Cơn cám dỗ đầu tiên

1 2 3 4 5

MichelAnge

1-

Các Bác đừng vội liên kết đầu bài này với tựa đề một cuốn phim. Đây chỉ là những tản mạn nhân mùa Chay, đúng hơn là những tản mạn nhân bài đọc Tin Mừng Chúa nhật thứ Nhất mùa Chay, nói về Chúa Giêsu chịu cám dỗ.

Th́ cũng là cám dỗ. Nhưng ta thử bàn đến những chi tiết thú vị liên quan xa gần đến cuộc cám dỗ đầu tiên của nhân loại. Hy vọng chúng ta sẽ nhẩn nha thấy được nhiều điểm lư thú mà trước giờ, v́ chưa có dịp đọc kỹ bản văn, chúng ta vô t́nh bỏ qua.

Có cần phải ghi lại đây toàn bộ thuật tŕnh về cuộc cám dỗ và sa ngă không nhỉ ? Không phải là câu chuyện Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong ṿng bảy ngày đâu. Mà là những câu kế tiếp, Stk 2:5- 3:18. Thuật tŕnh này cổ xưa hơn đoạn đầu tiên kể chuyện tạo dựng trong ṿng bảy ngày .

Nhà cháu tin rằng các Bác đă thuộc ḷng câu chuyện. Nhưng nếu không chép lại toàn bộ, các Bác lại sẽ bỏ sót những chi tiết thú vị mà thôi. Nào mời các Bác, và các Bà, chịu khó một chút, một chút thôi nhé, đọc toàn bộ câu chuyện. Không lâu la ǵ. Chỉ mất một phút đồng hồ.

(5) Ngày ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, v́ ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai.
(6) Nhưng có một ḍng nước từ đất trào lên và tưới khắp mặt đất.
(7) ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.
(8) Rồi ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính ḿnh nặn ra.
(9) ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông th́ đẹp, ăn th́ ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác.
(10) Một con sông từ Ê-đen chảy ra tưới khu vườn, và từ đó chia thành bốn nhánh.
(11) Tên nhánh thứ nhất là Pi-sôn, nó bao quanh tất cả đất Kha-vi-la là nơi có vàng;
(12) vàng ở đất này tốt, tại đó có nhũ hương và đá ngọc.
(13) Tên nhánh thứ hai là Ghi-khôn; nhánh này bao quanh tất cả đất Cút.
(14) Tên nhánh thứ ba là Tích-ra; nhánh này chảy ở phía đông Át-sua. C̣n nhánh thứ bốn là Êu-phơ-rát.
(15) ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai.
(16) ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: "Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn;
(17) nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, th́ ngươi không được ăn, v́ ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết."
(18) ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán: "Con người ở một ḿnh th́ không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó.
(19) ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dă thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là ǵ: hễ con người gọi mỗi sinh vật là ǵ, th́ tên nó sẽ là thế.
(20) Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dă thú, nhưng con người không t́m được cho ḿnh một trợ tá tương xứng.
(21) ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào.
(22) ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đă rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.

"Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, th́ ngươi không được ăn, v́ ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết."


