Các cuộc hành trình truyền giáo của Phaolô

1 2 3

Seeing

 

 

Câu hỏi Giáo Lý
“Con muốn biết là trước khi Thánh Phaolô (Paul) chết, Ngài đã lập được bao nhiêu cộng đồng và Ngài đã rao giảng ở những vùng nào?” ( Hải Yến)

 

(2) Hành trình truyền giáo lần thứ hai

Ôn tiếp những thời điểm quan trọng -Lên Giêrusalem lần thứ ba để dự công đồng, khoảng năm 49 hay 50; -Hành trình truyền giáo lần thứ hai, khoảng từ năm 50 đến năm 53; -(Viết hai thư , thư I và II gởi giáo dân Thessalonca), khoảng năm 52;

Diễn biến chuyến đi này được thuật lại trong sách Tông Đồ Công vụ chương 15, câu 36 đến chương 18, câu 22.

Ngay khi bắt đầu cuộc hành trình lần thứ hai, Phaolô từ chối không nhận cho Gioan Marcô đi theo nữa. Ngài đang còn giận vì anh chàng này, trong chuyến đi thứ nhất đã bỏ về giữa chừng.

Chà có người giận dai ghê ta ơi !

Sách ghi rõ “hai bên nổi nóng đến độ chia tay” !

Nhà cháu không nói xạo, có ghi trong Kinh Thánh “Đó là Lời Chúa” đàng hoàng.

“Ít ngày sau, ông Phao-lô nói với ông Ba-na-ba: "Ta hãy trở lại thăm các anh em trong mỗi thành ta đã loan báo lời Chúa, xem họ ra sao."37 Ông Ba-na-ba muốn đem theo cả ông Gio-an cũng gọi là Mác-cô.38 Nhưng ông Phao-lô thì nghĩ là một người đã từng bỏ hai ông từ khi ở miền Pam-phy-li-a và đã không cộng tác với hai ông, thì không nên đem theo.39 Hai bên nổi nóng đến mức phải chia tay nhau. “ ( TđCv 15, 36-39)

Vậy ra, nếu nhà cháu hay các Bạn, có ai to tiếng một chút, đỏ mặt vừa vừa, gân cổ hơi to to, ồn ào quá đáng trong nhà, thì xin hiểu cho rằng các ông đang noi gương thánh Phaolô !

Thế là đường ai nấy đi. Hai anh em Barnabas và Gioan Marcô đi một đàng, sang đảo Cypros. Còn Phalô, có bạn đồng hành mới là Silas, đi đường bộ lên Tarsê, để thông báo quyết định của Công đồng, rồi từ Tarsê theo đường bộ đi sang Derbe, qua ải quan vùng Cilicia. “Ông đến Đéc-bê “ (TđCv 16,1)

Thành Derbe là nơi, trong chuyến đi trước, Phaolô đã tới rao giảng. Lần này, ngài đến đây để thăm và củng cố đức tin các tín hữu.

Sau đó Ngài đến Lystra, cũng là nơi Ngài đã từng tới rao giảng trong chuyến đi trước. “1 Ông đến Đéc-bê, rồi đến Lýt-ra.” (TđCv 16,1)

Chuyến đi không có biến cố gì, chỉ có sự kiện là Phaolô chọn được anh Timothê đi cùng,

“Ở đó có một môn đệ tên là Ti-mô-thê, mẹ là người Do-thái đã tin Chúa, còn cha là người Hy-lạp.2 Ông được các anh em ở Lýt-ra và I-cô-ni-ô chứng nhận là tốt.3 Ông Phao-lô muốn ông ấy cùng lên đường với mình, nên đã đem ông đi làm phép cắt bì, vì nể các người Do-thái ở những nơi ấy; thật vậy, ai cũng biết cha ông là người Hy-lạp.” (TđCv 16,2-3)

Khi viết tới đây, nhà cháu định bênh cho Phêrô một tiếng. Tai sao khi Phêrô kiêng ăn thịt thì bị Phaolô la, còn bây giờ Phaolô lại bắt Timôthê, phải cắt bì ? Thế là đi ngược lại với quyết định của Công Đồng Giêrusalem rồi !

Timôthê là người “lai”, mẹ Do thái nhưng bố là người Hylạp. Nhưng thế cũng là người Ngoại chứ, phải không ?

Chúng ta có thể tìm ra được một lý do để cắt nghĩa việc cắt bì của Timôthê.Tuy không cần bị cắt bì, nhưng dù có bị cắt bì cũng không là điều trái với quyết định của Công Đồng, vì Timôthê có nữa dòng máu Do thái trong người. Mẹ Timôthê là người Do thái.

Hơn nữa, khi chấp nhận bị cắt bì như thế thì tiếng nói của Timôthê sẽ được đồng bào Do thái, vốn sinh sống rất nhiều và có rất có ảnh hưởng ở Lystra, sẽ lắng nghe nhiều hơn. Như thế vì nhu cầu truyền giáo mà Timôthê chịu cắt bì như người Do thái .

Từ Lystra, mà có lẽ cũng từ Iconiô hay Antiokia, là những thành phố lân cận chung quanh đó (xem bản đồ) hai ngài muốn đi băng qua Galathia thẳng lên phía Bắc, đến các vùng Bithynia và Pontius, để rao giảng tại đó. Hai miền này nằm dọc bờ biển Đen ( Hắc Hải). “Các ông đi qua miền Phy-ghi-a và Ga-lát, vì Thánh Thần ngăn cản không cho các ông rao giảng lời Chúa ở A-xi-a.” (T đCv 16,6)

Câu “đi qua miền Phy-ghi-a và Ga-lát - ten phrygian kai Galatiken choran” là muốn ám chỉ việc các ông đi thẳng lên phía bắc đến vùng Bythynia và Pontius. Nếu quả thế thì hẳn vùng miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ đã được rao giảng.

