Mạc Như Thụ Nhân

1 2 3 4 5 6 7 8

MichelAnge

  1-

“Mạc như thụ nhân” Đầu đề viết thế cho oai. Mượn chữ của Quản Trọng . Quản Trọng, 管仲 Ông là một chính trị gia thời “Xuân Thu”, mất năm 645 trước Công Nguyên. Tên cha mẹ đặt cho là Di Ngô (夷吾). Trọng là tên hiệu. Ông được Bảo Thúc Nha tiến cử. Ông đưa ra câu trên để tổng lược kế sách của ḿnh. Tề Hoàn Công tin dùng, phong ông làm Tể tướng năm 685 trước Công Nguyên.

Nguyên văn câu nói:


“Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc;
“Thập niên chi kế mạc như thụ mộc;
“Bách niên chi kế mạc như thụ nhân”

(Kế một năm không ǵ bằng trồng lúa;
Kế mười năm không ǵ bằng trồng cây;
Kế trăm năm không ǵ bằng trồng người)

Khi đọc tiếp những đoạn Kinh Thánh sau biến cố “Babel tung hoành”, nhà cháu nh́n lại đời ông Abraham, thấy sao mà có điều tương hợp thú vị .

Thoạt đầu định đặt tên “Người thụ giáo đầu tiên”, cho hợp với loạt bài “Cơn cám dỗ đầu tiên” , “Vụ án mạng đầu tiên”. Đó là nh́n từ khía cạnh Abraham-người-học-tṛ. Nhưng nếu nh́n từ cách hành xử của Yahweh-Đại-Sư-Phụ, chúng ta thấy rơ Ngài nhọc ḷng chuẩn bị kế hoạch trăm năm nơi cá nhân Abraham.

2-

Abraham là ai ?

Cả ba tôn giáo lớn, Do thái giáo, Kytô giáo và Hồi giáo đều tin rằng đức tin của ḿnh bắt nguồn từ mạc khải Thiên Chúa đă tỏ ra cho Abraham, nhưng ba đức tin ấy lại khác nhau v́ ư nghĩa của Mạc khải ấy, nghĩa là tuỳ thuộc vào cách chú giải Kinh Thánh .

Chẳng hạn người Do thái Samaritanô cho rằng Abraham hỏa tế Isaac trên núi Garizim, người Do thái truyền thống lại cho rằng cuộc tế hiến xảy ra trên núi Moriah. Người Hồi giáo nói không phải Isaac, mà chính người con đầu của Abaraham, là Ishmael, mới bị tế hiến. C̣n truyền thống Kytô giáo lại coi cuộc tế hiến Isaac, là khuôn mẫu, và h́nh bóng của việc Đức Giêsu tự hiến tế trên đồi Golgotha sau này .

Như thế vấn đề quả là lớn . Thế nào là chú giải Kinh Thánh ? Nội dung mạc khải cho Abraham là ǵ ? Nếu từ một bản văn mà có nhiều cách chú giải khác nhau, vậy phải chăng có yếu tố chủ quan ảnh hưởng trong đó ?

Chú giải không chỉ là thuần túy suy luận, mà c̣n mang nặng phần hiện sinh. Việc tiếp xúc với bản văn và kinh nghiệm cá nhân không phải là hai lănh vực độc lập. Cả hai ảnh hưởng và soi sáng lẫn nhau. Một biến cố hiện đại có thể giúp đọc và hiểu bản văn cổ qua một ư nghĩa mới. Mỗi thế hệ đọc và hiểu bản văn một cách khác nhau. Thậm chí từng cá nhân, tuỳ theo thời điểm, cũng đọc và hiểu bản văn cách khác nhau .

 

Chú giải không chỉ là thuần túy suy luận, mà c̣n mang nặng phần hiện sinh. Việc tiếp xúc với bản văn và kinh nghiệm cá nhân không phải là hai lănh vực độc lập. Cả hai ảnh hưởng và soi sáng lẫn nhau.


Mới đây, ông Bruce Feiler, để viết cuốn sách hiện đang nổi tiếng và bán chạy mang đề tựa “ABRAHAM: A Journey to the Heart of Three Faiths”, ông Bruce Feiler đă tự ḿnh theo dấu chỉ dẫn của Kinh Thánh mà rong ruổi trên 10 ngàn dậm đường qua ba châu lục, năm quốc gia, và vượt bốn vùng giao tranh, để đi lại những chặng đường mà tổ phụ Abraham từng đặt chân đến .