(23) Con người nói: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, v́ đă được rút từ đàn ông ra."
(24) Bởi thế, người đàn ông ĺa cha mẹ mà gắn bó với vợ ḿnh, và cả hai thành một xương một thịt.
(25) Con người và vợ ḿnh, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau.
3-(1)Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đă làm ra. Nó nói với người đàn bà: "Có thật Thiên Chúa bảo: "Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?
(2) Người đàn bà nói với con rắn: "Trái các cây trong vườn, th́ chúng tôi được ăn.
(3) C̣n trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đă bảo: "Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết."
(4) Rắn nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc ǵ đâu!
(5) Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác."
(6) Người đàn bà thấy trái cây đó ăn th́ ngon, trông th́ đẹp mắt, và đáng quư v́ làm cho ḿnh được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với ḿnh; ông cũng ăn.
(7) Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy ḿnh trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân.
(8) Nghe thấy tiếng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ ḿnh trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa.
(9) ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: "Ngươi ở đâu? "
(10) Con người thưa: "Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hăi v́ con trần truồng, nên con lẩn trốn."
(11) ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa hỏi: "Ai đă cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đă ăn trái cây mà Ta đă cấm ngươi ăn không? "
(12) Con người thưa: "Người đàn bà Ngài cho ở với con, đă cho con trái cây ấy, nên con ăn."
(13) ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: "Ngươi đă làm ǵ thế? " Người đàn bà thưa: "Con rắn đă lừa dối con, nên con ăn."
(14) ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán với con rắn: "Mi đă làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dă thú. Mi phải ḅ bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi.
(15) Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa ḍng giống mi và ḍng giống người ấy; ḍng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó."
(16) Với người đàn bà, Chúa phán: "Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi."
(17) Với con người, Chúa phán: "V́ ngươi đă nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đă truyền cho ngươi rằng: "Ngươi đừng ăn nó", nên đất đai bị nguyền rủa v́ ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra.
(18) Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng.
(19) Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, v́ từ đất, ngươi đă được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất."
(20) Con người đặt tên cho vợ là E-và, v́ bà là mẹ của chúng sinh.
(21) ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa làm cho con người và vợ con người những chiếc áo bằng da và mặc cho họ.
(22) ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa nói: "Này con người đă trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống măi."
(23) ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đen để cày cấy đất đai, từ đó con người đă được lấy ra.
(24) Người trục xuất con người, và ở phía đông vườn Ê-đen, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến cây trường sinh.

Con người thưa: "Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hăi v́ con trần truồng, nên con lẩn trốn."

2-

Trước khi đi tiếp, chúng ta nên đọc lại phần Dẫn nhập trong bản dịch do qúy Cha trong nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ :

Sách Sáng thế gồm hai phần rơ rệt. Phần từ chương 12 đến hết, tŕnh bày các truyền thống về thuỷ tổ của dân Ít-ra-en và giải thích sự có mặt của họ trên đất Ai-cập.

C̣n 11 chương đầu là một nỗ lực suy tư khởi đi từ kinh nghiệm tôn giáo của Ít-ra-en nhằm lư giải nguồn gốc vũ trụ và con người, nguồn gốc sự ác và ơn cứu độ. Đây là một suy tư hoàn toàn tôn giáo, vận dụng các truyền thống tôn giáo của Ít-ra-en và của các dân tộc vùng Lưỡng Hà Địa nhằm diễn tả niềm tin rằng: Thiên Chúa mà Ít-ra-en thờ là Đấng đă làm cho vũ trụ và con người xuất hiện; trong mọi loài thọ tạo, Thiên Chúa yêu thương và săn sóc con người hơn cả, dành cho con người một cuộc sống vượt trên tất cả.

Sự ác đă có mặt trong cuộc sống là do con người gây ra bởi sự từ chối vâng phục Đấng Tạo Hoá và từ chối nhau. Nhưng Thiên Chúa đă hứa giải thoát con người. Thế là lịch sử cứu độ đă bắt đầu với lịch sử loài người. Kinh nghiệm của Ít-ra-en về tội lỗi và cứu độ đă được mở ra bao trùm cả nhân loại. Điều này phản ánh ư thức của Dân Chúa về lịch sử và sứ mạng của ḿnh là làm chứng về Thiên Chúa và ơn cứu độ của Người trước mặt muôn dân, để muôn dân được biết Thiên Chúa và được cứu độ.

Điểm này là bước tiến quan trọng của mặc khải mà Dân Chúa đă nhận được chính vào thời lưu đày.”

Sau khi rào trước đón sau như thế, phải nói ngay là những chi tiết thú vị sau đây được kể lại không theo một thứ tự nào. Tản mạn mà.

Vậy th́ ta bắt đầu :

1- Lời nói dối đầu tiên là của ... ?

