Các cuộc hành trình truyền giáo của Phaolô

1 2 3

Seeing

 

 

Câu hỏi Giáo Lý
“Con muốn biết là trước khi Thánh Phaolô (Paul) chết, Ngài đã lập được bao nhiêu cộng đồng và Ngài đã rao giảng ở những vùng nào?” ( Hải Yến)

  Trả lời:

  Nếu các Bạn, và Hải Yến, có lần nào đi trại, đêm nằm dưới mái lều trằn trọc chưa ngủ được, nằm ngữa vắt tay lên trán, nhìn lên thấy tấm vải bạt, thì hãy nhớ tới một người thợ Do thái, chuyền nghề may lều và bán lều, đã sống cách đây hai ngàn năm, tại một thành phố nổi tiếng thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.

Đó là thành phố Tarse.

Người thợ may lều có tên do thái là Saulô.

Khi có quốc tịch Rôma thì ông đổi tên thành Phaolô (tên latinh gọi là Paulus)

Khoảng năm 67 Phaolô bị xử trảm, nghĩa là bị chém đầu, tại Rôma !

Có lẽ chúng ta nên nhẩn nha “lai rai ba sợi” với nhân vật đặt biệt này. Nếu chỉ dùng một tính từ để miêu tả con người kiệt xuất này, thì chúng ta có thể gọi Phaolô là một “người rất đam mê” hay thời thượng hơn, chúng ta có thể gọi tên loạt bài là “Phaolô, người tù kiệt xuất” !.

 

1- Sợi chỉ đỏ thứ nhất: Tiểu sử

Những gì chúng ta biết về Phaolô đều do chính Phaolô kể lại :

Phaolô sinh tại Tarsô, vùng Cilicia, thuộc Thổ nhĩ kỳ (TđCv 21, 39 : “Ông Phao-lô nói: "Tôi đây là người Do thái, quê ở Tácxô miền Kilikia, công dân một thành không phải là không có tiếng tăm. Xin ông cho phép tôi ngỏ lời với dân.")

Bố của Ngài là một công dân Rôma.

Để biết “làm công dân Roma” oai và quan trọng như thế nào hãy đọc những chi tiết này: Khi đã lỡ đánh đòn Phaolô, sau biết Ngài là công dân Roma thì lính bắt đầu sợ : ” Họ vừa nọc ông Phao-lô ra để đánh đòn, thì ông nói với viên đại đội trưởng đứng gần đó: "Một công dân Rô-ma chưa được xét xử, các ông có được phép đánh đòn không? "26 Nghe vậy, viên đại đội trưởng đi báo cáo cho vị chỉ huy rằng: "Ông định làm gì bây giờ? Đương sự là công dân Rô-ma! "27 Vị chỉ huy liền đến gặp ông Phao-lô và hỏi: "Ông nói cho tôi biết: ông là công dân Rô-ma sao? " Ông Phao-lô trả lời: "Phải."28 Vị chỉ huy nói tiếp: "Tôi đây, tôi phải tốn bao nhiêu tiền của mới mua được quyền công dân ấy." Ông Phao-lô đáp: "Còn tôi, sinh ra đã có quyền ấy rồi."29 Lập tức những người sắp tra tấn ông rút lui, còn vị chỉ huy thì phát sợ, vì biết rằng ông Phao-lô là công dân Rô-ma mà mình lại đã còng ông ấy. “(TđCv 22, 26-28 )

Chỗ khác, đến quan toà, khi đã làm quấy làm quá, cũng phải sợ công dân Roma : “Viên cai ngục báo tin ấy cho ông Phao-lô: "Các quan toà sai người đến bảo thả các ngài. Vậy bây giờ xin các ngài ra và đi bình an."37 Nhưng ông Phao-lô nói với họ: "Chúng tôi là những công dân Rô-ma, không có án gì cả, mà họ đã đánh đòn chúng tôi trước công chúng, rồi tống ngục. Bây giờ họ lại lén lút tống chúng tôi ra! Không được! Họ phải đích thân đến đưa chúng tôi ra! "38 Các vệ binh trình lại những lời ấy cho các quan toà. Những ông này sợ hãi khi nghe biết hai ông là công dân Rô-ma.39 Họ bèn đến xin lỗi, rồi đưa hai ông ra và xin hai ông rời khỏi thành phố.” ( TđCv 16, 37)

Phaolô thuộc một gia đình Do thái rất sùng đạo. Ngài đã từng viết: “Tôi tạ ơn Thiên Chúa, Đấng tôi phụng thờ với lương tâm trong sạch, theo gót tổ tiên;” (2Tim 1,3).

Ngài sống theo sát những lệ luật khe khắc và chi li cuả nhóm Biệt phái, mà chúng ta thường hay gọi là “người Pharisêu”. Ngài tự hào về mình : “tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì đúng như một người Pha-ri-sêu;6 nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi.” (Phil 3, 5-6)

Chi tiết “thuộc chi họ Benjamin” giúp chúngta hiểu vì sao khi cắt bì, Ngài được đặt tên là “Saul”. Vì để tưởng nhớ Vua Saul , vị vua đầu tiên của Do thái, vốn thuộc chi tộc ấy.

Như mọi thanh niên trẻ Do thái, Saul phải học nghề để tự mưu sinh. Ngài học nghề may lều, được kể lại trong TđCv 18, 1-3 như sau: “Sau đó, ông Phao-lô rời A-thê-na đi Cô-rin-tô.2 Tại đây, ông gặp một người Do-thái tên là A-qui-la, quê ở Pon-tô, vừa mới từ I-ta-li-a đến, cùng với vợ là Pơ-rít-ki-la.... Ông Phao-lô đến thăm hai ông bà,3 và vì cùng nghề, nên ông ở lại nhà họ và cùng làm việc: họ làm nghề dệt lều. “

Ngài còn được gia đình gửi lên Giêrusalem “du học” tại trường của một rabbi nổi tiếng thời ấy là Gamaliel : “Ông nói tiếp:3 "Tôi là người Do-thái, sinh ở Tác-xô miền Ki-li-ki-a, nhưng tôi đã được nuôi dưỡng tại thành này; dưới chân ông Ga-ma-li-ên, tôi đã được giáo dục để giữ Luật cha ông một cách nghiêm ngặt..” (TđCv 22,3).