Có lẽ , chính lúc này Phaolô bị một cơn bệnh, mà Phaolô không nói rõ là bệnh gì. Ngài phải lưu lại vùng Galatia ít lâu, và nhân tiện Ngài rao giảng tại đó.

Sau này Ngài viết thư cho họ. Đó là bức thư mà chúng ta gọi là “Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Galata” Trong đó Ngài có nhắc đến chi tiết Ngài bị bệnh tại đó. Không biết bệnh gì, nhưng chắc là khiến cho dáng vẻ Ngài trở nên “khó coi”, mà Ngài nói giáo dân Galata thấy Ngài bị bệnh đã “không kinh không tởm”. Lở loét, da liễu, sưng phù ?

“ 13 Anh em biết: nhân khi thân xác bị đau ốm, tôi đã loan báo Tin Mừng cho anh em lần đầu tiên.14 Mặc dù thân xác tôi là một dịp thử thách cho anh em, anh em đã không khinh, không tởm; trái lại anh em đã tiếp đón tôi như một sứ giả của Thiên Chúa, như Đức Ki-tô Giê-su.15 “ (Galatians 4:13-14).

Như thế vùng Galatia là vùng đồi núi cao nguyên trung phần của nước Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày nay gọi là vùng cao nguyên Anatolia .Bao bọc chung quanh Galatia là Bithynia và Paphlagonia ở phía bắc, phía đông có Pontus, phía nam có Lycaonia và Cappadocia, và phia tây có Phrygia. Thủ đô Ankara của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay nằm giữa vùng Galatia này.

Khi nói “vì Thánh Thần ngăn cản không cho các ông rao giảng lời Chúa ở A-xi-a.” có lẽ ám chỉ việc Phaolô bị bệnh tại Galatia. Hay là ám chỉ đến việc các Ngài được báo mộng và sang Maxedonia để rao giảng sau này ? Chúng ta không biết rõ.

Vậy là sau cơn bệnh, Phaolô và Silas, thay vì đi lên phía bắc, lại đi sang phía tây, mãi tới bờ biển Egée, đến thành Troie “Khi tới sát ranh giới My-xi-a, các ông thử vào miền Bi-thy-ni-a, nhưng Thần Khí Đức Giê-su không cho phép.8 Các ông bèn đi qua miền My-xi-a mà xuống Trô-a.” ( TđCv 16,9)

Ở đây có hai địa danh cần phải dừng lại.

Myxia, vùng bờ biển phía Tây Bắc của Thổ nhĩ kỳ, ngay tại eo biển Dardanelles , thuộc vùng vùng Tiểu Myxia hay Hellespontica, phân chia Á Châu và Âu Châu. Eo biển này còn gọi là eo biển Bosphores.

Còn Troyas, tên gọi đầy đủ là Alexandria Troas, chỉ nằm cách thành Troy nổi tiếng với con ngựa gỗ trong trường thi Illiad của thi sĩ Homère có 15 cây số thôi.

Thành Troy, với con ngựa gỗ, có tên Hy lạp là Τροία Troia (hay Τροίη) cũng còn gọi là Ἴλιον, Ílion. Vì thế mà trường ca của Homère kể lại cuộc chiến này được đặt tên là Trường ca Illiad. .

Alexandria Troas là một thương khẩu quan trọng của người Lamã nối liền Tiểu Á bên bờ Đông biển Êgê với xứ Macedonia và Hy lạp bên bờ phía Tây.

Tại thành Troias này :”9 Ban đêm, ông Phao-lô thấy một thị kiến: một người miền Ma-kê-đô-ni-a đứng đó, mời ông rằng: "Xin ông sang Ma-kê-đô-ni-a giúp chúng tôi! "10 Sau khi ông thấy thị kiến đó, lập tức chúng tôi tìm cách đi Ma-kê-đô-ni-a, vì hiểu ra rằng Thiên Chúa kêu gọi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho họ.”( TđCv 16, 9-10)

Thế là lần đầu tiên, do sự thúc đẩy của Thánh Thần, hay do lời kêu gọi từ trong giấc mơ của những người miền Macedonia, Phaolô và Timôthê lần đầu tiên bước chân sang Âu Châu .

“Xuống tàu ở Trô-a, chúng tôi đi thẳng đến đảo Xa-mốt-ra-kê, rồi hôm sau đến Nê-a-pô-li.12 Từ đó chúng tôi đi Phi-líp-phê là thị trấn quan trọng nhất trong hạt ấy của tỉnh Ma-kê-đô-ni-a, và là thuộc địa Rô-ma. ‘(Tđcv 16, 11-12)

Nhưng chúng ta nên biết phía Đông của Âu châu, phía Bắc có Macêđônia và phía Nam có Hylạp, cả hai miền này, lúc bấy giờ là cái nôi văn minh của thế giới.

Chúng ta dần dần xem cách Phaolô tiếp cận và rao giảng đức tin Kytô giáo cho văn hoá Hylạp như thế nào.

Luôn luôn đi tới đâu, các Ngài, Phaolô và Silas vào trong các Hội đường, vốn là “nhà thờ” và “trụ sở” của người Do thái, mà rao giảng cho người Do thái trước. Chỉ sau khi người Do thái từ chối, các Ngài mới ra đi tiếp cận với người Ngoại, hay lương dân, mà rao giảng cho họ .

