Mạc Như Thụ Nhân

1 2 3 4 5 6 7 8

MichelAnge

 

16-

b- Chính động từ “Vate’aneha Sarai – Bà Sarah hành hạ ” trong bản văn cũng cần chúng ta hiểu lại cho đúng, hầu minh oan cho tổ mẫu Sarah .

Không hẳn xúc phạm đến thân thể như đánh đập gây thương tích th́ mới gọi là “vate’aneha - hành hạ”. Sau này, chúng ta gặp sách Xuất hành dùng động từ này để miêu tả người Ai cập hành hạ con dân Do thái. Khi thấy dân Do thái sinh sản đông đúc lan tràn khắp xứ, th́ :

11 Vayasimu alav sarey misim lema'an anoto besivlotam vayiven arey miskenot le-Par'oh et-Pitom ve'et-Ra'amses.
So they appointed taskmasters over it in order to afflict it with their burdens; it built storage cities for Pharaoh, Pitom and Ra'amses.
- Người ta bèn đặt lên đầu lên cổ họ những viên đốc công, để hành hạ họ bằng những việc khổ sai; họ phải xây cho Pha-ra-ô các thành làm kho lương thực là Pi-thôm và Ram-xết.

12 Vecha'asher ye'anu oto ken yirbeh vechen yifrotz vayakutzu mipeney benei Yisra'el.
But as much as they would afflict it, so it would increase and so it would spread out; and they became disgusted because of the Children of Yisrael.
- Nhưng chúng càng hành hạ họ, th́ họ càng nên đông đúc và lan tràn, khiến chúng đâm ra sợ con cái Ít-ra-en. (Xh 1:11-2)

Theo nghĩa đó, khi mất tự do là t́nh trạng đă trở nên cực nhọc tương đương với bị hành hạ rồi. “Đặt các đốc công trên đầu trên cổ” là đă hành hạ rồi .

Y hệt như ngày trước, ngồi sau lưng ḿnh có thầy Giám thị là đă thấy nặng nề rồi, tuy các vị đâu có hành hạ chúng ta ?

Như vậy dù vẫn mang thân phận nữ tỳ nô lệ, sau một thời gian hưởng cái ung dung tự tại của một bà chủ tự do, khi mất đi cái nhàn nhă ấy, hoặc mỗi khi ra vào qua lại trong lều, thấy bà Sarah và ư thức ḿnh vẫn mang thân phận tớ nữ, điều ấy đối với Hagar đă là một hành hạ khó có thể chịu đựng .

c- Nhưng có lẽ mẫu đối thoại giữa Hagar với sứ thần trong sa mạc mới cho ta thêm các chi tiết thú vị khác.

Sứ thần ngỏ lời với Hagar cả thảy bốn lần. Hai câu đầu hỏi về t́nh trạng chạy trốn của Hagar. Hai câu sau nói về tương lai của nàng và đứa con .

Chúng ta đọc lại những chi tiết đặc biệt trong hai câu đầu :

8 Vayomar Hagar shifchat Sarai ey-mizeh vat ve'anah telechi vatomer mipenei Sarai gevirti anochi borachat.
And he said: "Hagar, handmaid of Sarai, from where have you come and where are you going?" She said: "I am runing away from my mistress, Sarai."

9 Vayomer lah mal'ach HASHEM shuvi el-gevirtech vehit'ani tachat yadeyha.
The angel of Hashem said to her: "Return to your mistress and submit yourself to her."

Chúng ta có lưu ư thấy rằng sứ thần khôn khéo nhắc đến thân phận tỳ nữ khi gọi rằng : “Hagar, nữ tỳ của Sarai ...”

Và chúng ta có để ư thấy câu hỏi của sứ thần lạ lùng không : “from where have you come and where are you going? Ngươi từ đâu đến và đi đâu?

Hẳn sứ thần quá biết Hagar từ đâu đến và đi đâu. Nhưng chúng ta không thể không cho rằng ngài nhắc khéo “Hagar, con biết thân phận con từ đâu đến mà con lại c̣n muốn đi đến đâu nữa kia ?