Mà dường như Ngài có người chị đang sinh sống tại Giêrusalem, nên chi sau này, Ngài có kể chi tiết cháu Ngài, con trai của bà chị này, đã cứu Ngài: “Sáng ngày ra, người Do-thái âm mưu với nhau. Họ thề độc là sẽ không ăn không uống, bao lâu chưa giết được ông Phao-lô...16 Nhưng người con trai của bà chị ông Phao-lô nghe biết âm mưu đó, liền đến đồn và vào báo tin cho ông Phao-lô. “ (TđCv 23, 12-17)

Ngoài những chi tiết này,chúng ta không còn biết gì thêm về Ngài cho đến lúc thầy Sáu Stephen tử đạo. Phó tế Stephen bị ném đá. Người ta lột áo Stephen ra rồi để dưới chân một thanh niên trẻ : “Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông (Stephen) 58 rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Sao-lô.” (TđCv 7,58-60) Chính Phaolô cũng xác nhận sự kiện này, với Chúa: “20 Khi người ta đổ máu ông Tê-pha-nô, chứng nhân của Chúa, thì chính con cũng có mặt, con tán thành và giữ áo cho những kẻ giết ông ấy.” ( TđCv 22,20)

Được gọi là “thanh niên trẻ” (neanias), nhưng từ này rất uyển chuyển, dùng để gọi thanh niên hay trung niên, có tuổi từ 20 đến 40.

Như thế cho đến lúc bấy giờ (cuộc ném đá Stephanô), thì Phaolô là một thanh niên Do thái, nhiệt thành với niềm tin của tổ tiên, nghĩa là không hề biết đến Chúa Giêsu. Có chăng, Phaolô nghe đến tên Giêsu như một người lạc giáo.

Và Phaolô cũng ngạc nhiên không hiểu tại sao có những người lại hăng say theo “cái ông rabbi Iêsus, người Nagiareth như thế, theo đến nỗi liều cả mạng sống ! Bọn người ấy lại còn mạnh miệng nói rằng “tên tử tội Giêsu ấy đã sống lại” ! Thế này là không được. Nếu không có biện pháp trấn áp hữu hiệu tức thời, thì hẳn nhóm người ấy sẽ làm cho niềm tin tổ tiên bị sai lạc .

Và Phaolô đã đi lùng bắt những tín hữu tiên khởi tại Giêrusalem.

Các tín hữu thông tin cho nhau về hung thần Phaolô này. Khắp nơi đều biết tiếng Phaolô. Một nhóm tín hữu tại Gierusalem hãi quá, bị truy nã ráo tiết. họ bèn trốn qua Đamas, một thành phố cách Giêruslem chừng 100 dặm về hướng Đông Bắc.

Phaolô không tha, Ngài hăng say truy lùng các tín hữu đầu tiên. Ba lần thuật lại việc trở lại, ba lần Ngài tự khai tội của mình :’

“Ông Sao-lô vẫn còn hằm hằm đe doạ giết các môn đệ Chúa, nên đã tới gặp thượng tế2 xin thư giới thiệu đến các hội đường ở Đa-mát, để nếu thấy những người theo Đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giê-ru-sa-lem. “ (TđCv 9,1-19)

“Tôi đã bắt bớ Đạo này, không ngần ngại giết kẻ theo Đạo, đã đóng xiềng và tống ngục cả đàn ông lẫn đàn bà,5 như cả vị thượng tế lẫn toàn thể hội đồng kỳ mục có thể làm chứng cho tôi. Tôi còn được các vị ấy cho thư giới thiệu với anh em ở Đa-mát, và tôi đi để bắt trói những người ở đó, giải về Giê-ru-sa-lem trừng trị. “( TđCv 22,4-5)

9 "Về phần tôi, trước kia tôi nghĩ rằng phải dùng mọi cách để chống lại danh Giê-su người Na-da-rét.10 Đó là điều tôi đã làm tại Giê-ru-sa-lem. Được các thượng tế uỷ quyền, chính tôi đã bỏ tù nhiều người trong dân thánh; và khi họ bị xử tử, tôi đã bỏ phiếu tán thành.11 Nhiều lần tôi đã rảo khắp các hội đường, dùng cực hình cưỡng bức họ phải nói lộng ngôn. Tôi đã giận dữ quá mức đến nỗi sang cả các thành nước ngoài mà bắt bớ .” ( TđCv 26, 9-23)

 

Phaolô, kẻ đi truy lùng, bị truy nã ....

Sau khi xin được giấy cho phép của các Tư tế tại Giêrusalem, Phaolô và đoàn tuỳ tùng lên ngựa trực chỉ Damas để truy lùng các tín hữu. Ông không hề mảy may biết rằng chính mình cũng đang bị theo dõi.

Khi gần đến Đamas, ông đinh ninh sẽ bất ngờ tóm gọm được nhóm tín hữu đang lánh nạn tại đây. Nhưng có người đã ra tay trước ông, nhanh và chính xác. Chúng ta hãy nghe Phaolô kể lại :

”3 Vậy đang khi ông đi đường và đến gần Đa-mát, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông.4 Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông: "Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta? "5 Ông nói: "Thưa Ngài, Ngài là ai? " Người đáp: "Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ.6 Nhưng ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì."7 Những người cùng đi với ông dừng lại, sững sờ: họ nghe có tiếng nói, nhưng không trông thấy ai.8 Ông Sao-lô từ dưới đất đứng dậy, mắt thì mở nhưng không thấy gì. Người ta phải cầm tay dắt ông vào Đa-mát.9 Suốt ba ngày, ông không nhìn thấy, cũng chẳng ăn, chẳng uống. “ ( TđCv 9,1-9)

Người ta thuờng gọi biến cố này là “cuộc ngã ngựa của Phaolô”. Đồng nghĩa với cuộc trở lại. Hay đúng hơn, đó là cuộc Chúa Giêsu thu phục Phaolô.