Vậy các Vị ấy đặt chân đến Hylạp: “ Xuống tàu ở Trô-a, chúng tôi đi thẳng đến đảo Xa-mốt-ra-kê, rồi hôm sau đến Nê-a-pô-li.12 Từ đó chúng tôi đi Phi-líp-phê là thị trấn quan trọng nhất trong hạt ấy của tỉnh Ma-kê-đô-ni-a, và là thuộc địa Rô-ma.” (TđCv 16,12)

Hải cảng Philippi, chỉ cách Neapoli 15 cây số, ngày này có tên là Kavalla.

Sỡ dĩ hải cảng này có tên Philippi là vì Vua Philip đệ Nhị, bố của Alịchsơn Đại Đế, lấy tên mình đặt cho những con suối trong hải cảng ấy. Ngày xưa nó có tên là Crenides , nghĩa là “Những Con Suối Nhỏ”.

Nó chiếm ngự một vị trí chiến lược trên một ngọn đồi, án ngữ hai cửa sông Strymon và Nestus , bao quát cả vùng đồng bằng Druma của sông Gangites, và kiểm soát luôn ngọn đèo Pangaeus và Haemus.

Sau trận đánh nổi tiếng ở Pydna năm 168 trước Công Nguyên, người Macedonia với chiến thuật “phalanx” lừng danh, thua người Roma chuyên hành binh theo kiểu “Legio-sư đoàn”, cảng Phillippi đầy người Lamã. Đến năm 146, cảng Phillipi trở thành một trấn của Lamã . Vào mùa thu năm 42, Cassius và Brutus liên tục thua trận Octavius và Anthony tại cảng này. Như thế là chấm dứt nền Cộng hoà Lamã. Phillippi trở thành một doanh trại lính, với nhiều đặc quyền, như được miễn thuế.

Tại cảng Philippi này, xảy ra nhiều sự kiện hay hay !

Với một quá khứ đầy “La mã” như thế, chẳng lạ gì mà tại Phillipi không có Hội đường Do thái. Số người Do thái ở đây quá ít. Nên các nhà truyền giáo của chúng ta chọn ngay một chỗ công cộng.

Các ông lân la ra cửa thành, ngồi bắt chuyện với mấy ...bà !!! “Ngày sa-bát, chúng tôi ra khỏi cổng thành, men theo bờ sông, đến một chỗ chúng tôi đoán chừng có nơi cầu nguyện. Chúng tôi ngồi xuống nói chuyện với những phụ nữ đang họp nhau tại đó “ ( TđCv 16,13)

Không hiểu các Ngài ngon ngọt thế nào, mà có một bà tên là Lydia tin theo. Cả nhà bà cũng theo bà mà trở lại : “Có một bà tên là Ly-đi-a, quê ở Thy-a-ti-ra, chuyên buôn bán vải điều. Bà là người tôn thờ Thiên Chúa; bà nghe, và Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý đến những lời ông Phao-lô nói.15 Sau khi bà và cả nhà đã chịu phép rửa, bà mời chúng tôi: "Các ông đã coi tôi là một tín hữu Chúa, thì xin các ông đến ở nhà tôi." Và bà ép chúng tôi phải nhận lời. “ (TđCv 16,16)

Bẳn Anh văn gọi bà Lydia là người "God-fearer - Kính sợ Thiên Chúa” (xem thêm TđCv 10,1), hơn là “tôn thờ Thiên Chúa”, nghĩa là bà tuy người Ngoại, nhưng cũng chấp nhận tin theo Thiên Chúa duy nhất của người Do thái, cũng vào Hội đường cầu kinh nhưng không giữ luật kiêng ăn hay cắt bì.

Nhưng dù gì thì đó là bước khởi đầu tốt. Ít là các Ngài có nơi ăn chốn ngủ. Hàng ngày các Ngài ra cổng thành để mà cầu nguyện , thì lại xảy ra biến cố sau :

“Một hôm, đang khi chúng tôi đi tới nơi cầu nguyện, một đầy tớ gái đón gặp chúng tôi; cô ta bị quỷ thần ốp, và thuật bói toán của cô làm lợi nhiều cho các chủ của cô.17 Cô lẽo đẽo theo ông Phao-lô và chúng tôi mà kêu: "Các ông này là tôi tớ Thiên Chúa Tối Cao; họ loan báo cho các người con đường cứu độ."18 Cô cứ làm thế trong nhiều ngày. Bực mình, ông Phao-lô quay lại bảo quỷ: "Nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, ta truyền cho ngươi phải xuất khỏi người này! " Ngay lúc ấy, quỷ thần liền xuất. “ (TđCv 16, 16-18)

Cô gái làm osin có tài bói toán. Bản văn nói cô bị “quỷ thần ốp”. “Ám” hay “ốp” ? Mà “ốp” là gì ? Nguyên văn ghi là “ with a Python spirit - cô ta bị viá con python ám” Python là con trăn giữ đền Delphy. Ý nói cô có tài bói toán.

Cô coi bói hay. Như thế cô là một nguồn lợi cho chủ của cô. Ai mà coi bói miễn phí bao giờ ! Vậy mà Phaolô lại đuổi “quỷ thần” ra khỏi cô ta, làm cho cô ta coi bói mất linh.

Thế mới xảy ra cơ sự. Mất nồi gạo, mấy ông chủ của cô nào có tha cho thầy trò Phaolô .