Tuy có thể hiểu đây là câu nói mở đầu , như một lời ngỏ làm đầu câu chuyện. Nhưng chúng ta cũng không thể không nhớ tới câu hỏi của Thiên Chúa khi hỏi Adam, và Cain : “Where - đâu ”

Câu hỏi bắt đầu cho việc trách móc một điều xấu vừa xảy ra. Adam vừa ăn trái cấm: “Ngươi ở đâu ?” Cain vừa giết em: “Em ngươi đâu ?”. C̣n bây giờ “Ngươi từ đâu đến và người đi đâu ?” Ư rằng “Tại sao không ở nhà mà phục vụ chủ ngươi ?

Câu hỏi chỉ rơ là Hagar đă có làm điều ǵ đó không nên không phải.

Hẳn sứ thần quá biết Hagar từ đâu đến và đi đâu. Nhưng chúng ta không thể không cho rằng ngài nhắc khéo “Hagar, con biết thân phận con từ đâu đến mà con lại c̣n muốn đi đến đâu nữa kia ?


Hagar cũng đồng thuận như thế khi hậm hực trả lời rằng: “Con đang trốn bà Sarai, chủ con”. Ư rằng “Bà đă cho con tự do. Đă gả con cho ông nhà. Nay lại muốn con trở lại làm nô lệ”

Nhưng nhất là Hagar không hề mách lại cho sứ thần một hành vi hành hạ nào, mà dường như chỉ có thế nhắc lại thân phận bà chủ của Sarai . Hagar nhắc tên bà “Sarai” trước, rồi mới nhấn mạnh “bà chủ” : “Sarai gevirti anochi borachat. -I am runing away from my mistress, Sarai."

Nhắc lại như thế là đồng nghĩa với hàm ư :” Th́ con vẫn cứ phải là nô tỳ. Điều đó nay con không chịu được nữa.

Sứ thần gần như ra lệnh, v́ không gọi tên Hagar ở đầu câu nữa, mà chỉ nói : “Cứ về với bà chủ ngươi và chịu luỵ bà ấy.

Nếu quả thực bà Sara hành hạ Hagar, gây thương tích trên thân thể chẳng hạn th́ chúng ta sẽ khó hiểu được tại sao sứ thần lại có thể cứ giục Hagar trở về chốn cũ để chịu nhục h́nh như thế ?

Khi bảo Hagar trở về chốn cũ, sứ thần đồng thuận với việc bà Sarah trả Hagar về lại thân phận cố hữu của ḿnh: nữ tỳ .

Sứ thần biết điều này rất khó đối với Hagar, nên ngài nhắc đến tương lai huy hoàng của đứa con, hầu giúp người mẹ, Hagar thêm sức chịu đựng và kiên nhẫn .

10 Vayomer lah mal'ach HASHEM harbah arbeh et-zar'ech velo yisafer merov.
The angel of Hashem said to her: "I will greatly multiply your descendants that they can not be counted because of their great number."

Một viễn ảnh huy hoàng: Con cháu cô sẽ đông không thể đếm xuể

11 Vayomer lah mal'ach HASHEM hinach harah veyoladet ben vekarat shemo Yishma'el ki-shama HASHEM el-onyech.
The angel of Hashem said to her: " Behold you will conceive, and give birth to a son. You shall name him Yishmael, for Hashem has heard your prayer.

Khi sứ thần nhắc cô phải đặt tên đứa con là “Yishmael” ngài lư giải thành: “ki-shama HASHEM el-onyech.- For Hashem has heard your prayer.”

V́ tên “Ishmael”, là một từ do thái có nghĩa là "God has heard.- Thiên Chúa đă nghe.”

Một từ khác trong câu cũng quan trọng là từ “onyech” ở cuối câu. Bản Bible de Jerusalem dịch thành : “tu lui donneras le nom d'Ismaèl, car Yahvé a entendu ta détresse.

Onyech- detresse – suffering” ở đây chỉ là t́nh trạng hiện thời cô Hagar đang lâm vào, nghĩa là đang khốn đốn trong sa mạc. Chứ không thể là t́nh trạng thê thảm trong tương quan Sarah-Hagar ở lều của Abram. V́ như chúng ta đă nêu trên, sứ thần không thể bắt cô Hagar trở về để lâm vào cảnh bị hành hung thế xác.

Sau này khi biến cố này lập lại một lần nữa ở Stk 21: 15-17. lúc ấy bé Yismael đang khóc trong bụi cây c̣n mẹ nó gần chết lả v́ khát. Sứ thần hiện ra và nói: "For the LORD has heard you - Thiên Chúa đang nghe cảnh túng quẫn của cô !”.