Feiler tóm tắt trong một cuộc phỏng vấn:

Ngay từ khởi đầu, Thiên Chúa dựng nên thế gian và t́m kiếm một con người làm cộng sự viên. Ngài dựng nên Ađam và Eva. Nhưng Ađam chọn Eva hơn chọn Thiên Chúa. Chương tŕnh không thành. Thiên Chúa quay mặt khỏi họ. Trải qua mười thế hệ, rồi Thiên Chúa gọi Noe. Ông đóng tàu, cứu mọi thú vật. Nhưng lại sinh tật be bét rượu chè. Noe đă chọn rượu thay Thiên Chúa.”

Dĩ nhiên Thiên Chúa không thể gắn bó măi với một anh chàng nghiện rượu .

“Trải qua thêm mười thế hệ nữa. Thiên Chúa hẳn t́m ra cách để kiếm cho được một người biết cần đến Ngài, biết chọn Ngài hơn bất cứ điều ǵ khác. Ngài chọn Abraham . Tại sao Abraham lại cần đến Thiên Chúa ?

Ông đă cao niên, 75 tuổi đời mà vẫn chưa có con, sống trong thành Ur của người Chaldées. Vợ là Sarah không những đă già mà c̣n hiếm muộn . Dù giỏi xoay xở hay trăn trở, hai ông bà vẫn khô héo như sa mạc trung đông, không thể sáng tạo.

Thiên Chúa gọi Abraham, đưa ra một giao kèo. Ông nhận lời . Abraham cần Thiên Chúa, mà Thiên Chúa cũng cần đến Abraham .

Như thế , với Sáng thế kư chương 12 , nhân loại bắt đầu đi vào một kỷ nguyên sáng tạo mới. Sáng tạo ra một giao ước mà, một khi đă kư kết, suốt ḍng lịch sử nhân loại, giao ước ấy không thể tháo gỡ ."

3-

Những con số

Thuật tŕnh về tháp Babel kết thúc 11 chương đầu sách Sáng Thế Kư. Các nhà chú giải cho rằng 11 chương đầu này thuộc một thể văn đặc biệt.

Sang đến chương 12 , chúng ta đă đi vào thời tạm gọi là lịch sử, v́ các nhân vật đă có tên tuổi với ít nhiều nhiều thông tin chi tiết hơn .

Bắt đầu câu chuyện về Abraham, Kinh thánh đề cập ngay đến biến cố Thiên Chúa kêu gọi Abraham:

12:1 Vayomer HASHEM el-Avram Lech Lecha me'artzecha umimoladetecha umibeit avicha el-ha'aretz asher ar'eka.
HASHEM said to Avram, "Go from your land, from your birthplace, and from your father's house, [and go] to the land that I will show you.
ĐỨC CHÚA phán với ông Áp-ram: "Hăy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi.

Nhưng dựa vào Kinh Thánh từ chương 11 câu 26 chúng ta biết được chút ít về thân thế và ḍng họ của ông .

Thay v́ bắt các Bác đọc lại toàn bộ câu chuyện đời ông, nhà cháu chỉ tóm tắt ghi lại đây những nét chính, giúp cho những tản mạn của chúng ta không lạc đề quá xa .

 

Với Sáng thế kư chương 12 , nhân loại bắt đầu đi vào một kỷ nguyên sáng tạo mới. Sáng tạo ra một giao ước, một khi đă kư kết, suốt ḍng lịch sử nhân loại, giao ước ấy không thể tháo gỡ


Khoảng năm 2166 trước CN, Abram sinh ra tại thành “Ur của người Chaldeas” ( thuộc miền nam Iraq ngày nay), cưới Sarai rồi dời cư đến Haran (phiá Bắc Iraq, trên bờ sông Euphrates ) với người cháu gọi ḿnh bằng chú, là Lot, và với người bố tên là Terah. Terah chết tại Haran (Stk 11: 26 tt).

Đó là thời khoảng 75 năm đầu tiên cuộc đời Abram .

Chừng năm 2091 TCN, Abram bỏ xứ Haran xuống vùng Canaan theo lệnh của Thiên Chúa.

Trong ṿng mười năm kế tiếp, từ lúc tuổi 75 đến lúc tuổi 85, ông đi sâu măi xuống tận vùng trung thổ xứ Canaan là Shechem, và được Thiên Chúa hứa ban cho ông miền đất này. Từ nơi này, ông đi đến Bethel, dựng tại đây một bàn thờ thứ hai.

Nạn đói khiến ông phải mang gia đ́nh sang Ai Cập. Ông đánh lừa Pharaon, bằng cách cho rằng Sarai, vợ ḿnh, chỉ là em gái. V́ thế ông trở nên giầu có. Khi biết rơ thực hư, Pharaon đuổi ông đi (Stk chương 12). Abram trở lại đất Canaan qua ngă sa mạc Negev. Đến Bethel, Abram và Lot chia tay nhau. Lot đem bầu đoàn thê tử và súc vật đi về phía thung lũng Giodan c̣n Abram ở lại miền cao nguyên.

