Babel, Tung và Hoành

1 2 3 4 5

MichelAnge


13-

“Vayomeru ish el-re'ehu havah nilbenah levenim venisrefah lisrefah !” Họ bảo nhau: Nào! Chúng ta hăy đúc gạch và lấy lửa mà nung !

Nếu chuyển ngữ thật sát, chúng ta phải dịch thành
“Vayomeru = Họ bảo,
ish = người (nói) với,
el-re’enu = người bên cạnh, hàng xóm ,
havah = Nào,
nilbehah levenim = hai từ lập lại, khó dịch sang tiếng Việt, tương đương “đúc gạch các gạch đúc”, to brick the bricks,
venisrefah lisrefah = nung lửa cháy thành ngọn.

Chi tiết “nói với người bên cạnh, với nhau” cho ta thấy con người đă ngồi xuống gần nhau, bên nhau, để bàn bạc với nhau ! Một h́nh thức hội nghị .

Chúng ta đă đến tâm điểm của thuật tŕnh; Con người sử dụng lời nói tối đa. Họ bàn bạc nhau tối đa. Liên tiếp họ ngồi lại họp bàn với nhau hai lần:

Trong thuật tŕnh chúng ta gặp hai lời kêu gọi. Lần thứ nhất con người “hè” nhau: “Havah –Nào- Come !” Đây là động từ “yahabh” ở mệnh lệnh cách, ra lệnh cho người khác, mang nghĩa “Lại đây !” Nhưng dùng cho ngôi thứ nhất, với nghĩa “Nào ! chúng ta hăy..” Nếu chuyển sang phương ngữ Hà Tĩnh, ta có thể dịch thành: “Người ni bảo người tê : Ta đúc gạch và nung gạch hè !”

Lần “hè” nhau đầu tiên này, họ rủ nhau đúc gạch, nilbehah levenim, rồi nung gạch thật già lửa, venisrefah lisrefah .

Rồi con người lại “hè” nhau một lần nữa :

4 Vayomeru havah nivneh-lanu ir umigdal verosho bashamayim vena'aseh-lanu shem pen-nafutz al-penei kol-ha'aretz.
Then they said, "Come, we will build ourselves a city, and a tower whose top will reach the heavens.
Thus we will make ourselves a name, so that we will not be scattered all over the face of the earth."
- Họ nói: "Nào! Ta hăy xây cho ḿnh một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời.
Ta phải làm cho danh ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất.
"

Như thế, con người “rủ” nhau làm ba điều :
1-Xây thành xây tháp,
2-Lưu danh thiên cổ
3-Nhắm đến một tôn giáo mới .

Chúng ta thấy đấy, ngôn ngữ trước giờ được dùng để đặt tên thú vật, đặt tên cho nhau, tranh luận với con rắn, rủ nhau ăn trái cấm, diễn tả sợ hăi, đổ lỗi cho nhau, chối tội của ḿnh, từ khước trách nhiệm, căi nhau với em, hát lên những lời trả thù ghê gớm, chúc lành và chúc dữ cho con cho cháu, bây giờ, ngôn từ được dùng để lên phương án, “hè” nhau hành động và lập chương tŕnh.

Táo bạo hơn con người nhái lại lời sáng tạo của Thiên Chúa.

Thiên Chúa phán: ” Vayomer Elokim na'aseh adam - Let us make man” (Stk 1:26) Dĩ nhiên là từ hư vô.

C̣n nhân loại thời Babel bắt chước mà nói : “vena'aseh-lanu shem
- Let us make for ourselves a name- Ta hăy làm một danh/tên cho chúng ta

Nhân loại khốn khổ mà bắt chước Lời sáng tạo. Không thể từ hư vô, nhưng chỉ sau khi đă nhọc công đúc gạch và nung gạch, từ vật liệu đă có sẵn, vay mượn từ thiên nhiên! Họ muốn lưu danh thiên cổ trong cái thành, cái tháp mà họ dựng nên từ công lao tay ḿnh,

Rơ ràng nhân loại khó mà dấu được cái ḷng tự hào, tự măn của con người qua câu nói động viên tinh thần nhau này. Mạnh miệng hơn, chúng ta có thể kết luận con người có “chút” kiêu ngạo.