Phaolô kể lại chuyện “mình bị thu phục này” ba lần cả thảy, như một tự hào, vì dù đang là kẻ giết người, Phaolô được đích thân Chúa Giêsu quật ngã xuống khỏi ngựa và chọn là tông đồ. (xem TđCv 9, 1-19; 22, 3-21; và 26, 9-23)

(1) Phaolô nói chính mình đã từng “thấy” Đức Kytô như các tông đồ khác: “Tôi không tự do ư? Tôi không phải là tông đồ ư? Tôi đã không thấy Đức Giê-su, Chúa chúng ta sao? (1 Cor. 9, 1)

Ngài tuyên bố chính Đức Kytô đã hiện ra với Ngài: “Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non. 9 Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa.”(1 Cor. 15, 8) như đã từng hiện ra với Phêrô, với Giacôbê, và với Nhóm Mười Hai .

(2) Ngài tâm sự rằng cuộc trở lại của Ngài không phải là do kết quả cuả suy tư hay lý luận,nhưng là do một thay đổi đột ngột, không hề có dự kiến, bất ngờ và hoàn toàn do ơn Chúa toàn năng. Ngài khôngcưỡng lại được sự trở lại này .

“Vì không có ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giê-su Ki-tô đã mặc khải.13 Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào trước kia trong đạo Do-thái: tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa.14 Trong việc giữ đạo Do-thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông.15 Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người.16 Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên (Gal. 1, 12-15; )

Hay: “ Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa.10 Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi”. (1 Cor. 15, 10).

(3) Trước khi trở lại, Ngài không hề hối hận hay nghi ngờ hoặc sợ hãi điều chi. Ngài bị Đức Kytô quật ngã ngay chính lúc lòng hăng hái đi lùng bắt các tín hữu lên cao điểm: “Ông Sao-lô vẫn còn hằm hằm đe doạ giết các môn đệ Chúa, nên đã tới gặp thượng tế2 xin thư giới thiệu đến các hội đường ở Đa-mát, để nếu thấy những người theo Đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giê-ru-sa-lem. (Acts, ix, 1-2); Mà cũng vì hăng say lòng đạo mà Ngai đi lung bắt các t’in hữu như thế: ”nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh;” (Phil. 3, 6), Và Phaolô được Chúa thương xót chọn thì cũng là vì Ngài đã làm thế vì không biết và vì lúc đó Ngài chưa tin. “Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin.1 " (I Tim., i, 13).

Sau khi vào Đamas, một người tên là Khanania, được Chúa thị kiến sai tới nhà Saolô trọ, ở Phố Thẳng để rửa tội cho Ngài. Rồi Ngài xuống vùng Arabia, phía nam Đamas , ở đó ba năm để suy nghĩ lại toàn bộ Kinh Thánh . “Tôi ...chẳng lên Giê-ru-sa-lem để gặp các vị đã là Tông Đồ trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang xứ Ả-rập, rồi lại trở về Đa-mát.18 Ba năm sau tôi mới lên Giê-ru-sa-lem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày.19 Tôi đã không gặp một vị Tông Đồ nào khác ngoài ông Gia-cô-bê, người anh em của Chúa.” (Gal 1,17)

Các tín hữu kháo nhau về việc Phaolô trở lai đạo. Còn những người Do thái đồng đạo cũ với Phaolô, nghe tin ông đã cải sang “tà đạo” thì tìm cách lùng bắt ông :”Tại Đa-mát, tổng đốc của vua A-rê-ta đã cho lính canh gác thành để bắt tôi.33 Nhưng người ta đã cho tôi vào một cái thúng, rồi thòng qua cửa sổ dọc theo tường thành. Thế là tôi thoát khỏi tay ông ta.” (2 Cor. 11,32-33)

Và “ông làm cho người Do-thái ở Đa-mát phải bẽ mặt, khi minh chứng rằng Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a 23 Sau một thời gian khá lâu, người Do-thái cùng nhau bàn kế giết ông Sao-lô;24 nhưng ông biết được âm mưu của họ. Thậm chí người ta canh giữ các cửa thành ngày đêm, để giết ông.25 Nhưng ban đêm, các môn đệ ông đã đưa ông qua tường thành bằng cách đặt ông ngồi trong một cái thúng rồi dòng dây thả xuống.” ( TđCv 9,23-25)

Thoát khỏi Đamas, Ngài lên Giêrusalem, gặp Phêrô, chắc là để trình diện “Ba năm sau tôi mới lên Giê-ru-sa-lem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày.” (Gal 1,18) Nhưng Ngài chỉ ở lại đó có 15 ngày, rồi vì người Hylạp đe đoạ tính mạng, nên Ngài phải về thành phố quê hương, Tarse . “Từ đó ông Sao-lô cùng với các Tông Đồ đi lại hoạt động tại Giê-ru-sa-lem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa.29 Ông thường đàm đạo và tranh luận với những người Do-thái theo văn hoá Hy-lạp. Nhưng họ tìm cách giết ông.30 Các anh em biết thế, liền dẫn ông xuống Xê-da-rê và tiễn ông lên đường về Tác-xô.” (TđCv 9,23-25, Gal 1,21)

Sau đó chúng ta mất dấu Ngài khoảng năm hay sáu năm .

Phải nói nhờ Barnabas mà Ngài mới có cơ hội trở thành nhà truyền giáo lừng danh. Barnabas. Hai người cùng nhau sát cánh làm việc một năm trời: “Ông Ba-na-ba trẩy đi Tác-xô tìm ông Sao-lô.26 Tìm được rồi, ông đưa ông Sao-lô đến An-ti-ô-khi-a. Hai ông cùng làm việc trong Hội Thánh ấy suốt một năm và giảng dạy cho rất nhiều người. Chính tại An-ti-ô-khi-a mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Ki-tô hữu. “ (TđCv 11,25-26)

Sau đó cả hai vị được cử lên Giêrusalem, mang theo tiền các tín hữu đã quyên góp để cứu trợ các tín hữu đang bị nạn đói tại đây: “Trong những ngày ấy, có những ngôn sứ từ Giê-ru-sa-lem xuống An-ti-ô-khi-a.28 Một trong những người ấy tên là A-ga-bô đứng lên và được Thần Khí soi sáng, báo trước là sẽ có nạn đói lớn trong khắp cả thiên hạ; đó là nạn đói xảy ra dưới thời hoàng đế Cơ-lau-đi-ô.29 Các môn đệ mới quyết định là mỗi người tuỳ theo khả năng, sẽ gửi quà giúp đỡ anh em ở miền Giu-đê.30 Và họ đã làm việc ấy: gửi đến cho hàng kỳ mục qua tay ông Ba-na-ba và ông Sao-lô.” (TđCv 11, 27-30)

 

2- Sợi chỉ đỏ thứ hai : Đam mê Chân lý – Đam mê truyền giáo.