Câu nói tiếp của sứ thần khi bàn về tương lai của đứa trẻ c̣n giúp cho ta cắt nghĩa theo hướng trên :

12 Vehu yihyeh pereh adam yado vakol veyad kol bo ve'al-penei chol-echav yishkon.
He will be a wild, uncivilized man. His hand [will be] against everyone and everyone's hand will be against him; and in the presence of all his brothers he will dwell."

Nó sẽ trở thành “pereh adam” . Pereh nghĩa như “bất kham”, như con lừa không chịu luồn cúi nhận cái gông tṛng cổ. Nó sẽ không chịu ai thống trị, quật cường, chỉ muốn đời tự do.

Chứ không hề nói đến sự xung khắc giữa Yismael và các dân tộc khác sau này. Lại càng không hề có chút tiên tri nào về sự xung khắc giữa Do thái và Ả rập sau này.

Như thế là sứ thần đủ trấn an cô Hagar. Cô biết nếu hiện nay ḿnh chịu phận nô tỳ, mai sau đời đứa con rồi sẽ khác hẳn.

Bàn như thế th́ nếu tính nết tổ mẫu Sarah lúc này có khắc khe, th́ âu cũng chỉ là trong chừng mực khuôn phép sẵn có.

Chắc các Bà hài ḷng .

17-

Mà nói cho ngay, tuy đây là biến cố không đẹp trong gia đ́nh Abram, nhưng nh́n trong viễn cảnh chung các tản mạn chúng ta đang tuần tự theo đuổi, đây cũng là một bài học - hay một trắc nghiệm- dành cho cả hai tổ phụ tổ mẫu.

Từ khi cả hai được chọn làm tổ phụ tổ mẫu cả một dân tộc, các biến cố xảy ra liên tiếp như một chuỗi các thử thách hay bài học. Không biết hai ông bà có tỏ ra ḿnh ở đúng tầm mức vai tṛ ngoại hạng như trên không ?

Sau khi cháu Lot chia tay, người nô bộc Eliézer là ứng viên sáng giá làm hậu duệ hai cụ để hưởng được đất đai làm sản nghiệp do lời Thiên Chúa Hứa.

Nhưng khi Thiên Chúa đă tỏ rơ rằng chính người con do cụ ông sinh ra mới là người thừa kế lời Hứa th́ Sarah đề nghị Hagar cho cụ nhà .

Khi Abram “đến” với Hagar, hẳn ông nghĩ rằng, chính con của ông, với ai cũng được, miễn là con ông, mới là người thừa kế.

Khi Hagar có con, th́ Hagar nghĩ rằng chính người con của cô với cụ nhà Abram sẽ là hậu duệ chính đáng thừa hưởng lời Hứa.

Nhưng qua chi tiết Sarah hành hạ Hagar th́ chúng ta biết ngay cụ bà Sarah bực tức v́ vai tṛ tổ mẫu của ḿnh bị Hagar chiếm. Như thế phản ứng mạnh mẽ và gắt gao của Sarah dành cho Hagar là để lấy lại vị-trí-bất-khả-nhượng của bà là tổ mẫu cùng với Abram.

Hai ông bà dần dà hiểu được bài học.

Có lẽ v́ thế mà đến chương 27, cả hai cụ được Thiên Chúa đổi tên ?

Trước khi tản mạn tiếp, các Bác cho nhà cháu kết luận một đôi điều cỏn con chăng ?
Rằng th́ là người thứ ba luôn luôn là kẻ gây rối, và mang lại phiền phức. Chấm hết . phải không nào ?

Nhưng qua chi tiết Sarah hành hạ Hagar th́ chúng ta biết ngay cụ bà Sarah bực tức v́ vai tṛ tổ mẫu của ḿnh bị Hagar chiếm. Như thế phản ứng mạnh mẽ và gắt gao của Sarah dành cho Hagar là để lấy lại vị-trí-bất-khả-nhượng của bà là tổ mẫu cùng với Abram.


Bây giờ chúng ta ngừng lại một chút. V́ tính từ “haMitzrit – người Ai cập”.