Chúng ta thấy theo thứ tự trước tiên Chúa lấy bùn nặn ra con người, thổi hơi vào mũi, làm cho sống (câu 7). Rồi Ngài lập một khu vườn (câu 8). Ngài đặt con người vào trong đó (câu 8).

Kế tiếp Ngài cho mọc lên mọi thứ cây “trông th́ đẹp, ăn th́ ngon”. Giữa vườn, Ngài cho mọc hai cây: “cây trường sinh , và cây cho biết điều thiện ác” (câu 9).

Chúa truyền lệnh cho con người : "Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; (17) nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, th́ ngươi không được ăn, v́ ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết." (câu 16-17)

Nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, th́ ngươi không được ăn, v́ ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết.

Sau đó Thiên Chúa mới t́m cho con người một người trợ tá bằng cách dựng nên muôn thú, để con người đặt tên, và t́m bạn (câu 18,19, 20).

Không có kết quả, Thiên Chúa cho con người ngủ say, rồi dựng nên người phụ nữ (câu 21).

Ngay sau đó, con rắn cám dỗ.

‘Nó nói với người đàn bà: "Có thật Thiên Chúa bảo: "Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?

Người đàn bà nói với con rắn: "Trái các cây trong vườn, th́ chúng tôi được ăn. (3) C̣n trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đă bảo: "Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết. "

So sánh hai câu nói, của Thiên Chúa và của người đàn bà. Chúng ta thấy có chỗ sai. Sai không phải v́ sót, nhưng v́ thêm thắt vào, v́ đặt điều.

Bà ấy thêm: “Không được đụng tới.

Chúa nào có nói thế đâu !

Ở câu thứ 4, khi con rắn nói: “Chẳng chết chóc ǵ đâu” th́ quả là con rắn nói...thật. Ít là ngay lúc đó. V́ ngay sau khi hai người ăn rồi, không có chuyện ǵ xảy ra cho bà ta hết. Bà không chết. Nên bà mới hái đưa cho chồng.

Chỉ sau khi chồng bà đă ăn, nghĩa là sau khi hai người đă cùng ăn, th́ sự cố mới xảy ra. Không phải hai người lăn đùng ra chết. Nhưng “mắt họ mở ra” .

Nghĩa là tới câu thứ 4, trong khi con rắn nói ra sự thật lúc ấy, th́ người phụ nữ đă nhắc lại sai lệnh truyền của Thiên Chúa, nghĩa là đă nói sai sự thật.

Nói sai sự thật, nếu không phải nói dối, th́ là ǵ ?

Khổ nỗi, đó lại là câu nói đầu tiên của người phụ nữ.

Nhưng chúng ta có thể nói ra một lư do để minh oan cho các Bà, kẻo rồi các Bà buồn ḷng .

Chúng ta thấy Thiên Chúa truyền lệnh cho người đàn ông. Lúc ấy người phụ nữ chưa được tạo dựng. Thế th́ sau khi người đàn bà được tạo dựng th́, dĩ nhiên, người đàn ông đă có nhắc lại lệnh truyền của Chúa cho người đàn bà biết.

Và rất có thể ông đă nhắc lệnh truyền, nhưng ông đă thêm, đại khái như: “Chúa đă cấm rồi đó, Bà nhớ đừng có đụng vào nghe chưa ! ”

Ấy là nói thế cho các Bà hài ḷng, chứ, đă không ghi lại trong Kinh Thánh th́ ta cứ mặt chữ mà suy thôi !

Mà nói cho ngay, Bà nghe lệnh Chúa qua Ông, chứ không nghe trực tiếp. Qua miệng ông, lệnh của Thiên Chúa mà Bà coi như chỉ là lời ông dặn ḍ .

Nên, cũng là lỗi luật, nhưng không nghe lời Ông xem chừng nhẹ tội hơn không vâng phục Chúa. Có lẽ cũng v́ thế cho nên sau khi Bà bất tuân mà giơ tay hái trái cây và ăn, không/chưa có ǵ xảy ra cả: chỉ không nghe lời chồng.