Trước khi đi tiếp chúng ta có thể dựa vào những mốc thời gian sau đây:

-Saolô trở lại khoảng năm 35;
-Lên Giêrusalem lần đầu tiên để gặp (trình diện ?) Phêrô khoảng năm 37;
-Ở Giêrusalem 15 ngày, bị người Hylạp đe doạ tính mạng, phải lánh về cư trú tại Tarsô, khoảng năm 37 đến năm 43;
-Sau đo Barnabas đến tìm gặp và hai người bắt đầu đi rao giảng tại Antiokia, khoảng năm 43-44;
-Mang tiền của tín hữu Antiokia đóng góp lên Giêrusalemn để cứu trợ nạn đói tại Giêrusalem, khoảng năm 44 hay 45.

Sau đó là 12 năm rong ruổi nhiều nơi để truyền giáo. Từ năm 45 đến năm 57. Ngài thực hiện ba cuộc hành trình truyền giáo, tất cả đều khởi hành từ Antiokia và đều kết thúc tại Giêrusalem.

 

(1) Hành trình truyền giáo lần đầu.

Chúng ta nghe toàn bộ câu chuyện về cuộc hành trình này trong sách Tông đồ Công vụ chương 13 câu 1, đến chương 14 câu 27.

Mọi chuyện bắt đầu từ Antiokia .

Chi tiết ghi lại tại câu TđCv 13, 1-3

“Trong Hội Thánh tại An-ti-ô-khi-a, có những ngôn sứ và thầy dạy, đó là các ông Ba-na-ba, Si-mê-ôn biệt hiệu là Đen, Lu-ki-ô người Ky-rê-nê, Ma-na-en, bạn thời thơ ấu của tiểu vương Hê-rô-đê, và Sao-lô.2 Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo: "Hãy dành riêng Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm."3 Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi. “

Chúng ta lưu ý có NHIỀU thành phố Antiokia được nhắc tới trong những hành trình truyền giáo của Phaolô! Một Antiokia tại Syria. Còn Antiokia thứ hai nằm tại Thổ Nhĩ kỳ

Antiokia ở Syria được hoàng đế Seleucus I Nicator thành lập khoảng năm 300 trước Công Nguyên. Ông đặt tên thành theo tên của Vua Cha và cũng của hoàng tử Antiochus.

Antiokia (nước Syria) nằm trên bờ sông Orontes. Cách Giêrusalem khoảng 450 cây số về phía Bắc, và cách bờ biển Địa Trung hải 45 cây số, nằm ngay giao điểm hai rặng núi Lebanion và Taurus.

Seleucus còn thành lập chừng khoảng 15 thành phố khác khắp Tiểu Á đều mang cùng tên Antiochus. Để phân biệt chúng, người ta thường gọi thành phố Antiokia tại Syria này là “Antiokia bên bờ sông Orontes”.

Ngày nay, Antiokia ở Syria này là một thành phố lớn với chừng 500 ngàn dân, một trung tâm thương mại phồn thịnh, nơi giao lưu nhiều nguồn văn hóa: Hy lạp. La mã, Do thái, Ả rập, và Ba tư.

Trước hết hai vị, Phaolô và Barbabas, từ Antiokia xuống thuyền sang đảo Cypros. Hai vị tới đảo Cypros, giảng trong hội đường Do thái tại Salamina, “Vậy, được Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Xê-lêu-ki-a (Antiokia) , rồi từ đó đáp tàu đi đảo Sýp.5 Đến Xa-la-min, hai ông loan báo lời Thiên Chúa trong các hội đường người Do-thái. Có ông Gio-an giúp hai ông. “ ( T đCv 13,4-5)

Đảo Cypros, còn gọi là đảo Chypre (tên gọi theo tiếng Pháp. VN phiên âm thành “Shíp”) Sỡ dĩ đảo này có tên là Cypros, có nghĩa là “đồng” ,vì ngày xưa người ta tìm ra được mỏ đồng trên đảo này , và đã khai thác đồng từ thời cổ.

Tuy Paphos là thủ phủ của đảo quốc Síp (Cypros) nhưng Salamis là một thanh phố quan trọng hơn. Salamis nằm trên bờ biển phía đông của vùng bình nguyên trung phần đảo Sip, Nơi đây, có nhiều cộng đồng Do thái sinh sống từ rất xa xưa, trước cả khi người Lamã tới chiếm đóng

Sau đó hai vị đi dọc theo duyên hải phía nam của đảo, tới cảng Paphos, nơi có nhà của thống đốc Sergius Phaolô. Tại nhà thống đốc này, hai vị gặp một người phù thuỷ, tên Do thái là “Bar Giêsu” (có nghĩa là “con của Giêsu”) còn tên Hy lạp là Elyma!

Phaolô la mắng ông phù thuỷ này một trận và ra lệnh cho ông mù mắt. Ông ta bị mù ngay lập tức. Thống đốc Sergio Paulus tin theo đạo !

Cảng Paphos, cũng là thủ phủ của đảo quốc Síp (Cypros/Chypre) nằm tậm mỏm phía tây của đảo, cách Salamis chừng 150 cây số . Nơi đây có cơ quan hành chánh tỉnh của người Roma. Vì thế mới có dinh của quan thống đốc Sergius Paulus! Tại đây còn có một đền thờ nổi tiếng, có tượng nữ thần giống nữ thần Aprodite của Hy lạp . Vào khoảng thế kỷ thứ tư, một trận động đất lớn đã phá bình địa thành này .