Sau khi chia tay với Lot, Thiên Chúa lập lại lời hứa ban đất đai vùng ấy cho ông, và Abram dời cư đến Hebron. Ông lập bàn thờ thứ ba tại đây (Stk chương 13).

Khi đến Sodon , ông Lot bị nhóm “tứ nhân bang” đánh chiếm của cải đất đai và bị bắt. Abaram huy động gia đinh và những láng giềng hàng xóm giải cứu cho Lot . Khi trở về, ông gặp Melchizedek, vua ở Salem. Ông này chúc phúc cho Abaram nhân danh Thượng Đế Tối Cao. Abram nhận lời chúc phúc và cúng nộp cho Melchizedek một phần mười chiến lợi phẩm .

Sau đó Vua Sodom đến thăm xă giao Abram, nhưng Abram không nhận một tài vật nào của vua Sodom ( Stk chương 14).

Qua một nghi thức kư giao ước long trọng, Thiên Chúa trấn an Abram rằng những lời Ngài đă hứa th́ sẽ được thực thi trọn vẹn (Stk chương 15).

4-

Khoảng năm 2081 TCN, lúc chừng 85, 86 tuổi, theo “nhă ư” của bà xă Sarai, Abram cưới cô Hagar, nô t́ của bà . Hagar có thai, c̣n bà Sarai lại đâm ra ghen tức. Trong lúc chạy trốn khỏi cơn “tam bành lục tặc” của bà chủ Sarai, Hagar gặp một sứ thần Thiên Chúa tại một giếng nước trong sa mạc. Vị này khuyên bà trở về lại và hứa rằng bà sẽ có con, đặt tên cho nó là Ismael. Nó sẽ là cha của một dân tộc (Stk chương 16).

Khoảng năm 2080 TCN, Ishmael ra đời lúc Abram được 86 tuổi . Kinh thánh không cho ta biết thêm một chi tiết ǵ về cuộc đời của Abram trong 13 năm kế tiếp sau khi Ismael ra đời. Khi ông Abram được 99 tuổi , Thiên Chúa ban cho ông giao ước Cắt B́ và cải danh ông từ Abram (ông bố được ca tụng) thành tên Abraham (người Cha của muôn dân). Từ lúc ấy, bà Sarai c̣n được biết dưới tên Sarah và sẽ sinh cho ông một người con trai và một người nối dơi (Stk chương 17).

Khoảng năm 2067 TCN, Hai thành Sodom và Gomorrah bị tiêu hủy . Vào năm ông được 100 tuổi, hai thiên sứ tới gặp Abraham và báo cho ông biết rằng sang năm bà Sarah sẽ sinh con. Hai vị cũng cho ông biết rằng thành Sodom và những thành khác trong đồng bằng sẽ bị trừng phạt v́ tội lỗi của họ. Abraham đứng ra biện hộ cho Sodom. Thiên Chúa hứa sẽ tha cho thành nếu có kiếm ra được mười người công chính trong thành (Stk chương 18). Hai thiên sứ ghé vào Sodom, được Lot đón tiếp vào nhà ngủ trọ. Trong đêm, dân thành Sodom kéo tới đ̣i Lot phải giao nộp hai vị khách trọ cho họ. Hai vị thiên sứ khiến họ mù mắt và đem Lot, vợ ông và hai con gái ra khỏi thành kịp lúc trước khi Thiên Chúa giáng họa phá huỷ thành. Lot là người công chính duy nhất trong thành (Stk chương 19).

Sau đó Abraham dời cư tới lănh địa của Abimelek, vua miền Gerar. Một lần nữa ông lại nói Sarah là em gái ḿnh. Abimelek chiếm Sarah làm vợ. Nhưng một giấc mộng đă cứu ông khỏi tội ngoại t́nh. Abimelek phiền trách Abraham v́ điều lấp liếm này. Sau khi nghe Abraham giải thích, Abimelek cho Abraham nhiều vàng bạc, của cải và súc vật , rồi trả Sarah về lại với ông (Stk chương 20) .

Khoảng năm 2066 TCN, Isaac sinh ra. Sau khi Isaac sinh ra, bà Sarah đuổi hai mẹ con Hagar và Ishmael đi cho khuất mắt. Thiên Chúa cho Abraham biết Ngài sẽ lo liệu cho hai mẹ con nàng và sẽ làm cho Ismael trở thành một dân tộc hùng mạnh.