Con rắn hẳn cũng đủ ranh ma mà biết thế. Chả vậy mà ngay đầu chương 3, Kinh thánh nhận xét: “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng”. Nó biết Ông được tạo dựng “giống h́nh ảnh Thiên Chúa”. Nó biết không thể trực diện mà cám dỗ ông. V́ Ông được chúc phúc. Ông có đặc quyền đặt tên cho các thú vật kia mà.

Nó chỉ có thể đi đường tắt, qua ngă người đàn bà. Nó biết hễ làm cho người đàn bà ăn được trái bị cấm mà không hề hấn ǵ th́.. nó vui vẻ xoa tay chiến thắng rồi !

Nó sành tâm lư của Bà. Bà có thể lư luận rằng Chúa ra lệnh cho ông, chứ đâu có ra lệnh cho tôi! Bà không cảm thấy sức ép của lệnh cấm.

Mà dường như sự thể đúng là thế, v́ khi bà đă ăn rồi trái cây rồi, không hề có ǵ xảy ra cả. Cái khoảnh khắc bấp bênh từ lúc sau khi bà ăn đến lúc trước khi ông ăn, giá mà có chuyện ǵ xảy ra, hẳn cục diện thế giới đă đổi thay .

Ăn rồi, bà không chết, mà - rủi thay ! - mắt bà cũng chưa mở ra !

Con rắn đă chen vào và lợi dụng cái khoảnh khắc quư báu này .

Adam hẳn bắt đầu nghi ngờ hiệu lực của lời cấm. Tuy lời Thiên Chúa nghiêm cấm c̣n vang rơ trong đầu, nhưng Bà ăn rồi mà ... KHÔNG CÓ G̀ xảy ra cả ! Bà c̣n sống nhăn !

Hẳn là v́ hồ nghi lời Thiên Chúa không hiệu nghiệm nên Adam mới dễ dàng thuận t́nh nghe lời Evà mà cùng ăn !

2-

Có đến những HAI cây đặc biệt ở giữa vườn : “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông th́ đẹp, ăn th́ ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác. ” (Stk 2:9)

Cái cây mang một tên gọi đặc biệt. Không chỉ đặc biệt mà có thể gọi là lạ kỳ “cây cho Biết điều Thiện điều Ác – the Tree of Knowledge of Good and Evil – l’arbre de la Connaissance du Bien et du Mal – lignum scientiae boni et mali ”

Nghe tên thôi th́ ta có thể đoán rằng ai ăn trái của ấy sẽ biết được điều tốt điều xấu, hay có khả năng biện biệt tốt xấu.

Nếu tên cây nói lên điều ấy th́ tại sao Thiên Chúa lại cấm con người ăn trái của nó ? Chẳng lẽ “biết tốt biết xấu” là điều không tốt đẹp à ?

Nhưng bằng vào h́nh phạt hai ông bà phải gánh chịu sau khi ăn trái cây, th́ chuyện ăn trái cây là một điều chẳng tốt đẹp ǵ, chỉ mang lại toàn hậu qủa xấu. Và dường như Chúa không muốn hai ông bà biết điều tốt xấu. Có vậy mới cấm, có vậy mới phạt nặng.

Chẳng lẽ Chúa chỉ bày ra đấy để thử ḷng con người, trắc nghiệm về một điều ǵ đó. Ví dụ như

Để xem con người có tuân lệnh Ngài không ? Nếu chỉ để thử thách chuyện có vâng lời hay không, th́ việc thử thách bằng chuyện cấm ăn một trái cây có vẻ không được tự nhiên cho lắm. Tại sao lại không cấm vượt hàng rào, đi ra khỏi vườn Địa Đàng mà xem thế giới bên ngoài đó như thế nào, chẳng hạn.