Sau biến cố này, Phaolô trở thành người quan trọng không còn đứng sau Barbabas, mà luôn được Luca nhắc đến trước tiên.

Kế tiếp, hai ông vượt biển đến Perge xứ Pamphilia, nghĩa là hai ngài trở vào đất liền, khoảng 8 dặm cách cửa sông Cestrus, Thổ Nhĩ Kỳ. “Từ Pa-phô, ông Phao-lô và các bạn đồng hành vượt biển đến Péc-ghê miền Pam-phy-li-a. Nhưng ông Gio-an bỏ các ông mà về Giê-ru-sa-lem. ‘ (TđCv 13. 13)

Perga là thủ phủ của miền Pamphylia, một tỉnh quan trong ven biển của Tiểu Á (Thổ Nhĩ kỳ) nằm giữa hài tỉnh Lycia và Cilicia. Perga nằm sâu trong đất liền 8 cây số và nằm phía đông, cách hải cảng Attalia 18 cây số.

Thành phố Perga mang ảnh hưởng văn minh Hy lạp với nhiều đền đài được trang trí với hoa văn rực rỡ. Cứ xét theo những di tích còn sót lại, thì trong số những thành phố Phaolô đã đi qua thì Perga là thành phố rực rỡ hạng nhì, chỉ thua Ephêsô.

Lúc này, Gioan Marcô, anh em họ của Barnabas, rời bỏ đoàn, một mình trở về Giêrusalem. Dường như vì nhớ nhà, nhớ Giêrusalem, rồi Phaolô bị bệnh buộc cả đoàn phải thay đổi lộ trình, Nhưng lý do chính hình như từ sau chặng này, Barnabas không còn là người lãnh đạo đoàn, mà vị thế đã chuyển sang Phaolô

Còn lại hai vị, ngược xuôi vùng cao nguyên đầy đồi núi xứ Pisidia, nhiều sơn tặc và thác ghềnh cheo leo. Mục tiêu của hai vị là Antiokia, một thuộc địa Lamã, cách Perge bảy ngày đường. “Còn hai ông thì rời Péc-ghê tiếp tục đi Antiôkhia miền Pi-xi-đi-a.” (TđCv 13,14)

Chúng ta lại gặp một thành phố Antiokia thứ hai, nhưng là ở miền Phrygia, gần Pisidia (Thổ nhĩ kỳ) Seleucus I Nicator thành lập thành này khoảng năm 281 trước Công Nguyên nằm cách thành phố Perga 150 cây số về phía Bắc, trên một vùng cao nguyên có nhiều hồ. Thành phố Antiokia quan trọng này nằm án ngữ trên con đường giao thương giữa Ephêsô và vùng Lưỡng hà địa ( sông Euphrates). Dân cư là một tập hợp gồm nhiều sắc dân đổ về: Roma, Hylạp. Do thái,và người Phrygia .

Tại Antiokia, Phaolô có một bài giảng quan trọng. trước một thính giả gồm cả người Do thái và ngươì Ngoại. Ngài bắt đầu nói đến sứ mạng của Israel, về Đấng Thiên sai.

Xin nhắc lại rằng: Thời Chúa Giêsu và thời Phaolô đi rao giảng, thì danh từ “Dân Ngoại”chỉ tất cả mọi người không phải là người Do thái. Như thế , vào thời đó người La mã, Hy lạp, Batư, ẢRập, Ai cập ... đều là “dân Ngoại” đối với người Do thái , Nó có nghĩa người “ngoài đạo Do thái”, người không tin vào “Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacob” .

Ban đầu, Phaolô và các Tông đồ chỉ rao giảng cho người Do thái, trong các hội đường mà thôi.

Các Ngài rao giảng cái gì ? Nôi dung của những điều rao giảng ban đầu, (gọi là kerygma) chỉ là biến cố sống lại của Đức Giêsu . Đại khái các Ngài công bố như sau: “Đức Giêsu, rabbi người làng Nagiareth, mà các ông đã giết trên thập tự. Ngài đã sống lại vào ngày thứ ba. Chúng tôi là những người làm làm chứng đây. Vì sau khi sống lại. Ngài đã hiện ra cho chúng tôi.!”

Xem bài giảng hùng hồn cho người Do thái trong TTĐCv 13, 16-41 ;

Ông Phao-lô đứng dậy, giơ tay xin mọi người lưu ý, rồi nói:

17 Thiên Chúa của dân Ít-ra-en đã chọn cha ông chúng ta, đã làm cho dân này thành một dân lớn trong thời họ cư ngụ ở đất Ai-cập, và đã giơ cánh tay mạnh mẽ của Người mà đem họ ra khỏi đó.18 Và trong thời gian chừng bốn mươi năm, Người đã nuôi dưỡng họ trong sa mạc.19 Rồi Người đã tiêu diệt bảy dân tộc ở đất Ca-na-an và ban đất của chúng cho họ làm gia sản:20 tất cả đã xảy ra trong khoảng bốn trăm năm mươi năm. Sau đó, Người ban cho họ các vị thủ lãnh cho đến thời ngôn sứ Sa-mu-en.21 Rồi họ đòi có vua, Thiên Chúa ban cho họ ông Sa-un, con ông Kít thuộc chi tộc Ben-gia-min, trị vì bốn mươi năm.22 Sau khi truất phế vua Sa-un, Người đã cho ông Đa-vít xuất hiện làm vua cai trị họ. Người đã làm chứng về ông rằng: Ta đã tìm được Đa-vít, con của Gie-sê, một người đẹp lòng Ta và sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta.23 Từ dòng dõi vua này, theo lời hứa, Thiên Chúa đã đưa đến cho Ít-ra-en một Đấng Cứu Độ là Đức Giê-su.24 Để dọn đường cho Đức Giê-su, ông Gio-an đã rao giảng kêu gọi toàn dân Ít-ra-en chịu phép rửa tỏ lòng sám hối.25 Khi sắp hoàn thành sứ mệnh, ông Gio-an đã tuyên bố: "Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người.