“Các chủ của cô thấy hy vọng kiếm lợi đã tiêu tan, liền túm lấy ông Phao-lô và ông Xi-la mà lôi đến quảng trường, đưa ra trước nhà chức trách.20 Họ điệu hai ông đến các quan toà và nói: "Những người này gây xáo trộn trong thành phố chúng ta; họ là người Do-thái,21 và họ truyền bá những tập tục mà người Rô-ma chúng ta không được phép chấp nhận và thi hành."22 Đám đông nổi lên chống hai ông. Các quan toà, sau khi đã cho lột áo hai ông, thì ra lệnh đánh đòn.23 Khi đã đánh nhừ tử, họ tống hai ông vào ngục, và truyền cho viên cai ngục phải canh giữ cẩn thận.24 Được lệnh đó, người này tống hai ông vào phòng giam sâu nhất và cùm chân lại. “ ( TđCv 16 , 19-24)

Bị đòn nhừ tử, giam trong ngục sâu, mà chân còn bị cùm .

Các nhà truyền giáo ơi, các Bác dạy giáo lý ơi, chớ có đụng đến các cô “osin” nhé !

Nhưng không sao. Đụng thì cứ đụng. Có thiên thần cứu. “25 Vào quãng nửa đêm, ông Phao-lô và ông Xi-la hát thánh ca cầu nguyện với Thiên Chúa; các người tù nghe hai ông hát.26 Bỗng nhiên có động đất mạnh, khiến nền móng nhà tù phải rung chuyển. Ngay lúc đó, tất cả các cửa mở toang và xiềng xích của mọi người buột tung ra.27 Viên cai ngục choàng dậy và thấy các cửa ngục mở toang, liền rút gươm định tự tử, vì tưởng rằng các người tù đã trốn đi.” (TđCv 16, 25-27)

Sau khi trấn an, cai ngục trở lại. Các Ngài rửa tội cho cai ngục và cả nhà ông.

Sáng hôm sau, đến phiên quan toà bắt đầu... “run”. Các quan toà, tiếng La tinh gọi là “Magistrates” còn hy lạp dùng chữ in “strategoi “, là tên gọi thông dụng của chức duoviri, chức quan cao nhất của Lamã coi sóc thương khẩu Philippi. Gọi là Duoviri (hai người, Nhị vị) vì người mang chức vị này có hai công tác, vừa hành chánh vừa luật pháp, nghĩa là vừa là quan Tỉnh trưởng ,vừa là Chánh án.

Chức to là thế, một mình bằng hai người thường, vậy mà khi nghe biết Phaolô là “công dân Lamã” thì các ngài chánh án bắt đầu... xuống nước: “Những ông này sợ hãi khi nghe biết hai ông là công dân Rô-ma.39 Họ bèn đến xin lỗi, rồi đưa hai ông ra và xin hai ông rời khỏi thành phố.“ (TđCv 16,38) Vì luật Lamã cấm ngặt và phạt nặng những ai đánh đòn công dân Lamã. (xem TđCv 22,25-27)

Không biết lúc Phaolô còn nhỏ, mẹ cuả Phaolô có vi phạm luật cấm này không nhỉ ?

Các công dân bất cứ nước nào thời nay cũng đều thua xa công dân Lamã !

Hình minh hoạ chuyến đi truyền giáo lần thứ hai
Seeing

Hoặc xem bản đồ minh họa tại đây

Chúng ta đang ở miền bắc Hy lạp.

Theo chân Phaolô chúng ta đi tiếp

Sau khi được thiên thần khiến động đất cứu ra khỏi tù, kèm theo lời xin lỗi của các vị “phụ mẫu chi dân”, Phaolô và Silas chân thấp chân cao “Hai ông đi ngang qua Am-phi-pô-li và A-pô-lô-ni-a, đến Thê-xa-lô-ni-ca, là nơi có một hội đường của người Do-thái.” (TđCv 17,1)

Cả hai thành phố Amphipolis và Apollonia đều nằm trên con đường cái quan đi dọc bờ biển Êgê từ Bắc xuống Nam của miền Bắc Hy lạp, gọi là “quốc lộ số Một” Egnatian. Hai thành phố cách nhau chừng “một ngày đàng” (chừng 45 cây số).

Amphipolis nằm giữa một thung lũng phì nhiêu có nhiều nho, ôliu và gỗ. Vào thời đó, nó là vị trí chiến lược để kiểm soát đường quốc lộ “số Một” Egnatian, trên bờ sông Strymon.

Hai Ngài chỉ đi qua đây, trên đường đến Thessalonica .“1 Hai ông đi ngang qua Am-phi-pô-li và A-pô-lô-ni-a, đến Thê-xa-lô-ni-ca, là nơi có một hội đường của người Do-thái.2 Theo thói quen, ông Phao-lô đến với họ, và trong ba ngày sa-bát liền, ông thảo luận với họ;” ( TđCv 17,1-3)

Thessalonica mới chính là thủ phủ của miền Macedonia này. Tên gọi ngày nay chỉ còn là Salonika. Nằm ngày trên bờ vịnh Thermaic, cách Apollonia chừng 60 cây số. Thành phố này được Cassander thành lập năm 315 trước Công Nguyên. Ông lấy tên vợ mà đặt tên cho thành. Bà là con gái của hoàng đế Philip đệ Nhị. Dân số lúc ấy chừng 200 ngàn .

Tại đây, các Ngài theo đúng chiến thuật cũ, là vào Hội đường Do thái mà rao giảng trước.