Nhưng ta có thể đẩy lư luận lùi xa thêm bước nữa.

Ông bà muốn biết cái “nữa” kia của sự hiểu biết, cái XẤU, cái mà chúng ta gọi là sự DỮ, sự ÁC, mà trước giờ chưa từng biết, cái knowledge of EVIL, cái connaissance du MAL , scientia MALI ?

Ta có thể hỏi, thế th́ trước khi ăn trái cây, hai ông bà đă có biết tốt xấu chưa ?

Cái ĐẸP th́ hẳn hai ông bà biết rồi. Mọi trái cây trong vườn Eden đều “trông th́ đẹp, ăn th́ ngon”.

Không chỉ thế, mà cả điều CHÂN và THIỆN, hai ông bà đă biết v́ trước khi giơ tay hái trái ăn, “Người đàn bà thấy trái cây đó ăn th́ ngon, trông th́ đẹp mắt (MỸ), và đáng quư (THIỆN) v́ làm cho ḿnh được tinh khôn (CHÂN).”

Vậy đă biết Chân, Thiện, Mỹ th́ chuyện ăn trái cây ấy chẳng thêm ǵ mới mẻ cho hai ông bà cả.

Thế th́ sao ?

À ! Hay là hai ông bà muốn biết XẤU là ǵ ?

Ông bà muốn biết cái “nữa” kia của sự hiểu biết, cái XẤU, cái mà chúng ta gọi là sự DỮ, sự ÁC, mà trước giờ chưa từng biết, cái knowledge of EVIL, cái connaissance du MAL , scientia MALI ?

Sau mỗi ngày tạo nên vũ trụ thế giới và mọi sự trong đó, Thiên Chúa luôn luôn xoa tay mà nói: “Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp”. Trong vườn Địa Đàng, mọi sự mọi chuyện đều là tốt đẹp. Bà Evà là điều tốt đẹp. Hằng ngày dạo chơi trong vườn cùng với Thiên Chúa trong cơn gió mát ban chiều là tốt đẹp!

C̣n thế nào là “biết điều xấu” th́ hai ông bà chưa từng.

Phải chăng hái trái cây ăn là một thử nghiệm cho biết thế nào là XẤU ?

Có thể lắm .

Nhưng có điều sau khi hai ông bà ăn trái cây th́ bị phạt. Mà sự thường th́ không biết th́ không bị phạt! Vậy th́ Thiên Chúa không thể phạt hai ông bà nếu ông bà không biết rằng không vâng lời Thiên Chúa là xấu !

Như thế trước khi ăn trái cây cho biết tốt xấu, th́ hai ông bà đă biết tốt là ǵ và xấu là ǵ, rồi ! Ít ra hai ông bà đă biết rằng vâng lời Thiên Chúa khi Ngài đă có lệnh cấm không được ăn trái cây, là tốt. Và không vâng lời Ngài, là xấu.

Nhưng nếu đă thế, th́ gọi tên cây là “ cây cho biết điều Tốt điều Xấu” là vô dụng, v́ lẽ hai ông bà đă biết Tốt và Xấu. Con rắn không thể cám dỗ nhờ tính ṭ ṃ, hay do tính hiếu tri của con người được nữa !

Vậy th́ có cái ǵ đó mâu thuẫn chăng ?

Ta lại có thể tiếp tục lư luận như sau:

Hay là trước khi có cái cây - nhà cháu định viết “cái cây chết tiệt” đó. Tội lỗi ! Tội lỗi ! - trong vườn Địa đàng, th́ những khái niệm tốt xấu mang một ư nghĩa nào khác ?

Hay là như nhà cháu đă từng góp ư : Hai ông bà muốn ăn trái cây ấy, v́ hai ông bà muốn tự quyền ấn định điều nào là tốt và điều nào là xấu Tốt xấu là ǵ th́ hai ông bà biết rồi. Điều nào tốt điều nào xấu, th́ hai ông bà được cho biết như thế. Cây cho biết điều Thiện điều Ác, là cây cho khả năng ấn định điều nào là Thiện và điều nào là Ác .