Sau đó Abimelech gặp Abraham để giải quyết tranh chấp về một cái giếng mà người của Abimelek đă lấn chiếm. Hai bên đi đến một thoả thuận (Stk chương 21).

Đến thời điểm này Thiên Chúa thử thách Abraham bằng cách ra lệnh cho Abraham thiêu sinh con ḿnh trên núi Moriah . Abraham vâng lời . Chỉ đến giấy lát cuối cùng, Thiên Chúa mới can thiệp và thế mạng Isaac bằng một lễ vật khác của chính ḿnh. Đáp lại ḷng vâng phục của Abraham, Thiên Chúa lập lại lời giao ước: Abraham sẽ con đàn cháu đống vô số kể (Stk chương 22).

Tất cả những điều này xảy ra trong khoảng Abraham tuổi 100 đến tuổi 137.

Khoảng năm 2029 TCN , bà Sarah qua đời ở lứa tuổi 127. Abraham mua một mảnh đất làm mộ phần cho gia đ́nh từ nhà Ephron người Hittite (Stk chương 24).

V́ không muốn con ḿnh lấy gái địa phương xứ Canaan, Abraham, lúc ấy chừng 140 tuổi, sai một trong các thuộc hạ thân tín của ḿnh về lại cố quận kiếm vợ cho con. Thiên Chúa an bài để gia nhân gặp được Rebecca, con gái của Bethuel, con của Milcah. Bà Milcah lại là vợ của Nabor, anh của Abraham (Stk chương 24).

Khoảng năm 2026 TCN Isaac cưới Rebekah . Sau đó vài năm Abraham lấy thêm bà vợ khác, Keturah. Bà này sinh được sáu người con : Zimran, Jokshan, Medan, Midian, Ishbak và Dedan (Stk chương 25).

Đến khoảng 2006 TCN , Isaac có thêm hai cháu Jacob và Esau 160-175

Và cuối cùng, vào khoảng 1991 TCN, Abraham qua đời lúc được 175 tuổi và được chôn tại mộ phần của gia đ́nh là hang Machpelah (Stk chương 25).

 

Người Ai cập thấy bà đẹp mà nói rằng bà ấy là vợ tôi. Họ sẽ giết tôi mà để cho bà sống (ḥng chiếm lấy bà)


Những biến cố trong đời con người ngoại hạng tổ phụ Abraham th́ nhiều vô kể . Rất nhiều điều có thể làm đề tài nghiên cứu và suy luận, nhưng ở đây, nhà cháu chỉ tản mạn hầu chuyện các Bà và các Bác hai biến cố gây.... bực ḿnh trong đời Ngài tổ phụ đáng kính Abraham mà thôi .

Đó là Abraham hèn nhát không dám coi Sarah là “vợ” ḿnh, mà né tránh gọi Sarah là “em gái”. Không phải một lần. Mà là hai lần. Một lần để đối phó với Pharaon. Và lần kia với Abimelek . Kinh Thánh đă ghi rơ Abraham nêu lên lư do: “Người Ai cập thấy bà đẹp mà nói rằng bà ấy là vợ tôi. Họ sẽ giết tôi mà để cho bà sống (ḥng chiếm lấy bà) - “vehargu oti ve'otach “ They will kill me and let you live” ( Stk 12:12) Này, các bà thử nghĩ coi, giả như có Bác SB nào dám coi nhẹ t́nh yêu và hạnh phúc gia đ́nh như thế, các Bà sẽ phản ứng ra sao ? Khi bác trai mà nói thế với ḿnh, các Bà có nổi cơn “tam bành lục tặc” lên không ?

Băo sẽ nổi lên ngay và sẽ là băo cấp 14 hay 15.

Tại sao Abraham lại hành xử như thế ?

5-

Tại sao Abraham có thái độ thiếu quân tử và coi thường hạnh phúc gia đ́nh như thế ?

Nhà cháu đă tự hỏi câu này, và cũng đang ấm ức t́m “cho ra ngô ra khoai”, để ít là lấy lại phong độ cho “anh em nhà Sao Biển” đây .

Để biện minh - hay là “hiểu”, “thông cảm”- cho hành vi của Abraham, ít ra chúng ta phải biết chút ít về gia cảnh và con người của ông .

Chúng ta hăy trở lại những câu cuối của chương 11 : 24-32.

“24 Khi ông Na-kho được hai mươi chín tuổi, th́ sinh ra Te-ra.25 Sau khi sinh Te-ra, ông Na-kho sống một trăm mười chín năm và sinh ra con trai con gái. 26 Khi ông Te-ra được bảy mươi tuổi, th́ sinh ra Áp-ram, Na-kho và Ha-ran.