Đặc biệt lần này, các Ngài đi theo cách thức của Chúa Giêsu đã dùng để “mở mắt” hai môn đệ trên đường về làng Emaus. Đó là trích dẫn và cắt nghĩa Kinh Thánh để chứng minh Đức Kytô phải chết và đã sống lại : “Theo thói quen, ông Phao-lô đến với họ, và trong ba ngày sa-bát liền, ông thảo luận với họ; dựa vào Kinh Thánh, ông3 giải thích và xác định rằng Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình và sống lại từ cõi chết; ông nói: "Đấng Ki-tô ấy, chính là Đức Giê-su mà tôi rao giảng cho anh em." (TđCv 17,2-3)

Một vài người nghe và tin theo. Nhưng nhiều người khác nghe không lọt tai. Họ làm bung xung, lôi kéo nhóm “du đãng, du thủ du thực, đầu đưòng xó chợ” kéo đến nhà Jason, nơi hai ông ở trọ, muốn bắt Phaolô. Nhưng không gặp. Nên họ trút cơn giận lên đầu chủ nhà Jason, lôi ông này tới chốn công đường, hô to: “Uy Vũ”, mời Bao công ra xử án.

Họ lập lại y chang mánh khóe của người Do thái trước dinh Philatô, khi kết án Chúa Giêsu: "Những tên gây rối trong cả thiên hạ, nay vác mặt đến đây,7 thế mà Gia-xon lại chứa chấp chúng! Tất cả bọn này đi ngược lại các chiếu chỉ của hoàng đế Xê-da, vì chúng nói rằng có một vua khác là Giê-su."8 Nghe những lời ấy, đám đông và các nhà chức trách thành phố xôn xao,9 họ đòi ông Gia-xon và những người kia phải nộp tiền ký quỹ rồi mới thả ra.” (TđCc 17, 7-8)

Cùng bị một lối kiện cáo, mà Chúa Giêsu thọ án tử, nhưng Phaolô và Silas chỉ mất tiền ký quỹ rồi được thả ra. Rõ ràng cuộc xử án ở dinh Philalô hôm nào đầy mầu sắc chính trị. Bọn “du thủ du thực” ở Thessalonica đây không âm mưu và hiểm độc bằng các Tư tế Do thái tại Giêrusalem.

Giờ đây chúng ta mới thấy các Tư tế muốn giết cho bằng được Chúa Giêsu mà. Với lại cai trị người Do thái tại Giêrusalem, thủ đô bị trấn đóng, dĩ nhiên là khó hơn là trấn an nhóm người Do thái thiểu số tại Thessalonica đây. Philalô cần phải lấy lòng Lamã nhiều hơn, và phải làm sao để giữ Giêrusalem yên tĩnh. Còn Thessalonica đã là một thành phố Lamã rồi, và gần “mặt trời Roma” hơn.

Chịu mất một số tiền, các Ngài phải đi ngay trong đêm. Sang Bêrêa .

Bêrêa là một thành phố mà Cicêrô gọi là “thành phố lạc lõng”, vì nó cách Thessalonica 60 cây số về hướng Tây Nam, nhưng không nằm dọc đường quốc lộ, mà nằm dưới chân ngọn núi Bermios .

Dân Do thái ở đây “hiền” hơn. Khi nghe Phaolô giảng, họ còn tra cứu Kinh Thánh để đối chiếu xem coi có thật đúng như vậy không .

“Ngay đêm ấy, các anh em tiễn ông Phao-lô và ông Xi-la đi Bê-roi-a. Đến nơi, các ông vào hội đường người Do-thái.11 Những người Do-thái ở đây cởi mở hơn những người ở Thê-xa-lô-ni-ca: họ đón nhận lời Chúa với tất cả nhiệt tâm, ngày ngày tra cứu Sách Thánh để xem có đúng như vậy không.12 Vậy nhiều người trong nhóm họ tin theo; về phía người Hy-lạp, cũng có nhiều phụ nữ thượng lưu và nhiều đàn ông cũng tin theo.” (TđCv 17,10-12)

Nhóm Do thái ở Thessalonica nghe tin mấy Ngài đã tới đây thì họ không tha, mà cũng kéo cả bọn sang đây. Dấy máu ăn phần. Y hệt như ngài Jét xi Giắc xông ! Muà Chay nào cũng có nước mắt.

”13 Nhưng khi người Do-thái ở Thê-xa-lô-ni-ca biết là ông Phao-lô cũng loan báo lời Thiên Chúa ở Bê-roi-a nữa, thì họ lại đến đấy sách động và gây xôn xao trong dân chúng.14 Bấy giờ các anh em lập tức tiễn ông Phao-lô ra tận bờ biển; còn ông Xi-la và ông Ti-mô-thê thì vẫn ở lại đó.15 Các người tháp tùng đưa ông Phao-lô đến A-thê-na rồi từ đó trở về, mang theo lệnh bảo ông Xi-la và ông Ti-mô-thê phải đến với ông Phao-lô càng sớm càng tốt.” (TđCv 17, 13-16)

Thế là một số người phải đưa Phaolô đi.

Phaolô xuống Athens trước. Silas và Timôthê xuống sau .

Athens còn gọi là Nhã Điển, thành phố thủ đô văn vật của Hylạp. Nói đến Hylạp là phải nhớ ngay đến Athens. Athens, là nơi khai sinh tư tưởng về dân chủ, về nền cộng hoà . Athens tập trung mọi thành quách, đền đài mang đậm nét văn hóa và văn minh đặc trưng của Hy lạp, đến nỗi khi chiếm đóng Hy lạp,người Lamã , vốn rất chuộng tất cả những gì là Hylạp, đã trân trọng dành cho Athens một quy chế riêng biệt: Athens vẫn là một thành phố tự do.