Hai ông bà được dựng nên có tự do, có ư muốn và có lương tâm. Trong lương tâm ấy hai ông bà thấy có luật tự nhiên ghi sẵn điều nào tốt điều nào xấu. Ví dụ ăn cắp là xấu, giết người là xấu ...

Hai ông bà muốn có quyền lập pháp. Con rắn khéo léo thay đổi cách hành văn: “sẽ nên như các vị thần”. Ư nó muốn nói nên như các nhà dân biểu trong hạ nghị viện đang làm ra luật .

Mà nói cho ngay, con cháu hai ông bà qua bao đời vẫn hoài làm cách mạng để dành cái quyền lập pháp ấy. Lấy chỉ một ví dụ : Người ta la to: Pro choice ! Giết thai nhi không phải là tội ! đó là quyền của người mẹ !

Hai ông bà muốn ăn trái cây ấy, v́ hai ông bà muốn tự quyền ấn định điều nào là tốt và điều nào là xấu ?

3-

Cây trường sinh

Bây giờ trở lại giữa vườn, chúng ta thấy c̣n một cây khác: “Cây trường sinh - with the tree of life in the middle of the garden - et l'arbre de vie au milieu du jardin, -lignum etiam vitae in medio paradisi”

Thú thật với các Bác, từ nhỏ học giáo lư cho đến ngày nay, nhà cháu ít để ư đến cái cây này. Tuy nó nằm ngay ở giữa vườn và... chưa có ai đụng tới !

Điều thú vị là khi đuổi Adong Evà ra khỏi vườn, Thiên Chúa mới nêu cây trường sinh này ra như một lư do: “Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống măi, ” chứ trước đó, Thiên Chúa không hề cấm Adong ăn trái cây trường sinh này, phải không? Các Bác đọc kỹ lại thuật tŕnh mà xem.

Nhưng càng kỳ lạ hơn nữa là, nếu sau khi con người ăn trái cấm , Thiên Chúa sợ loài người “sống măi”, sống trường thọ, th́ tại sao trước kia, Ngài không ra lệnh cấm ăn trái cây này, như Ngài từng cấm ăn trái “cây cho biết điều Thiện điều Ác” ?

ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông th́ đẹp, ăn th́ ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác. ”( câu 9)

Cứ theo mạch văn, và xét theo cả cách ngắt câu của bản dịch, th́ chỉ có “cây trường sinh” là nằm “giữa vườn”, c̣n “cây cho biết điều Thiện điều Ác” nằm ở đâu trong vườn th́ thuật tŕnh không xác định.

Cây th́ nằm ngay giữa vườn. Thiên Chúa không nói ǵ với Adong về cây này. Con rắn cũng chẳng cám dỗ để ăn trái của cây này, th́ chúng ta bâng khuâng tự hỏi không biết Adong Eva có biết là có cây này không nữa ?

Thêm một chi tiết khiến chúng ta do dự là, không biết con người có lẫn lộn giữa hai cây không ?

Khi tuần tự nh́n lại diễn biến các sự kiện , chúng ta thấy : Thiên Chúa cho “mọc lên đủ mọi thứ cây trông th́ đẹp, ăn th́ ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác.

Vậy là hai cây. Rơ ràng. Và cây trường sinh là cây ở giữa vườn.

Thiên Chúa chỉ cấm ăn trái cây “cho biết điều Thiện điều Ác. ” Chúa nói : “Nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, th́ ngươi không được ăn.”

Con rắn bâng quơ hỏi: “"Có thật Thiên Chúa bảo: "Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?

Bà Evà trả lời: “Trái các cây trong vườn, th́ chúng tôi được ăn. C̣n trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đă bảo: "Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết."

Này bà Eva ơi, bà có nói lộn không đấy ? Cây ở giữa vườn là “cây trường sinh” mà. Chúa cấm là cấm ăn trái “cây cho biết điều thiện điều ác” cơ !