27 Đây là gia đ́nh ông Te-ra: Ông Te-ra sinh ra Áp-ram, Na-kho và Ha-ran. Ha-ran sinh ra Lót. 28 Ha-ran chết trước mặt cha ḿnh là Te-ra, tại thành Ua của người Can-đê, quê hương ông. 29 Ông Áp-ram và ông Na-kho lấy vợ; vợ ông Áp-ram tên là Xa-rai, vợ ông Na-kho tên là Min-ca, con gái ông Ha-ran; ông này là cha của bà Min-ca và bà Gít-ca. 30 Bà Xa-rai hiếm hoi, không có con.

31 Ông Te-ra đem theo con trai là Áp-ram, cháu nội là Lót, con ông Ha-ran, con dâu là Xa-rai, vợ ông Áp-ram, con của ông; họ cùng với ông ra khỏi Ua của người Can-đê, để đi tới đất Ca-na-an. Họ đến Kha-ran và ở lại đó.

32 Ông Te-ra sống được hai trăm lẻ năm năm, rồi qua đời tại Kha-ran.”

(Stk 11:24-32)

Bố Terah

Đọc lại đoạn Kinh Thánh trên, chúng ta thấy Terah là hậu duệ đời thứ chín của Noe, là con của Shem, người con tốt lành nhất, đạo đức nhất của Noe. Shem đă che thân thể loă lồ của bố Noe mà không dám nh́n (Stk 9:23).

Terah có con hơi muộn. Các tổ phụ ḍng tộc ông đều có con sớm. Không ai đợi đến trên 35 tuổi mới có con. Riêng ḿnh Terah măi đến 70 tuổi mới sinh Abram. Terah chứng kiến cái chết của người con út, là Haran, bố của Lot.

Sau đó , Terah đem con trai là Abram, cháu là Lot và Sarai, vợ ḿnh, rời quê hương là thành “Ur của người Chaldees” (c̣n gọi là Babylonia) nhắm hướng Canaan mà đi .

Chúng ta không biết được lư do tại sao Terah rời quê. Nhưng trước khi Abram được lệnh tới Canaan th́ bố ông đă muốn mang ông đến đó rồi : “Ông Te-ra đem theo con trai là Áp-ram, cháu nội là Lót, con ông Ha-ran, con dâu là Xa-rai, vợ ông Áp-ram, con của ông; họ cùng với ông ra khỏi Ua của người Can-đê, để đi tới đất Ca-na-an. Họ đến Kha-ran và ở lại đó.” (Stk 11:31)

Quê nhà của Terah là vùng hạ lưu châu thổ Lưỡng Hà. Lúc ấy dân chúng vùng này đang muốn t́m học cho biết cách vận chuyển các tinh tú, để dựa vào đó mà đoán ra vận mệnh nổi trôi từng phận người. Đó là vùng đất của Thiên văn học và Tử vi Lư số. Hơn thế Tử vi c̣n đóng vai tṛ tôn giáo của vùng này. Dân chúng chốn này thờ Mặt Trăng.

Tuy Terah nhận thấy đă có điều không ổn trong việc thờ phụng Bầu Trời và các Tinh tú trên đó, nhưng ông chưa hay không đi tới cùng. Ông chỉ dừng lại tại Haran .

Abram kiên cường

Ngược lại, người con Abram của ông kiên cường hơn, mang tên với nghĩa “ông bố đáng khen”. Tuy thấy bố Terah đă lớn tuổi, ông chẳng can mà cũng chẳng ngại dời cư theo bố ḿnh . Và rồi dù ông chú Nahor có bám trụ Haran và định cư luôn tại đó, Abram vẫn tỏ ḷng hiếu bằng cách tiếp nối ư định ban đầu của bố Terah là tiếp tục dời cư xuống đến miền Canaan, tận dưới miền Nam xa xôi.

Lúc bắt đầu lên đường, Abram đă có bà Sara làm vợ : “Ông Áp-ram và ông Na-kho lấy vợ; vợ ông Áp-ram tên là Xa-rai, vợ ông Na-kho tên là Min-ca, con gái ông Ha-ran; ông này là cha của bà Min-ca và bà Gít-ca.30 Bà Xa-rai hiếm hoi, không có con." ( Stk 11:29-30)

Như thế chú Nahor của Abram lấy cháu gái ḿnh là Minca, con của Haran. C̣n họ hàng của bà Sarai như thế nào th́ chúng ta không được biết. Chúng ta chỉ biết bà hiếm muộn, không con . Sau này, qua chính miệng Abram nói ra, chúng ta c̣n biết bà “rất đẹp”. : “Người Ai cập thấy bà đẹp mà nói rằng bà ấy là vợ tôi. Họ sẽ giết tôi mà để cho bà sống.” ( Stk 12:12).