26 "Thưa anh em, là con cái thuộc dòng giống Áp-ra-ham, và thưa anh em đang hiện diện nơi đây, là những người kính sợ Thiên Chúa, lời cứu độ này được gửi tới chúng ta.27 Dân cư thành Giê-ru-sa-lem và các thủ lãnh của họ đã không nhận biết Đức Giê-su; khi kết án Người, họ đã làm cho ứng nghiệm những lời ngôn sứ đọc mỗi ngày sa-bát.28 Tuy không thấy Người có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi Phi-la-tô xử tử.29 Sau khi thực hiện tất cả mọi điều Kinh Thánh chép về Người, họ đã hạ Người từ trên cây gỗ xuống và mai táng trong mồ.30 Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết.31 Trong nhiều ngày, Đức Giê-su đã hiện ra với những kẻ từng theo Người từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân.

32 "Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta,33 thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.

34 "Về việc Người đã làm cho Đức Giê-su từ cõi chết sống lại, không còn phải hư nát nữa, thì Người phán thế này: Ta sẽ ban cho các ngươi những ơn lộc đã hứa cho Đa-vít.35 Vì vậy ở chỗ khác, lại có lời rằng: Ngài sẽ không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát.36 Thế mà vua Đa-vít, sau khi phục vụ ý định của Thiên Chúa trong đời ông, đã an nghỉ, đã được chôn cất bên cạnh tổ tiên và phải hư nát.37 Còn Đấng mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy thì không phải hư nát.

38 "Vậy thưa anh em, xin biết cho điều này: chính nhờ Đấng ấy mà ơn tha tội được loan báo cho anh em; và trong khi anh em không thể được giải thoát khỏi tội lỗi mà trở nên công chính nhờ tuân giữ Luật Mô-sê,39 thì nhờ Người, mọi kẻ tin đều được nên công chính.

40 "Vậy hãy coi chừng kẻo lại xảy ra điều đã nói trong sách Các Ngôn Sứ:41 Hỡi những kẻ khinh mạn, hãy xem, hãy kinh ngạc sững sờ và biến mất đi! Vì chính vào thời các ngươi, Ta sắp làm một việc, một việc mà các ngươi sẽ chẳng tin, nếu có ai kể lại cho các ngươi.

Sau bài giảng này, mà thánh Lucas ghi lại gần như trọn vẹn ý chính, thì nhiều người tin theo, rất nhiều người là dân Ngoại. Sách Tông đồ Công vụ nói là “gần như cả thành đến nghe giảng” : “Ngày sa-bát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa.”

Dĩ nhiên người Do thái ghen tức : “Thấy những đám đông như vậy, người Do-thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phao-lô nói và nhục mạ ông.” (TđCv 13, 44-47)

Hai vị lưu lại Antiokia khá lâu cho đến lúc “Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.” (xem TđCv 13, 49),

Cho đến khi người Do thái bắt đầu kiếm chuyện, họ xúi cả người Ngoại chống lại hai vị khiến hai vị phải sang Iconiô: ”Người Do-thái sách động nhóm phụ nữ hượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phao-lô và ông Ba-na-ba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ.51 Hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới I-cô-ni-ô. “ ( TđCv 13, 49)

Icôniô cách Antiokia chừng 100 cây số, và cũng nằm torng vùng cao nguyên miền Nam Thổ nhĩ kỳ. Ngày này Iconiô mang tên Konya.

Tại đây, các vị cũng bị người Do thái sách nhiễu. Các Ngài phải tạm lánh sang thành Lystra, cách đó 18 dặm.

Lystra biến thành một thương phố của người Lamã vào khoảng năm 6 trước Công Nguyên. Dân chúng nghèo, ít học. Đa số là người Lycaonie. Có ngôn ngữ riêng. Họ không nói tiếng hy lạp hay la mã.Vì thế tại thành phố Lystra này, có một biến cố suýt làm Phaolô mất mạng .

Tại Lystra có một người bị què. Thấy ông què có lòng tin, Phaolô làm phép lạ chữa ông khỏi. Ông đi đứng bình thường. Dân Lystra tưởng hai vị là thần linh đội lốt phàm, xì lồ xì lào bằng tiếng địa phương, định dâng hoa tổ chức tế bò tế dê cho hai vị.

Hai vị khi hiểu ra được sự tình, thì hết hồn, phải xé áo trước mặt họ mà la to phân bua : "Hỡi các bạn, các bạn làm gì thế này? Chúng tôi đây cũng chỉ là người phàm, cùng thân phận với các bạn.” (TđCv 14, 15).

Đám dân chúng Lystra thất vọng. Thần mà không vâng lời dân chúng thì dân chúng bắt thần phải vâng lời vậy. Những người Do thái không tin và cả người Ngoại từ Icôniô, cũng tìm tới đây, đứng lẫn lộn trong vụ này. Nhân đó họ xúi và thuyết phục được đám đông Lystra, ném đá các Ngài. “ Bấy giờ có những người Do-thái từ An-ti-ô-khi-a và I-cô-ni-ô đến, thuyết phục được đám đông. Họ ném đá ông Phao-lô rồi lôi ông ra ngoài thành, vì tưởng ông đã chết.20 Nhưng khi các môn đệ xúm lại quanh ông, ông đứng dậy và vào thành. Hôm sau, ông trẩy đi Đéc-bê cùng với ông Ba-na-ba. “ ( TđCv 14,19-20)

Họ tưởng Ngài đã chết nên bỏ đi. Nhờ vậy mà Ngài thoát chết. Khi tỉnh lại Ngài trốn sang Derbé cách đó 60 cây số, ngay biên giới vùng Galatia .

Sau khi rao giảng ở đây thì các Ngài tuần tự, đi ngược trở về các thành đã đi qua, Lystra Icôniô, Antiokia, qua Pisiđia , Pamphylia, Perge. Về lại tới đâu, các Ngài củng cố đức tin cho những tân tòng ở đó, truyền chức thêm các giám mục ( Kỳ mục ) coi sóc các giáo đoàn tân lập, kể lai những chuyện trở lại ở các nơi.

Xuống tới cảng Attalia, từ cảng này các ngài đi thuyền về lại Antiokia bên Syria, kết thúc một chuyến đi truyền giáo đầu tiên.