 

Nhân loại khốn khổ mà bắt chước Lời sáng tạo. Không thể từ hư vô, nhưng chỉ sau khi đă nhọc công đúc gạch và nung gạch, từ vật liệu đă có sẵn, vay mượn từ thiên nhiên! Họ muốn lưu danh thiên cổ trong cái thành, cái tháp mà họ dựng nên từ công lao tay ḿnh,


14-

Không chỉ kiêu ngạo mà dường như con người c̣n âm mưu chuyện ǵ ghê gớm hơn !

Thành hay tháp là để “canh chừng”. Tiếng Do thái, “thành” là “ir”, có gốc mang nghĩa “canh chừng”. Hào lũy bao quanh và cḥi tháp cao của “Thành” trên Hà Dừa, cho ta một khái niệm thế nào là “ir”.

Con người rút lui vào sống trong “thành” hay “tháp” là mong kiếm chút an ninh. Ban đầu “thành” chưa là nơi thị tứ, chưa phải là “thành phố”. Cũng chưa phải là đền thờ phượng .

Trước Babel, Kinh Thánh đă hai lần nhắc đến thành. Sau khi giết em, Cain đă lang thang đến xứ Nod và đă xây một “thành” đểcùng gia đ́nh trú ẩn. Ông lấy tên con ḿnh, Enoch mà đặt tên cho thành đầu tiên này.

Sau đó Kinh Thánh c̣n kể ra các thành phố lớn, tám thành, do Nimrod xây dựng, mà Ninivê là một thành nổi bật. Sau này c̣n có Sodoma và Gomorah .

Khổ nỗi những thành đầu tiên của nhân loại đều ít nhiều liên quan đến trụy lạc, tội lỗi, Thành không phải là nơi tử tế để trú ngụ. Ninivê, Sodoma, Gomora là những tên thành không đáng tự hào.

Và bây giờ, Babel tiếp nối danh sách ấy.

Vươn cao sừng sững giữa đồng bằng, từ xa ai cũng thấy, dáng vẻ đồ sộ của thành tháp hẳn nói lên chút tự hào của con người. Nhờ thành và tháp, con người không c̣n lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên chung quanh nữa. Ít nhiều con người không những độc lập được với thiên nhiên, mà c̣n tránh được nhiều thiên tai . Có mái che nắng mưa, có tường thành cản gió băo, thú dữ, kẻ địch, có nơi dự trữ nước, vũ khí....

Dựa vào những điều ấy con người tưởng ḿnh rồi sẽ an toàn và trường tồn lâu dài .

Bởi thế họ mới nhắm mục đích: “Ta phải làm cho danh ta lẫy lừng”

Chúng ta không thể không nói ngay đến điều tuyệt diệu thứ hai. Đó là lần đầu tiên chúng ta bắt gặp KinhThánh miêu tả Kỹ thuật. Đổ khuôn làm gạch và nung gạch. Kỹ thuật và sử dụng lửa, rơ ràng đó là hai chià khoá cho sự tiến bộ của nhân loại.

Mà nếu chúng ta nhớ rằng nền văn minh và kỹ thuật Babylon, nghĩa là của Babel, lưu truyền lại cho chúng ta các tháp ziggurat và cách đọc tử vi dựa theo các dấu hoàng đạo - zodiac sign ! th́ câu rủ nhau xây một “tháp cao tới trời” hẳn là đă bộc lộ phần nào cái tự măn của con người .

Hẳn những công nhân xây tháp đầu tiên này c̣n mang nặng ấn tượng kinh hoàng về cuộc đại lụt , dù chỉ do tổ tiên kể lại. Đó là lần đầu tiên con người nghiệm được sức mạnh tàn phá khủng khiếp của thiên nhiên .

Tuy sau đó Thiên Chúa hứa: “Sẽ không bao giờ c̣n lụt như thế nữa !” Nhưng khi thấy những nắm xương tàn từ thây người và thú vật chết đuối vẫn c̣n la liệt khắp nơi trên mặt đất, th́ hẳn nhân loại cảm thấy kỷ niệm về biến cố ấy vẫn đậm nét và mạnh mẽ không thua lời quyết chắc của Thiên Chúa.

Không chỉ mong tránh lụt, họ muốn xây thành có đỉnh vươn tới trời, “chọc” trời

Điều ấy có nghĩa ǵ ?