Như thế, qua những thông tin ngắn ngủi từ Kinh Thánh cho đến lúc này, chúng ta thấy Abram là một người “tam vô”:
1-không con nối dơi,
2-không nguồn gốc lai lịch,
3-không nhà không cửa, và biết đâu, nếu mạnh miệng, chúng ta có thể kết luận là Abram
4-vô tôn giáo, theo nghĩa chưa có vị Thần Linh rơ rệt nào để thờ .

Abram là con của một người lang thang, suốt đời đi t́m kiếm, suốt đời vượt qua nhiều chặng đường, vượt qua nhiều rào cản. Rào cản tự nhiên như biên giới các thị quốc, nằm dọc suốt tây ngạn sông Euprates, từ Ur lên đến Haran, rồi từ Haran xuống đến Canaan. Rào cản thiêng liêng như bao niềm tin, tôn giáo, và biết bao vị thần linh bằng đất nung, nhỏ bằng nắm tay, của các thị quốc địa phương ấy.

Mà không chỉ “vượt qua”, ông c̣n “vượt quá ” các quan niệm thấp kém của đám con cháu những người từng huà nhau xây tháp Babel hùng vĩ nhưng bất thành trước kia.

Ông rời bỏ họ, và các quan niệm bất toàn về thần linh của họ sau lưng, để tiếp tục kiếm t́m cho ḿnh một cội nguồn, một vùng đất định cư, một đoàn hậu duệ, và có lẽ một điều ǵ cao cả hơn, một Vị Thần Linh tối thượng, chẳng hạn.

Nguyên chi tiết bỏ quê hương để lên đường, đă cho chúng ta thoáng thấy hai bố con Terah Abram đă có viễn kiến hay ấp ủ một hoài băo ǵ to lớn hơn thường, hay ít ra họ đang khao khát một điều ǵ mà một đời b́nh lặng tại một khung cảnh cũ đầy “đất lề quê thói” giữa luỹ tre kia không thể thoả măn .

 

Ông rời bỏ họ, và các quan niệm bất toàn về thần linh của họ sau lưng, để tiếp tục kiếm t́m cho ḿnh một cội nguồn, một vùng đất định cư, một đoàn hậu duệ, và có lẽ một điều ǵ cao cả hơn, một Vị Thần Linh tối thượng, chẳng hạn.


6-

Tại Ur và suốt dọc đường dời cư lên Haran, Abram hẳn đă chứng kiến và biết mỗi thị quốc đă thờ phụng biết bao là vị thần.

Truyền thống Do thái c̣n lưu lại câu chuyện kể rằng nghề nhà ông Terah là buôn bán các tượng thần mà người địa phương thờ cúng. Khi thương mại đă dính dáng tới tôn giáo th́ dĩ nhiên càng có nhiều thần được thờ th́ thương vụ của gia đ́nh càng phát đạt. Nhiều thần với nhiều mẫu mă nhiều kiểu dáng. Tha hồ cho người sùng đạo chọn lựa. Cái cảnh la liệt các vị thần trong sạp buôn của gia đ́nh hẳn cũng giúp nhiều cho Abram ngộ ra chân lư. Một hôm Abram đập vỡ hết các h́nh tượng, chỉ để lại một tượng thần lớn nhất với một cái búa trong tay. Phải có một vị Thần lớn nhất, cao cả nhất, uy quyền nhất, cai trị đám thần lau nhau kia . Câu chuyện phản ảnh được phần nào cái tâm tư mà người ta muốn gán cho, hay muốn t́m thấy nơi Abraham, để lư giải cho lời kêu gọi Thiên Chúa dành cho ông .

Nếu ông không thật sự đập nát các tượng thần con con trong nhà của bố Terah, th́ dọc đường dời cư, hẳn ông cũng nhận ra cái vô lư của sự kiện mỗi một thị quốc mà thờ lạy vô số các vị thần.

Chân lư, đối với ông, có lẽ phải là vô số các thị quốc chỉ phải thờ MỘT vị Thần duy nhất mà thôi.

Ấy là một lẽ.

Một chi tiết thú vị khác chúng ta không nên bỏ sót. Đó là sự kiện bà Sarah đẹp.

Đẹp mà không có con. Không có con, nhưng đẹp.

Nhà cháu cố ư nhấn mạnh cả hai khía cạnh. Cả hai yếu tố ấy đều quan trọng đối với Abram.

Nhưng quan trọng hơn nữa là, các Bác có bao giờ nghĩ rằng, với bà vợ tuy đẹp nhưng không có con như thế, mà Abram vẫn cứ gắn bó suốt đời, không thay ḷng không đổi dạ, lại không hề nghĩ đến chuyện kiếm thêm bà hai để có được mụn con nối dơi.