Tên “Athens” là do từ Ἀθῆναι-Athēnai, dạng số nhiều của Ἀθήνη-Athēnē, tên của nữ thần Athena. Sỡ dĩ tên Athenai ở số nhiều vì thành phố có nhiều phần mà phần nào cũng hoành tráng đáng được kể như một thành phố riêng biệt .

Suốt cả một ngàn năm trước Công Nguyên và nhất là từ năm 500 đến 300, Athens ở vào thời hoàng kim. Đó là trung tâm văn hóa của thế giới.

Nằm cách mỏm Piraeus, ở bờ biển, 7 cây số, Athens ngó xuống vịnh Saronic. Vào năm 146 trước Công nguyên, người Lamã chiếm Athens, nhưng để cho Athens được tự do .

Lúc Phaolô đến Athens, khoảng năm 52, thì Athen đã mất hết nét huy hoàng và giầu có ngày xưa. Dân số chỉ con chừng 10 ngàn người. Nhưng hội trường Areopagus, nơi thị dân Athens thường tụ họp, vẫn là chổ lý tưởng để bắt đầu một bài giảng.

Areopagus vừa là một công trường , vừa là tên của Hội đồng thành phố Athens.

Areopagus, tên Hy lạp, có nghĩa là “Ngọn đồi của Ares”. Theo thần thoại Hylạp, Ares là thần Chiến Tranh. Ông đã bị các thần khác đem ra xử án xem coi có phạm tội giết Alirrothios con của thần Poseidon hay không. Ông được trắng án. Nhưng vụ xự án này được coi là vụ xử án đầu tiên trên thế gian . Từ đó, ngọn đồi nơi xử án thân Ares được gọi là Areopagus. Ngườì Hylạpdùng tên này để gọi một ngọn đồi cao chừng hơn 100 thước, nằm về phía tây bắc ngọn đồi Acropolis. Nơi đây, ngày trước, hội đồng nhân dân thành phố Athens, cũng gọi là Aeropagus, tụ tập để giải quyết những vấn đề quan trọng của thành phố, như xét xem có nên đi đánh nhau không, hay xử các vụ trọng án trong thành phố, như cướp của giết người .

Việc Phaolô ra “điều trần” trước hội đồng Areopagus không có nghĩa là ngài bị xử án về tội gì, nhưng vì trước đó, Ngài hay thảo luận với những người qua lại tại quảng trường này, nên đã lôi kéo được sự chú ý của những người trong hội đồng areopagus. “Vậy ông thảo luận trong hội đường với những người Do-thái và những người tôn thờ Thiên Chúa, và ngoài quảng trường mỗi ngày với những người qua lại.18 Có mấy triết gia thuộc phái Khoái Lạc và phái Khắc Kỷ cũng trao đổi với ông. Kẻ thì nói: "Con vẹt đó muốn nói gì vậy? " Người khác lại bảo: "Hình như ông ta rao giảng về những thần xa lạ", vì ông Phao-lô loan báo Tin Mừng về Đức Giê-su và về sự Phục Sinh.” (TđCv 17,17-18)

Chúng ta thấy rõ lòng kiêu hãnh và tự mãn của người Hy lạp khi gọi một người Do thái lùn, đang hùng hồn, mang tên Phaolô, là “con vẹt”.

Lúc bây giờ hai nhóm triết gia Khoái lạc và Khắc kỷ là hai nhóm hoàn toàn đối nghịnh nhau như nước với lửa. Họ gặp nhau ngoài quảng trường chỉ là để cãi nhau hằng giờ không chán. Ai cũng bảo vệ cho bằng được chủ thuyết của phái mình.

Phaolô, vô hình trung, đã nằm giữa hai lằn đạn. Những Ngài đã có cách để khởi đầu.

Tinh thần dân chủ phát sinh từ Athens đã ảnh hưởng mạnh. Nếu mọi người sinh ra đều bình đẳng, và ai cũng có quyền bầu bán, thì các vị thần cũng thế: Mọi vị Thần đều có quyền được thờ như nhau. Vì thế mà khắp nơi trong thành phố, chỗ nào cũng có tượng thần. Thần la liệt. Thần đủ mọi loại, Thần đủ mọi màu da. Thần đủ mọi kiểu, mọi tên.

Dân Athens còn cẩn thận, sợ có vị thần nào mà họ chưa biết đến, sẽ lên tiếng bất bình, nên họ làm thêm một tượng “rề sẹt”- just in case! , đề tên là “Thần Vô danh” (nghĩa là Thần, nếu có, mà thành Athens chúng tôi chưa biết tên)

Quả vậy sau khi nhàn tản thả bộ qua gần hết các đường trong thành phố, nhận thấy được mấu chốt cho vấn đề, Phaolô nêu lên một chi tiết để lung khởi : “Đứng giữa Hội đồng A-rê-ô-pa-gô, ông Phao-lô nói: "Thưa quý vị người A-thê-na, tôi thấy rằng, về mọi mặt, quý vị là người sùng đạo hơn ai hết.23 Thật vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của quý vị, tôi đã thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: "Kính thần vô danh". Vậy Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị. “ (TđCv 17,22-23)

Ngài tiếp tục khai triển bài giảng, người Athens lắng nghe. Cả Khắc kỷ lẫn Khoái lạc đều lắng nghe. Ngài giới thiệu Đức Giêsu Kytô, người ta cũng lắng nghe. Cho đến khi ngài nói đến sự kiện sống lại, thì đầu óc duy lý của Hy lạp khựng lại, họ không chấp nhận: “Vừa nghe nói đến người chết sống lại, kẻ thì nhạo cười, kẻ thì nói: "Để khi khác chúng tôi sẽ nghe ông nói về vấn đề ấy."33 Thế là ông Phao-lô bỏ họ mà đi. “ (TđCv 17,33)

Chúng ta cứ ngỡ nơi đỉnh cao của văn minh nhân loại cũng sẽ là nơi dễ chấp nhận Tin Mừng, chứ. Vậy mà Athens lại là nơi gọi Tin Mừng, gọi việc Chúa Giêsu chịu chết trên thánh giá là một sự điên rồ !