Thành Babylone hiện c̣n lưu dấu những ziggurats, trong đó cái tháp nổi tiếng là Etemenanki, dành cho thần Marduk . Các tư tế Balyone c̣n lên đó để ngắm và nghiên cứu về mặt trời, mặt trăng, các tinh tú, xem xét cách vận hành của chúng, để rút ra các hệ lụy vào phần số con người. Khoa tử vi Tây phương đă bắt đầu từ đó.

Các tư tế không chỉ muốn biết ảnh hưởng tinh tú trên phận người mà phần nào, ngược lại họ cũng muốn gây ảnh hưởng trên các v́ tinh tú ấy.

Nhân loại Babel muốn ngửa mặt nh́n trời, nh́n lên, theo hướng trục tung.

Thế là chúng ta đă đụng đến trọng điểm của thuật tŕnh.

Các Bác có lưu ư rằng, từ đầu thuật tŕnh đến lúc này, nhân loại không hề nhắc đến Thiên Chúa một chút nào. Từ lúc “hè” nhau đúc gạch, nung gạch rồi lên kế hoạch xây thành xây tháp, họ làm như... không có Thiên Chúa trên đời này. Lúc hội họp bàn chuyện lớn, xây tháp cao chọc trời, họ cũng chẳng “làm dấu đọc kinh khai mạc”.

Không những trong mọi chương tŕnh của họ, không có Thiên Chúa, họ c̣n bất chấp mệnh lệnh Thiên Chúa. Mà lệnh này Ngài lập đi lập lại nhiều lần :“Hăy sinh sôi nẩy nở cho đầy mặt đất”.

Các Bác c̣n nhớ chứ ? Vào ngày thứ năm cuộc sáng tạo, Thiên Chúa ra lệnh cho các hải vật :
“20 Thiên Chúa phán: "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc,
và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới ṿm trời."
21 Thiên Chúa sáng tạo các thủy quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại,
và mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
22 Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: "Hăy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển;
và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất."23 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.
” ( Stk 1:20-23)

Khi sáng tạo con người, Ngài lập lại mệnh lệnh :
Thiên Chúa ban phúc lành cho họ,
và Thiên Chúa phán với họ: "Hăy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất,
và thống trị mặt đất. Hăy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật ḅ trên mặt đất.
"2 ( Stk 1:26-28)

Sau trận lụt, Ngài c̣n lập lại lần nữa :
Thiên Chúa ban phúc lành cho ông Nô-ê và các con ông, và Người phán với họ:
"Hăy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất.
” (Stk 9:1)

Vayomer lahem peru urevu umil'u et-ha'aretz. "Be fruitful and multiply, fill the earth

Ngài muốn nhân loại phát tán theo trục hoành, chứ không co cụm một chỗ và mang nặng tinh thần địa phương cục bộ.

Ngài đă nói mệnh lệnh này cho gia đ́nh Noe, nghĩa là cho toàn thể nhân loại lúc bấy giờ . Vậy mà chỉ khoảng trăm năm sau, nhân loại đă ...bất chấp.

 

Ngài muốn nhân loại phát tán theo trục hoành, chứ không co cụm một chỗ và mang nặng tinh thần địa phương cục bộ.


15-

Bây giờ thuật tŕnh chuyển hướng câu chuyện về phía Thiên Chúa. Và Ngài dùng chính kiểu nói của nhân loại để đối thoại với nhân loại .
Vayered HASHEM lir'ot et-ha'ir ve'et-hamigdal asher banu bnei ha'adam.
HASHEM descended to see the city and the tower that the sons of man built.
- ĐỨC CHÚA xuống xem thành và tháp con cái loài người đang xây.
6- Vayomer HASHEM hen am echad vesafah achat lechulam vezeh hachilam la'asot ve'atah lo-yibatzer mehem kol asher yazmu la'asot.
HASHEM said, "Behold, they are one people, all having one language, and this is their first undertaking. Now will nothing be unattainable for them, [to do] whatever they have a mind to do?
- ĐỨC CHÚA phán: "Đây, tất cả chúng nó họp thành một dân, nói một thứ tiếng. Chúng mới khởi công mà đă như thế th́ từ nay, chẳng có ǵ chúng định làm mà không làm được

7 Havah nerdah venavlah sham sefatam asher lo yishme'u ish sfat re'ehu.
Come, let us descend and jumble their language, that they will not understand one another's language."
- Nào! Ta xuống và làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không ai hiểu ai nữa."