“Sau khi đã loan Tin Mừng cho thành ấy và nhận khá nhiều người làm môn đệ, hai ông trở lại Lýt-ra, I-cô-ni-ô và An-ti-ô-khi-a.22 Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ, và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin. Hai ông nói: "Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa."23 Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin.

24 Hai ông đi qua miền Pi-xi-đi-a mà đến miền Pam-phy-li-a,25 rao giảng lời Chúa tại Péc-ghê, rồi xuống Át-ta-li-a.26 Từ đó hai ông vượt biển về An-ti-ô-khi-a, là nơi trước đây các ông đã được giao phó cho ân sủng của Thiên Chúa để làm công việc vừa mới hoàn thành.” ( TđCv 14, 21-26)

Toàn bộ chuyến đi kéo dài chừng ba năm, từ khoảng năm 45 đến năm 49.

Các thành phố đã ghé qua trong chuyến đi đầu tiên này :

Vòng đi

Khởi hành từ Antiokia tại Syria

1- Salamis đảo Cypro
2- Paphos đảo Cypros
3- Perga (Tiểu Á, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay)
4- Antiokia (Tiểu Á)
5- Lystra
6-Derbé

Lượt về :
7- Iconium
8- Antiokia
9- Cảng Attalia

Về lại Antiokia tại Syria

Hình minh hoạ chuyến đi truyền giáo đầu tiên
Seeing

Hoặc xem bản đồ minh họa tại đây

 

Công đồng Chung thứ nhất tại Giêrusalem

Sau chuyến đi rao giảng, các Tông đồ gặp ngay một vấn đề hóc búa. Có người Do thái nghe các Tông đồ rao giảng mà tin theo , nghĩa là tin vào Chúa Giêsu. Nhưng cũng có cả, và nhiều nữa là đàng khác, những người Ngoại, cũng tin vào Chúa Giêsu.

Chúng ta đã hiểu, trong Kinh Thánh, và đối với người Do thái, khi họ nói “Dân Ngoại” (Gentiles) là họ muốn ám chỉ đến “tất cả những ai không phải là Do thái.” Vậy người Lamã, Hy lạp, Batư, Ấn độ, Phi châu, Tàu, Lào, Miên,....và Việt Nam đều là dân Ngoại !

Người Do thái tự hào chỉ có họ là “Dân”, “Dân của Chúa” (“am segullah”). Còn mọi sắc dân khác trên toàn thế giới đều là “Ngoại”, là người ngoài, hay Dân Ngoại !

Chúa Giêsu, vốn là một người Do thái, khi chết đi rồi sống lại, Ngài đã lập ra một tôn giáo mới, bắt nguồn từ Do thái giáo, nhưng khác hẳn.

Và khi các môn đệ của Ngài đi rao giảng, chiêu mộ tín hữu tin vào tôn giáo mới ấy của Chúa Giêsu thì, những tín hữu mới này, những người tin vào tôn giáo mới này, có buộc phải giữ những tập tục cũ mà chính Chuá Giêsu, vì là ngươì Do thái, vẫn giữ hay không ?

Chẳng hạn như bị cắt bì. Ngày thứ Bảy không được đi đâu quá 1000 thước. Phải giữ ngày thứ Bảy (Sabbath) nghĩa là từ lúc mặt trời lặn chiều thứ Sáu đến lúc mặt trời lặn chiều thứ Bảy (- đó là cách tính ngày của người Do thái -) không được làm việc. Đứng lên đứng xuống đi tới bật nút TV xem cũng là làm việc ! Bật nút nồi cơm điện cũng là làm việc !

Bà nào chỉ cần nấu cơm khê thôi, hay đầu tóc hôi hám, thì ông chồng Do thái có quyền viết một tờ giấy nêu rõ những lý do ấy, rồi “tiên bố” ly dị: ”Này bà, hãy xê ta ra kẻo khốn mà chớ “ ! Không được ăn thịt heo. Không được ăn tiết canh, dù là tiết canh vịt, hay tiết canh chó, hay tiết canh thỏ !

Sáu trăm mười lăm (615) điều luật như thế, mà hễ là ngươì Do thái, thì phải tuân thủ chi li! Thậm chí thánh Phêrô nói đó là gánh nặng - Ngài gọi đó là cái gông, cái ách, giống như cái ách quàng vào cổ con bò con trâu cho nó kéo cày! - mà chính người Do thái cũng khó mà giữ !”sao anh em lại thử thách Thiên Chúa, mà quàng vào cổ các môn đệ một cái ách mà cả cha ông chúng ta lẫn chúng ta đã không có sức mang nổi?” (TđCv 15,10)

Thế thì những người tín hữu đầu tiên, gốc Do thái, mà là Do thái tại Giuđêa, nghĩa là Do thái vẫn hiện đang sinh sống tại quê nhà chứ không phải là những “Do kiều” (người Do thái sinh sống ở nước ngoài), từ Giêrusalem, lên Antiokia gặp các Tông đồ và đề nghị phải buộc những người Ngoại, khi trở lại, cũng phải bị “cắt bì”, nghĩa là theo nguyên tắc, cũng phải trở thành giống như Do thái, như họ!

Phaolô và Barbabas từ chối, không muốn theo ý kiến này.

Hai ngài đề nghị phải lên Giêrusalem, gặp các Tông đồ bàn hỏi về chuyện “tế nhị này!

Hẳn các Ngài thấy được vấn đề khó khăn. Người ta muốn theo đạo mà bắt phải cắt da đầu “chim”, như mọi người đàn ông Do thái, thì hẳn sẽ ngại ngùng mà không dám theo ! Họ muốn theo đạo chứ có muốn trở thành Do thái đâu !

Vì thế các vị kéo nhau lên Giêrusalem, gặp các Tông đồ.

Đó là Công đồng chung đầu tiên của Giáo Hội, họp khoảng năm 50 .

Trong Công đồng này, Phaolô và Barnabas, đứng về một phía, đại diện cho tín hữu tại Antiokia.

