ́nh, bon
chen với cuộc sống trong công việc hằng ngày,
tôi đă trải qua muôn vàn khó khăn, có lúc cao điểm
đến nỗi gia đ́nh súyt bị đỗ vỡ,
t́nh gia đ́nh anh em bị mất mát, súyt bị mất
việc. Chính câu này
đă làm tôi đảo ngược lại thế cờ,
nhưng trước khi thành công tôi cũng đă phải
trả một giá rất đắt, tôi cũng luôn sống
với tâm niệm định nghĩa “kinh nghiệm” của
Đức Cố Hồng Y mà tôi đă nghe khi tôi gặp
ngài lần đầu cách đây 37 năm.
Trong các buổi nói chuyện vui tươi dí dỏm
của ngài, tôi cũng chỉ c̣n nhớ một ít chủ
đề mà tôi vẫn áp dụng trong cuộc sống
cá nhân hay trong công việc làm hằng ngày cho đến
ngày hôm nay. Những chủ đề mà ngài đă lấy
ở Kinh Thánh và phong trào Focolare đă khai thác,đó là:
“sống giây phút hiện tại”, “sống theo
thánh ư Chúa”, “Chúa Giêsu bị bỏ rơi trên Thánh
Giá”,“khi nào có hai ba người họp lại v́ danh
Ta, th́ có ta ở giữa”, “khi nào chúng ta chia sẻ niềm
vui cho hai ba người, th́ niềm vui chúng ta tăng gấp
hai ba lần, khi chúng ta chia sẻ nỗi buồn khổ
cho năm mười người, th́ nỗi buồn khổ
của chúng ta cũng giảm đi năm mười lần”.
Tất cả những
chủ đề này luôn luôn là một túi hành trang cho cuộc
sống của tôi trong gia đ́nh hoặc nơi làm việc.
Nên những công việc tôi làm dầu có lương
hay không, tôi vẫn luôn làm việc hăng say và nhiệt
t́nh, và thường thường những việc ấy
đều thành công tốt đẹp.
Tất cả những điều ấy tôi đă học
được nơi Đức cố Hồng Y.
Tôi nói lên điều này không phải để tâng
bốc người đă chết hay để nịnh bợ
gia đ́nh ngài. Cho đến ngày hôm nay tôi chưa từng
bước chân đến nhà của Ngài để gặp
thăm ông bà cố hay các người em của ngài, tuy
từ nhà tôi đến nhà ông bà cố chỉ xa khoảng
30 cây số . Tôi cũng
chưa từng liên lạc với các em của Ngài.
Nhưng tôi nói lên sự biết ơn của tôi
đối với người cha tinh thần của giáo
phận, mà ít nhiều tôi đă từng mang ơn và
được sự nâng đỡ về tinh thần
trong thời gian ngài c̣n làm việc cho giáo phận và tôi
là một đứa con tinh thần.
Ngày
hôm nay khi viết vài trang này, tôi mới có dịp nh́n lại
quăng đời mấy chục năm qua, tôi nhận thấy
tôi đă học hỏi rất nhiều nơi ngài cũng
như đă được ngài nâng đỡ.
Những ǵ trong con người của tôi ngày hôm
nay cũng một phần lớn đă ảnh hưởng
từ những tư tưởng của ngài đúng như
lời của một văn hào nào đó hay ngạn ngữ
của Pháp: “les idées mènent le monde”.
Khi đầu óc ḿnh thông suốt những tư
tưởng, những ưu tư thắc mắc, ḿnh mới
đem vào cuộc sống để sống để thực
hành những điều ḿnh suy nghĩ ư tư. Tôi đă học qua những cuộc nói chuyện,
những lời vui vẻ dí dỏm, những tiếp xúc,
những tư tưởng cởi mở phóng khoáng, những
sách vở ngài đưa cho đọc nhờ đó tôi
thấm nhuần những tư tưởng mới và
đem áp dụng trong cuộc sống hằng ngày trong
lúc vui cũng như lúc buồn, lúc thành công cũng
như lúc thất bại nhờ những lTôi nghĩ rằng
những lời ngài nói, những việc ngài làm, những
chứng từ bằng cuộc sống của ngài trong
lúc làm việc cũng như khi ở tù đă đóng
góp rất nhiều cho Giáo Hội Việt Nam, đất
nước Việt Nam, con dân Việt Nam và Giáo Hội
Công Giáo hoàn vũ.
Phanxicô Xavier Nguyễn Văn
Thuận (16 Tháng 9 năm 2003)
Cựu học viên GHHV DL
Khóa 11(1968),
1974 về lại học
chung với Khóa 15 (1972)
Gia đ́nh NDK dự đám
cưới của người em gái út tại Sydney(1999)
Từ trái qua phải:
Mai Anh (con), Như-Ư (hôn
thê), Phương ( em gái út), Em rể, NĐK, Paul (Con trai)