“3 Vatikach Sarai eshet Avram et-Hagar haMitzrit shifchatah - Sarai, the wife of Avram took Hagar the Egyptian, her handmaid,” (Stk 16 :3)

Cô nữ tỳ “Hagar, người Ai cập!”

Như thế là con cụ Abram là người con lai, lai Ai cập. Y hệt như trước kia suưt nữa th́ con bà Sarah cũng là con lai, lai Ai Cập.

Không biết bà Sarah có chủ đích trả thù hay không, khi đề nghị Abram “đi lại” với cô nữ tỳ Ai Cập của ḿnh.

Ngày trước suưt nữa th́ bà rơi vào một hôn-nhân-ngoại-t́nh do ông chủ xướng. Ông đóng vai người anh của bà. C̣n bây giờ bà đẩy ông vào một cuộc hôn nhân gần-như-là-ngoại-t́nh với Hagar và bà đóng vai “chị hai” trong nhà !

Ông thực hiện điều đó v́ lo sợ cho tính mạng và muốn có của cải. C̣n bà th́ v́ tự ái hổ ngươi và muốn tiến thân .

V́ muốn có con, bây giờ Abram lại hành xử giống như Pharaon, có thêm một bà nữa cho hậu cung, và coi người đàn bà chỉ trong vai tṛ người mẹ sinh con cho ḿnh mà thôi.

Vậy là cả hai đều chưa nắm bắt được ư nghĩa hai chữ vợ chồng.

Hậu quả là gậy ông đập lưng ông. Gia cảnh trở thành bát nháo. Tỳ nữ có con th́ lên mặt. Bà Sarah tưởng ḿnh sẽ lên chức, “thăng tiến hôn nhân”, ai ngờ lại bị coi thường. Bà bực tức đổ tội cho ông . C̣n ông v́ muốn cho yên cửa yên nhà, đành nghe lời “chị hai” đuổi hai mẹ con người thứ ba đi. Bi đát.

Nhưng ít là ông giữ được vợ. Ông chọn người vợ hơn là người-chỉ-làm-mẹ. Hai người giờ về với nhau, gần nhau hơn và dần dà khám phá thêm ư nghĩa của vợ của chồng.

Hy vọng là thế .

V́ muốn có con, bây giờ Abram lại hành xử giống như Pharaon, có thêm một bà nữa cho hậu cung, và coi người đàn bà chỉ trong vai tṛ người mẹ sinh con cho ḿnh mà thôi.


18-

Chúng ta chỉ dám viết “Hy vọng là thế” v́, trong thực tế, đời Abraham - Sarah c̣n nhiều thăng trầm. Có lúc tưởng hai ông bà cụ tổ đă nắm vững vấn đề. Nhưng khi hữu sự, hai cụ tổ lại có những hành sự dưới mức trung b́nh, nếu không nói là đáng thất vọng.

Trước khi bàn đến chỗ đáng tiếc ấy, chúng ta mở ngoặc đơn để lướt qua những diễn biến tuần tự xảy ra theo thời gian .

Sau khi nội bộ gia đ́nh êm ấm trở lại, và trong nỗ lực giáo dục hai ông bà, Thiên Chúa dành cho hai ông bà, và hậu duệ hai người, một giao ước đặc biệt. Gia tộc và hậu duệ của ông trở thành Dân Riêng của Thiên Chúa. Dấu hiệu phân biệt là việc Cắt b́. Và họ phải/chỉ thờ phụng một ḿnh Thiên Chúa là Chúa duy nhất của họ. Phần Thiên Chúa Ngài hứa ban cho con cháu ông đất Canaan làm sản nghiệp.

Trong giao ước này Thiên Chúa đổi tên Abram thành Abraham và Sarai thành Sarah .

Có thể nói qua giao ước này dân tộc Do thái được thành lập. Họ là con cháu ông Abram và tất thảy đàn ông con trai đều cắt b́ .

Đến cuối cuộc nói chuyện bàn về giao ước này, Thiên Chúa báo tin vui về bà Sarah: bà sẽ có con, và bà sẽ là tổ mẫu nhiều dân tộc .

16 Uverachti otah vegam natati mimenah lecha ben uverachtiha vehayetah legoyim malchei amim mimenah yihyu.
I will bless her, and I will also give you a son through her. I will bless her, and she will be [a mother] of nations, kings of peoples will descend from her."