Ngược lại với nỗi cao ngạo của con người muốn xây cái tháp cao mà đỉnh cao đụng trời , Kinh Thánh mỉa mai nhắc khéo Thiên Chúa phải đi “xuống” mới thấy được cái tháp chọc trời ấy.

Điều lư thú là Ngài không phạt họ. Dường như Ngài giữ lời đă hứa từ sau cơn đại lụt. Con người bàn bạc với nhau, rủ nhau : “Havah - Nào !” th́ Ngài cũng bàn bạc:“Havah- Nào !”

Ngài đă dùng chính ngôn ngữ như một h́nh phạt,- cũng là một phương tiện, - để phong phú hoá ngôn ngữ con người, khiến họ không c̣n hiểu nhau được nữa.

Từ một ngôn ngữ thống nhất, giờ đây con người có nhiều ngôn ngữ. Từ Babel, con người đâm ra “balal – hồ đồ , xáo trộn”, từ trục tung con người phải phát tán theo trục hoành, theo như mệnh lệnh ban đầu của Thiên Chúa .

Thuật tŕnh kết thúc đột ngột. Cái tháp không bị phá đổ, nhưng dở dang, như một dấu chứng rằng con người có kỹ thuật mà nếu không theo đúng mệnh lệnh Thiên Chúa – luân lư - hướng dẫn th́ kỹ thuật sẽ biến thành một mớ ḅng bong !

Mà nói cho ngay công tŕnh kỹ thuật đầu tiên ấy, v́ thiếu vắng hay không theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, th́ tự nó đă là một “hỗn độn”, thất bại. Thiên Chúa chỉ là chứng nhân cho tính tất yếu của thất bại ấy mà thôi .

Science sans conscience n’est que ruine de l’âme.

 

Nhưng khi ngôn ngữ không c̣n nhất thống, th́ sẽ có nhiều vũ trụ quan, nhiều quan điểm hơn về thế giới, về nhân loại, về vạn vật, về vũ trụ. Nghĩa là hết c̣n độc đoán, độc tôn và độc...tài.

Mà biết đâu thất bại tất yếu ấy lại là một phương thuốc hay để chữa bệnh . Ngôn ngữ phân tán, nhân loại phát tán thành nhiều quốc gia, - đồng ư ! - nhiều tiếng nói – đồng ư ! , như thế có nhiều nguy cơ chiến tranh – đồng ư !

Nhưng khi ngôn ngữ không c̣n nhất thống, th́ sẽ có nhiều vũ trụ quan, nhiều quan điểm hơn về thế giới, về nhân loại, về vạn vật, về vũ trụ. Nghĩa là hết c̣n độc đoán, độc tôn và độc...tài.

Đa ngôn ngữ đ̣i hỏi tinh thần quảng đại và chấp nhận cái khác biệt, người khác biệt, quan điểm khác biệt, như thế dạy cho con người biết tinh thần cộng tác .

Chúng ta thoáng thấy được điều ấy khi chú ư tới chi tiết thú vị này: Ban đầu Thiên Chúa là Một. Bản văn dùng số ít : “Vayered HASHEM - HASHEM descended - ĐỨC CHÚA xuống “

Nhưng khi Thiên Chúa nhận thấy nhân loại trở thành một :
“hen am echad vesafah achat lechulam
- "Behold, they are one people, all having one language
-Đây, tất cả chúng nó họp thành một dân, nói một thứ tiếng.

th́ bản văn miêu tả Thiên Chúa dùng động từ số nhiều: “Havah nerdah - Come, let us descend - Nào! [Chúng] Ta xuống !”

để cuối cùng (một) Thiên Chúa phân tán họ (số nhiều): “Vayafetz HASHEM otam - HASHEM scattered them.”

Ngày nay, nhiều thiên niên kỷ sau Babel đầu tiên, nhân loại đang có nhiều nỗ lực để thống nhất. Toán học phải chăng là một thứ ngôn ngữ thông nhất mà ai cũng hiểu ? Liên Hiệp quốc, EU, ASIAN, OPEC phải chăng là những cố gắng thống nhất quy chế, quốc gia ?

Kinh nghiệm Babel là một bài học “c̣n nhớ ”, hay “đă quên” ?

 

Nguyễn Đức Khang


Mời Đọc tiếp

1 2 3 4 5

Xem các bài viết khác trong Lớp Ngôn sứ , Khoá 15 GHHV Đà Lạt Việt Nam.