Trong một xă hội cổ xưa, với quan niệm người không con là một điều xỉ nhục và là người bị chúc dữ, th́ các Bà và các Bác nghĩ coi: đốt đuốc mà t́m th́ có kiếm được người thứ hai như Abram không ?

Nghĩa là Abram không phải là người nhe dạ, nông nổi. Ông phải là người trưởng thành về phương diện tâm lư và tính dục. Ông là người hiểu biết, có giáo dục.

Tắt một lời , ông là người chồng chung thủy .

Biết đâu, thái độ trưởng thành và có trách nhiệm trong t́nh yêu của ông lại là một điểm son thêm vào một tâm hồn vốn đang khao khát Đấng Tối Cao, khiến cho Abram trở thành đối tượng tốt nhất mà Thiên Chúa kiếm t́m cho “bách niên chi kế” của Ngài ?

Thật ra chúng ta chỉ biết rơ t́nh trạng thật tâm hồn và con người ông qua lời Thiên Chúa nói với ông :

12:1 Vayomer HASHEM el-Avram - HASHEM said to Avram,-
Lech Lecha me'artzecha - "Go from your land,
umimoladetecha - from your birthplace,
umibeit avicha - and from your father's house,
el-ha'aretz asher ar'eka. - [and go] to the land that I will show you.

2 Ve'e'escha legoy-gadol - I will make you into a great nation,
va'avarechecha - I will bless you
va'agadelah shemecha - and make your name great;
veheyeh beracha. - and you will be a blessing.

3 Va'avarechah mevarachecha - I will bless those who bless you,
umekalelecha a'or - and he who curses you, I will curse;
venivrechu vecha - and through you, will be blessed
kol mishpechot ha'adamah. - all the families of the earth."

Chúng ta thường đặt tên cho biến cố mà đoạn Kinh Thánh (Stk 12:1-3) vừa thuật lại là Thiên Chúa “gọi” Abram. Nhưng từ ngữ chính thức là “vayomer – nói, ngỏ lời” “Vayomer HASHEM el-Avram” : “Thiên Chúa nói với Abram rằng”

KinhThánh không ghi lại v́ lư do ǵ mà Thiên Chúa ngỏ lời với Abram. Mà Ngài không nói chuyện với Abram để trao một trách vụ ǵ. Chỉ bảo ông bỏ nhà cửa của bố mẹ mà ra đi đến một nơi Ngài sẽ chỉ cho sau. Đồng thời Ngài báo sẽ ban cho ông bảy lời hứa. (Stk 12:2-3)

Tất cả có bẩy điều, mà riêng ông được bốn điều. –
-“Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn,”
-“sẽ chúc phúc cho ngươi.”
-“Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, “
-“và ngươi sẽ là một mối phúc lành.”

Qua ông, các ngướ khác được ba điều:
-“ Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi;
-“Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.
-“Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc."

Bù lại Ngài có bắt Abram làm điều chi không ? Không, hoàn toàn không.

7-

Kinh Thánh ghi tiếp :

4 Vayelech Avram ka'asher diber elav HASHEM vayelech ito Lot ve'Avram ben chamesh shanim veshiv'im shanah betzeto meCharan.
Avram went as HASHEM had told him, and Lot went with him. Avram was seventy-five years old when he left Charan

Như thế Thiên Chúa đă chọn người, và Ngài chọn đúng người.

Abram nghe Thiên Chúa nói và lập tức thi hành ngay. Ông lên đường, ra đi, không chần chừ, cũng chẳng hề mở miệng thốt ra lấy một câu, dù là câu hỏi “Đi đâu ?” hay “Tại sao ?” mà b́nh thường ai nấy đều hỏi trong trường hợp tương tự .

Xem chừng Abram ra đi, bây giờ v́ nghe theo tiếng Thiên Chúa ngỏ lời mà đi, nhưng bên ngoài vẫn như là tiếp nối hành tŕnh theo đường hướng trước giờ bố Terah đă khởi đầu .

Chúng ta nên lưu ư, đọc lại bản văn Kinh Thánh theo nhăn quan bây giờ chúng ta có dễ có cảm tưởng như là Abram đă biết Thiên Chúa là ai (như chúng ta đang tin ngày nay) và khi Người mở miệng, tức th́ Abram nghe và tuân theo tiếng Thiên Chúa v́ ḷng kính sợ Đức Chúa Trời.

Không ! Abram chưa từng biết đến Thiên Chúa là ai. Mà cho đến lúc đấy Ngài chưa hề tỏ cho Abram biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất và chân thật trong trời đất.