Còn thánh Phêrô, lúc bấy giờ hùng hồn :

"Thưa anh em, anh em biết: ngay từ những ngày đầu, Thiên Chúa đã chọn tôi giữa anh em, để các dân ngoại được nghe lời Tin Mừng từ miệng tôi và tin theo.8 Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi tâm can đã chứng tỏ Người chấp nhận họ, khi ban Thánh Thần cho họ cũng như đã ban cho chúng ta.9 Người không phân biệt chút nào giữa chúng ta với họ, vì đã dùng đức tin để thanh tẩy lòng họ.10 Vậy bây giờ, sao anh em lại thử thách Thiên Chúa, mà quàng vào cổ các môn đệ một cái ách mà cả cha ông chúng ta lẫn chúng ta đã không có sức mang nổi?11 Vả lại, chính nhờ ân sủng Chúa Giê-su mà chúng ta tin mình được cứu độ, cùng một cách như họ." (TđCv 15, 7-11)

Như vậy là bênh cho dân Ngoại, nghĩa là đề nghị khi người Ngoại trở lại, thì không bắt họ phải bị cắt bì !

Thánh Giacôbê cũng ủng hộ lập trường này và đề nghị thêm! "Vì vậy, phần tôi, tôi xét là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa,20 nhưng chỉ viết thư bảo họ kiêng những thức ăn ô uế vì đã cúng cho ngẫu tượng, tránh gian dâm, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết và kiêng ăn tiết.” (TđCv 14, 19-21) Nghĩa là Giacôbê tuy đề nghị không bắt người Ngoại cắt bì nhưng buộc họ kiêng cữ những thói tục xấu, không hợp theo lệ Do thái như: ”kiêng những thức ăn ô uế vì đã cúng cho ngẫu tượng, tránh gian dâm, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết và kiêng ăn tiết.” Điều này nhắm vào các tín hữu vùng Syria, và Cilicia !

Nếu điều này mà áp dụng cho Việt Nam thì các giáo hữu Việt Nam không được ăn tiết canh vịt hay tiết canh chó rồi !

Điều thú vị là những điều buộc kiêng cữ này, không phải vì luật Môsê (luật Do thái ) buộc như thế, nhưng là do Thánh Thần! Điều này cho thấy càng ngày, những người tin theo Chúa Giêsu, càng ngày càng có não trạng xa dần ảnh hưởng của Do thái giáo !

Chi tiết này khiến cho thế giới Lamã, những người vốn xa lạ với Do thái và những tập tục của Do thái giáo,dễ dàng theo đạo hơn !

Như vậy là rất trúng ý với Phaolô !

Sau đó Công đồng sai vài sứ giả mang quyết định của Công Đồng, viết trong một bức thư về Antiokia thông báo cho các tin hữu ở đó: “Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Ba-na-ba và ông Phao-lô,26 những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.27 Vậy chúng tôi cử ông Giu-đa và ông Xi-la đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây:28 Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này:29 là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh."

Bức thư nói rõ : “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định” .

Công đồng chung thứ nhất này được miêu tả trong TđCv chương 15 và thư Galát chương 2 câu 3-4

Nhưng hệ quả của Công đồng chưa chấm dứt ở đây . Nếu những quyết định trên áp dụng cho những tín hữu ngươì ngoại trở lại Antiokia, Syria, thì những người Do thái gốc tại quê hương thì sao? Khi họ trở lại họ có còn bị bó buột phải giữ luật Môse nữa không? Ngoài chuyện kiêng ăn kiêng uống này ra, thì còn rất nhiều điều luật khác nữa? Như luật rửa tay trước khi ăn, luật giữ ngày Sabbath?

Đây chính là điều mà sau này hai vị Phêrô và Phaolô phải to tiếng với nhau một lần.

Đúng ra Phaolô phê bình Phêrô, không “trước sau như một”. Vì Phêrô đã không muốn mất lòng người Do thái “dòng” nên Ngài cũng kiêng ăn cữ uống dù đang tiếp xúc và đang ở giữa các tín hữu Ngoại trở lại. Làm thế, những người tân tòng này sẽ ngại ngùng mà bắt chước theo Ngài, mà kiêng cữ giống như dân Do thái gốc! Như thế lại tự mình đi ngược lại những quyết định của Công Đồng Giêrusalem. Họ làm thế vì là làm theo thánh Phêrô !

Phêrô không đủ kiên quyết để canh tân.

Phaolô thấy thế, “xì nẹt” cho một trận. chi tiết này có kể trong Thư Galat 2,11-20 như sau : “Nhưng khi ông Kê-pha đến An-ti-ô-khi-a, tôi đã cự lại ông ngay trước mặt, vì ông đã làm điều đáng trách.12 Thật vậy, ông thường dùng bữa với những người gốc dân ngoại trước khi có những người của ông Gia-cô-bê đến; nhưng khi những người này đến, ông lại tránh né và tự tách ra, vì sợ những người được cắt bì.13 Những người Do-thái khác cũng theo ông mà giả hình giả bộ, khiến cả ông Ba-na-ba cũng bị lôi cuốn mà giả hình như họ.

14 Nhưng khi tôi thấy các ông ấy không đi đúng theo chân lý của Tin Mừng, thì tôi đã nói với ông Kê-pha trước mặt mọi người: "Nếu ông là người Do-thái mà còn sống như người dân ngoại, chứ không như người Do-thái, thì làm sao ông lại ép người dân ngoại phải xử sự như người Do-thái? "

Chúng ta thấy Phaolô là ghê chưa ! Dám “la” cả Đức Giáo Hoàng tiên khởi, đại diện Chúa Giêsu ở trần gian này, là “giả hình” !

Phaolô đưa ra lý luận đanh thép:"Nếu ông là người Do-thái mà còn sống như người dân ngoại, chứ không như người Do-thái, thì làm sao ông lại ép người dân ngoại phải xử sự như người Do-thái? “

Giáo hoàng Phêrô chịu một phép, không nói lại được lời nào!

 

 

  Nguyễn đức Khang
Houston,2005


Mời đọc tiếp

1 2 3

Xem các bài viết khác trong Lớp Ngôn sứ , Khoá 15 GHHV Đà Lạt Việt Nam.