Phải kể ra việc rao giảng của Phaolô tại Athens là một thất bại! Sau này Ngài chẳng có một cái thơ nào “gửi tín hữu thành Athena “ cả .

Nhưng ít ra cũng có một vài người tin theo, trong số đó có ông Dyonisius và một bà tên là Damaris.

“1 Sau đó, ông Phao-lô rời A-thê-na đi Cô-rin-tô. ” (Tđcv 18,1)

Côrintô là như một pháo đài nằm trên một cao nguyên nhìn xuống eo biển giữa Hylạp và đảo Peloponnesus. Cảng Corintô nằm ở mạn Nam của một đại đô thị. Phiá Đông có cảng Cenchrea mở vào vịnh Saronic của biển Egê. Phía Tây có cảng Lechaeum mở vào vịnh Côrintô, biển Adriatric. Các tàu bè nhỏ có thể được ròng rọc kéo trượt trên các cây xà gỗ tròn để từ vịnh này sang vịnh kia.

Vào năm 27 trước Công nguyên, Côrintô đã là một thương cảng sầm uất, hỗn tạo, và là thủ phủ của trấn Achaia. Dân số lúc ấy đã trên 200 ngàn người, gồm đủ mọi sắc dân và màu da, từ Lamã , Hy lạp, Ý, Do thái cũng không thiếu. Cả những người đến từ Đông phương xa như Ấn độ. Lính tráng cũng có, mà thương gia, công chức cũng có. Thủy thủ lại càng nhiều hơn! Và cùng với thuỷ thủ tứ xứ, thì có các nàng giang hồ, gặp nhan nhản mọi chỗ ở Corintô.

Côrintô lúc ấy, đồng nghĩa với sa đọa và thác loạn!

Tại Côrintô, Phaolô gặp một gia đình Do thái làm cùng nghề may lều bạt, chạy loạn từ Ý về. Chồng tên là Aquila và vợ là Priscilla. Ngài lưu lại tại nhà họ, và ở đó rao giảng cho tại Corintô cả hơn năm trời.

“Ông Phao-lô đến thăm hai ông bà,3 và vì cùng nghề, nên ông ở lại nhà họ và cùng làm việc: họ làm nghề dệt lều.4 Mỗi ngày sa-bát, ông thảo luận tại hội đường, cố thuyết phục cả người Do-thái lẫn người Hy-lạp.... Ông Phao-lô ở lại đó một năm rưỡi, dạy cho họ lời Thiên Chúa.” ( TđCv 18, 1-4,11)

Lúc ấy hai ông Silas và Timothê mới từ Macedonia xuống ở với Ngài .

Ngài chỉ cố rao giảng cho người Do thái, chứng minh cho họ biết rằng chính Đức Giêsu là Nagiareth là Đức Kytô, là Đấng Messia, Là Đấng Phải Đến. Nhưng hoài công. Cuôi cùng Phaolô đành chịu thua mà bo/ họ , quay sang rao giạng cho ngu=ơì ngoại. “Ông Phao-lô chỉ lo giảng, long trọng làm chứng cho người Do-thái biết rằng Đức Giê-su chính là Đấng Ki-tô.6 Bởi họ chống đối và nói lộng ngôn, nên ông giũ áo mà bảo họ: "Máu các người cứ đổ xuống trên đầu các người! Phần tôi, tôi vô can; từ nay trở đi, tôi sẽ đến với người ngoại."7 (TđCv 18 6-8)

Bực lên mà phủi bụi áo bỏ đi là nóng lắm rồi đó! Ngài còn dùng công thức: “Máu các người cứ đổ xuống trên đầu các người” nghĩa là “Thôi nhé! Thậc các ông hết thuốc chữa. Từ nay, có gì thì lo mà chịu trách nhiệm lấy. Tôi chịu thua !”

Thiên Chúa đã phải hiện ra trong giấc mơ mà an ủi Phaolô đừng nản lòng ! “Một đêm, Chúa bảo ông Phao-lô trong một thị kiến: "Đừng sợ! Cứ nói đi, đừng làm thinh,10 vì Thầy ở với anh; không ai tra tay hại anh được, vì Thầy có một dân đông đảo trong thành này." (TđCv 18 9-10)

Ngay sát vách hội đường Do thái ở Corintô, có gia đình một ngưòi La mã, tên là Titius Justus. Phaolô qua đó mà rao giảng. Ông ta và gia đình trở lại. Cả ông từ coi hội đường Do thái, tên là Cơrítpô, cũng tin theo mà trở lại.

Khi thấy số người tin theo Phaolô càng ngày càng nhiều thì người Do thái bắt đầu kiếm chuyện. Họ kiếm cách đưa Phaolô ra toà án, vu cáo là gây rối . “Thời ông Ga-li-on làm thống đốc tỉnh A-khai-a, người Do-thái nhất tề nổi dậy chống ông Phao-lô; họ đưa ông ra toà13 và nói: "Tên này xúi giục người ta tôn thờ Thiên Chúa trái với Lề Luật." ( TđCv 18, 12-13)

Nói cho ngay, người Do thái có kiếm chuyện với Phaolô thì cũng là “chuyện thường ngày ở huyện”, y hệt như Phaolô từng hằn học với các tín hữu trước khi trở lại. Đối với họ, và kể cả đối với người Do thái thời nay, các tín hữu đều là những người rối đạo, tin quấy tin quá, tin theo một điều không hề đúng với Do thái giáo. Rabbi Giêsu chỉ là một rabbi bình thường, và lạc đạo !