Kinh Thánh chỉ ghi “Thiên Chúa nói với Abram”. Nói bằng cách nào ? Chúng ta không biết. Abram nghe ra được tiếng nói ấy trong ḷng, hay ngoài tai, chúng ta cũng không hay.

Abram ra đi, tiếp tục ra đi chỉ v́ trong tận đáy ḷng, ông là người tham vọng đưọc cái lớn nhất, cái vĩ đại nhất, cái nhiều nhất, cái duy nhất. Ông ra đi v́ ông tin rằng cách nào đó Tiếng Nói mà ông nghe được có thể phát xuất từ một Quyền Năng đủ mạnh để trao phó vận mệnh đời ḿnh vào đấy.

Ống muốn đi đến tận cùng để xem Tiếng Nói ấy phát xuất từ Vị nào mà có thể thấu rơ ḷng ḿnh mà ḿnh lại chẳng nh́n thấy dạng, tường tận từng nỗi khao khát đang âm ỉ tận đáy ḷng ḿnh mà không cần cho ḿnh diện kiến .

Dường như Abram tự nhủ :“Cứ đi theo Tiếng nói đă chỉ. Xem coi sự thể rồi ra sẽ thế nào ?” Và ông ra đi, “như đă thấy Đấng Vô H́nh.”

Phải chăng đây đă được xem là niềm tin của Abram vào Thiên Chúa rồi .

 

Abram ra đi, tiếp tục ra đi chỉ v́ trong tận đáy ḷng, ông là người tham vọng đưọc cái lớn nhất, cái vĩ đại nhất, cái nhiều nhất, cái duy nhất. Ông ra đi v́ ông tin rằng cách nào đó Tiếng Nói mà ông nghe được có thể phát xuất từ một Quyền Năng đủ mạnh để trao phó vận mệnh đời ḿnh vào đấy.


Chúng ta hăy xét chi tiết đầu tiên Thiên Chúa thông báo cho Abram : “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn.

Nghe thế hẳn Abram sẽ thắc mắc làm sao Tiếng Nói ấy lại biết nỗi ḷng sâu kín của ông ? Lời thông báo vẽ ra một viễn cảnh hoàn toàn khác hẳn với thực tại, nếu không nói là bất khả thi xét theo hiện thực. Hai ông bà đă quá tuổi có con mà Sarah th́ hiếm muộn .

“Dân tộc lớn” ấy sẽ và chỉ là đám hậu duệ của ông. Ông và vợ ông, bà Sarah, sẽ là những người thực hiện lời thông báo ấy. Để thực hiện lời thông báo, ông là một thành tố tất yếu, sine qua non, nhưng vợ ông bà Sarah, cũng là một thành tố không kém phần quan trọng.

Bao nhiêu vua chúa trong các thị quốc mà ông từng đi qua, đều ao ước có con trai để nối dơi và để lưu truyền vương quyền muôn đời về sau. Không có con cái, các ḍng vua sẽ kết thúc, hoàng gia sẽ bị loại bỏ và các đế quốc sẽ lụm tắt hay lọt vào tay ḍng tộc khác. Các vua chúa lắm thê nhiều thiếp là v́ lẽ ấy. Các hoàng đế có Đông cung, Tây cung, Nam cung ... là cũng v́ lẽ đó. Hoàng hậu nào không cho hoàng đế được một mụn con trai cũng sẽ bị phế hay đày vào lănh cung, cũng là v́ lẽ đó. Tất cả các phụ nữ trong cung vua, được sủng ái hay không, đều chỉ được coi trọng qua khía cạnh “làm mẹ.”

Abram hiểu điều đó.

Nhưng tiếc là Abram không thấu triệt bài học theo cách nh́n của Thiên Chúa.

Cả hai vợ chồng đều phải có cùng một vai tṛ quan trọng như nhau trong việc thực hiện lời thông báo đầu tiên của Vị Thiên Chúa mới tự giới thiệu nhưng đang dấu mặt.

Để “trở thành một dân tộc lớn” Abram phải cần đến bà Sarah như một người vợ chứ không chỉ như một người mẹ.

Thiên Chúa phải huấn luyện Abram về điều thoạt đầu nghe tưởng là nghịch lư này. Ngài bắt hai ông bà phải chờ thêm 25 năm nữa, sau khi thử thách ông bà nhiều lần, trước khi ban cho Isaac, “đứa con của Lời Hứa” .

Và h́nh như lần nào, Abram cũng đều thi rớt .

 


Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5 6 7 8

Xem các bài viết khác trong Lớp Ngôn sứ , Khoá 15 GHHV Đà Lạt Việt Nam.