Phải chăng đă có một sự lầm lẫn chết người?

Lại cũng cần ghi nhận rằng trong phần đối thoại này, bà chỉ nêu ra vị trícủa cây, mà không nêu tên của nó: “trái của cây ở giữa vườn” (c. 3). C̣n con rắn th́ nói: “Nếu ông bà ăn trái đó, ông bà sẽ “biết điều tốt và điều xấu.” Nghĩa là con rắn cũng không nêu ra tên của cây, nhưng lại vạch ra hiệu quả của nó.

Thêm một câu hỏi đặt ra là, nếu Thiên Chúa không có lệnh rơ ràng cấm ăn trái cây trường sinh, th́ liệu Thiên Chúa có muốn con người ăn nó hay không ?

Không nói ǵ hết về cái cây. Mà cũng chẳng cấm ăn trái, lại để nó mọc giữa vườn, th́ chúng ta có quyền rụt rè đưa ra kết luận rằng : Thiên Chúa, cách nào đó, quả t́nh muốn cho con người thưởng thức trái cây trường sinh.

Biết đâu, Ngài cố ư im lặng để con người, lúc nào đó vẩn vơ dạo chơi khắp vườn và thử nếm hết mọi trái cây, th́ hẳn con người đă ăn được trái cây trường sinh này rồi !

Nhưng đó là t́nh h́nh trước kia. Sau “sự cố - accident” th́ mọi chuyện khác hẳn. Xin các Bác hiểu chữ “acciden” theo nguyên ngữ la tinh dùm cho nhà cháu, accident do động từ : “accido, accidit , accidi, accessus sum, accidere” - xảy ra” .

Sau khi “sự kiện xảy ra – accident” th́ mọi chuyện đổi thay. Thiên Chúa xếp đặt mọi chuyện sao cho con người không thể ăn trái cây trường sinh được nữa: Con người bị đuổi ra khỏi vườn, và Thiên Chúa đặt hai thiên thần làm “nhân viên an ninh khu vực” – “thần hộ giá” cầm gươm sáng mà “canh giữ đường đến cây trường sinh” để con người khỏi có thể trở lại mà ăn trái của cây.

Lại thêm một điều lấn cấn khác mời các Bác suy nghĩ giùm :

Này bà Eva ơi, bà có nói lộn không đấy ? Cây ở giữa vườn là “cây trường sinh” mà. Chúa cấm là cấm ăn trái “cây cho biết điều thiện điều ác” cơ !

Trước khi hai ông bà ăn trái cấm th́ hai ông bà bất tử, hay là đă mang phận chết trong ḿnh rồi ?

Tại sao nhà cháu lại lẩn thẩn hỏi thế: Là v́ khi ra lệnh cấm, Thiên Chúa cho biết: “ngày nào ngươi ăn , chắc chắn ngươi sẽ phải chết”. Câu lệnh không cho biết là ăn trái cây th́ chết ngay lập tức. Chỉ là “sẽ phải chết” , nghĩa là trở thành phải chết.

Vậy là trước khi ăn và nếu không ăn, th́ con người không phải chết ?

Tưởng là vậy, nhưng không phải vậy !

V́ sau này, khi đuổi hai ông bà ra khỏi vườn, Thiên Chúa nói “đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống măi.” Nghĩa là trước giờ, hai ông bà đă mang phận phải chết rồi.

Dường như hai cây đối nghịch nhau, hay là hiệu quả của chúng triệt tiêu lẫn nhau !

Ngoại trừ trường hợp: con người vốn trường sinh, ăn trái cây cấm, th́ phận người trở thành phải chết. Nếu ăn được trái cây trường sinh, th́ sẽ được trường sinh trở lại !


Mời Đọc tiếp

1 2 3 4 5

Xem các bài viết khác trong Lớp Ngôn sứ , Khoá 15 GHHV Đà Lạt Việt Nam.