Khi báo như thế, Thiên chúa chỉ mới nói cho Abraham biết mà thôi. Như thế từ nay Abraham sẽ không c̣n lư do ǵ để t́m con ḿnh nơi những người phụ nữ khác.

Có điều là liệu Abraham có tin rằng cụ bà Sarah gần trăm tuổi của ông có c̣n sinh được con nữa không ? Lời báo tin vui đến có quá muộn không ?

Quả đúng như điều chúng ta e ngại, Abraham xem chừng c̣n nghi ngờ. Ông nắm con cá có sẵn trong tay hơn là con cá chưa câu được. Ông thắc mắc, cho rằng đứa con Yismael kia chính là đứa con thừa tự rồi !

17 Vayipol Avraham al-panav vayitzchak vayomer belibo haleven me'ah-shanah yivaled ve'im-Sarah havat-tish'im shanah teled.
Avraham fell on his face and laughed. He said in his heart: "Can a hundred year old man have children? Shall Sarah, who is ninety years old give birth?"

18 Vayomer Avraham el-ha'Elokim lu Yishma'el yichyeh lefanecha.
And Avraham said to G-d: "May it be granted that Yishmael live before You."

Ông Áp-ra-ham cúi rạp xuống; ông cười và nghĩ bụng: "Đàn ông trăm tuổi mà có con được sao? C̣n bà Xa-ra đă chín mươi tuổi mà sinh đẻ được sao? " Ông Áp-ra-ham thưa với Thiên Chúa: "Ước chi Ít-ma-ên được sống trước nhan Ngài! "

Thiên Chúa làm như không nghe và không bận tâm để ư đến chuyện ông cười. Ngài tiếp tục cẩn thận dạy học cho ông.

Thiên Chúa nói một chữ không to tướng bằng cách nhấn mạnh cho ông học tṛ chậm lănh hội kia ba điều, rằng:

1- Chính “Sarah ishtecha - Sarah vợ ông” - Ngài dùng hai chữ đi liền với nhau – mang thai một đứa con trai.
2- “et-shemo Yitzchak - Ông sẽ đặt tên cho cậu quư tử là Isaac.”
3- Thời gian là “giờ này sang năm.”

19 Vayomer Elokim aval Sarah ishtecha yoledet lecha ben vekarata et-shemo Yitzchak vahakimoti et-briti ito livrit olam lezar'o acharav.
G-d said: "Indeed, your wife Sarah will bear you a son, and you will name him Yitzchak. I will establish My covenant with him as an eternal covenant to his descendants after him.
20 Ule-Yishma'el shmaticha hineh berachti oto vehifreyti oto vehirbeyti oto bime'od me'od shneym-asar nesi'im yolid unetativ legoy gadol.
And as for Yishmael, I have heard you. I have blessed him, and I will make him fruitful, and will increase him exceedingly. He will become the father of twelve princes, and I will make him into a great nation.
21 Ve'et briti akim et-Yitzchak asher teled lecha Sarah lamo'ed hazeh bashanah ha'acheret.
But I will establish My covenant with Yitzchak, who Sarah will bear to you at this time next year."

Cụ Abraham bật cười, các Bà ạ .

Trong biến cố xảy ra ba ngày sau đó, khi cụ Abraham và mọi nam nhân trong nhà đang đau v́ vết thương cắt b́ chưa lành (Stk 18:1-16), th́ có ba người khách lạ tới thăm Abarham tại lều ông ở. Họ nhắc lại lời báo tin rằng cụ bà Sarah sinh con. Cụ bà Sarah lại cũng cười.

Bị bắt quả tang, lần này Thiên Chúa tra vấn ngay: “zeh tzachakah Sarah- "Why did Sarah laugh – Sao Sarah lại cười ?

Sarah vội vàng chùi miệng, chối biến: “lo tzachakti ki - I did not laugh, – Tôi đâu có cười !

Thiên Chúa vẫn quả quyết : “lo ki tzachakt.” - Not so, for you did laugh.- Có mà, Bà có cười mà !

Chúng ta thử tản mạn đôi chút về những nụ cười này. Hai nụ cười đều nổ ra xoay quanh tin bà Sarah sẽ mang thai con trai. Thậm chí v́ tiếng cười đó, mà tên người con trai được chính Thiên Chúa đặt cho là “Yitzchak”.