Khi ho đem chuyên lên toà án Lamã để kiện cáo thì quan toà, ông Gallio không lấy làm điều. Ông biết đây chỉ là chuyện tranh cãi giáo điều nội bộ của người Do thái mà thôi .

“Ông Ga-li-on đã nói với người Do-thái: "Hỡi người Do-thái, giả như có gì là trái Luật hay phạm pháp, thì lẽ đương nhiên là tôi sẽ chịu khó nghe các ông.15 Nhưng đây lại là những chuyện tranh luận về giáo thuyết, danh từ, luật lệ riêng của các ông, thì các ông hãy tự xét lấy. Phần tôi, tôi không muốn xét xử những điều ấy."16 Rồi ông đuổi họ ra khỏi toà án.” ( TđCv 18 14-16)

Thậm chí, khi người Do thái ở Corintô “giận cá chém thớt”, xông vào đánh “hội đồng” ông Sosthênê ngay trước toà án, thì “ông Ga-li-on chẳng bận tâm gì về việc này.” ( TđCv 18,17)

Sau một năm rưỡi ở tại Corintô, Phaolô ghé Cenchreae.

Cenchreae là môt thị trấn nhỏ giáp ranh với Côrintô , cách 7 cây số, và vẫn còn thuộc hành chính của Côrintô.

Tại đây có bà phó tế Phoebe mà trong thư Roma, thánh Phaolô có nhắc đến : “Tôi xin giới thiệu với anh em chị Phê-bê, người chị em của chúng tôi, là nữ trợ tá Hội Thánh Ken-khơ-rê. “ ( Rm 16,1)

Và cũng tại đây Phaolô cạo trọc đầu : “Tại Ken-khơ-rê, ông xuống tóc, vì có lời khấn.” (T đCv 18,18)

Dĩ nhiên không phải vì đầu của Phaolô có nhiều chí rận .

Việc cạo trọc đầu thưòng là dấu hiệu kết thúc một “nazarit”. Người Do thái nào có một lời khấn, hứa, hay nguyền, thì được gọi là “nazoréon”. Nhất là khi thoát được một cơn hoạn nạn lớn, người ta hay khấn nguyền giữ một điều gì đó. Xong việc người ta cạo trọc đầu, như một dấu hiệu đã giữ trọn một lời thề !

Từ đầy, phái đoàn truyền giáo đáp tàu về. Nghĩa là đi về hướng Đông, băng qua biển Êgê, về lại Giêrusalem. Trên đường về, các Ngài ghé Ephêsô, một cảng nằm trên bờ biển Tiểu Á (Thổ nhĩ kỳ)

“Từ giã các anh em và vượt biển sang miền Xy-ri 19 Khi đến Ê-phê-xô, ông Phao-lô từ biệt hai người kia (ông bà Aquilla và Priscilla). Phần ông, ông vào hội đường và thảo luận với người Do-thái.” (TđCv 18,19)

Ephêsô nằm đầu mỏm núi Koressos chỉa ra biển Egê. Đây là một thương cảng giữ việc giao lưu giữa thế giới Ramã và toàn vùng Tiểu Á . Nhưng vì khai thác gỗ quá nhiều, dùng vào việc đốt than, đất màu trên mặt bị xói mòn, chảy xuống thành bùn làm nghẹt cửa cảng, khiên cho thương mãi càng ngày càng suy sụp.

Ephêsô còn nổi tiếng với việc thờ nữ thần Artemais có lắm vú. Người Lamã gọi tên thần này là Diana. Đền thờ thần Artemais tại Ephesô được kể là một trong bảy kỳ quan của thế giới Cổ đại. Đền thờ này đứng vững cho đến năm 263 sau Công nguyên thì bị người Goths cướp phá .

Phaolô ở Ephêsô không lâu. Người ta xin Ngài ở lại, nhưng Ngài khất lần sau : “Họ xin ông ở lại lâu hơn. Ông không chịu.21 Nhưng khi từ giã họ, ông nói: "Để lần khác tôi sẽ trở lại với các ông, nếu Thiên Chúa muốn." Rồi ông xuống tàu rời Ê-phê-xô.

22 Đến Xê-da-rê, ông lên Giê-ru-sa-lem chào thăm Hội Thánh, rồi xuống An-ti-ô-khi-a. “ (TđCv 18,21-22)

Từ Ephêsô, ngài về lại Giêrusalem, “báo cáo công tác”, rồi về lại Antiokia, kết thúc chuyến đi truyền giáo lần thứ hai. Đó là khoảng năm 52.

Danh sách những nơi Ngài đã đi qua trong lần thứ hai này :

Từ Jerusalem
lên Antioch
qua Derbe
Lystra
Troas
qua Neapolis
Philippi
Amphipolis
Apollonia
Thessalonica
Berea
Athens
Corinth
Cenchreae
Ephesus
Caesarea

 

 

  Nguyễn đức Khang
Houston,2005


Mời đọc tiếp

1 2 3

Xem các bài viết khác trong Lớp Ngôn sứ , Khoá 15 GHHV Đà Lạt Việt Nam.