Như thế ta có quyền ngạc nhiên rằng phải chăng những tiếng cười ở đây, vào thời điểm này trong đời hai cụ tổ phụ, hẳn mang nhiều ư nghĩa, nên người con mới mang cái tên Nguyễn văn “Sẽ Cười”- Yitzchak - này ?

Chúng ta được mời xem chú thích (5*) để nghe một cố gắng trả lời .

Như thế ta có quyền ngạc nhiên rằng phải chăng những tiếng cười ở đây, vào thời điểm này trong đời hai cụ tổ phụ, hẳn mang nhiều ư nghĩa, nên người con mới mang cái tên Nguyễn văn “Sẽ Cười”- Yitzchak - này ?


19-

Trước khi đi tiếp, chúng ta đọc kỹ ba câu này trong thuật tŕnh, xem có điểm nào thú vị .

11 Ve'Avraham veSarah zekenim ba'im bayamim chadal lihyot le-Sarah orach kanashim.
Avraham and Sarah were old, well on in years. Sarah no longer had the way of women.

12 Vatitzchak Sarah bekirbah lemor acharei veloti hayetah-li ednah va'adoni zaken.
Sarah laughed to herself saying, "Now that I am worn out, shall I have the pleasure [of a son], my master being [also] an old man."

13 Vayomer HASHEM el-Avraham lamah zeh tzachakah Sarah lemor ha'af umnam eled va'ani zakanti.
HASHEM said to Avraham, "Why did Sarah laugh saying, 'Can I really give birth when I am old?'

Các Bác có thấy Thiên Chúa rất tế nhị không?

Bà Sarah nghĩ thầm trong bụng, rằng : "Ḿnh đă cằn cỗi rồi, c̣n hưởng được vui thú nữa sao? Ông nhà ḿnh lại là một ông lăo! " (Stk 18:12)

Nhưng khi “mách” lại ư nghĩ trong bụng của Sarah cho Abraham nghe, Thiên Chúa chỉ nói : "Tại sao Xa-ra lại cười và nói: "Có thật tôi già thế này mà c̣n sinh đẻ được chăng?

Ngài đă tế nhị tránh không nhắc lại cho cụ ông Abraham cái thực tại phũ phàng mà bà Sarah thẳng thừng nói đến : “Ông nhà ḿnh lại là một ông lăo.” ! Ngài chỉ nhắc lại nhận xét của Sarah về chính ḿnh : "Có thật tôi già thế này mà c̣n sinh đẻ được chăng?

Một kín đáo tế nhị đầy tâm lư vừa cho người già, vừa giữ cho được hoà khí giữa đôi vợ chồng “không c̣n trẻ” lắm.

Biết đâu nhờ vậy mà tránh cho bà Sarah ăn một cái “bợp tai” chăng ?

Các Bà ơi, nhớ bắt chước Ngài. Ai lại phũ phàng mà nói thẳng thừng với ông nhà rằng: “Ông già rồi. C̣n làm ăn ǵ được nữa đâu mà rị mọ !

 


Chú thích (5*)

Đích thân Thiên Chúa đặt tên cho hài nhi là: "Yitzchak (Isaac)". Theo tiếng Do thái, từ này có nghĩa là "Nó sẽ cười- he will laugh". Dường như Thiên Chúa dựa vào chính sự kiện đang xảy ra lúc bấy giờ mà đặt tên cho đứa trẻ: bố nó cười khi nghe tin báo. Tuy nhiên, nếu hiểu như thế th́ không đúng lắm với thực tại, v́ cụ Abraham thưc sự đă cười rồi. Lẽ ra tên cháu phải là "Tzachak", có nghĩa là "Nó đă cười - he laughed", th́ mới thích hợp hơn.

Thiên Chúa muốn thông báo sứ điệp ǵ cho Abraham - và cho chúng ta - , khi bảo Abraham đặt tên cho cháu bé là "Yitzchak - Nó sẽ cười - He will laugh" thay v́ "Tzachak - Nó đă cười - He laughed" ?

Sau đây là một cố gắng giải thích dự vào cách chơi chữ độc đáo của ngôn ngữ Do thái: Cụm từ "vayitzchak" được thành h́nh do bộ gốc gồm các phụ âm "vav", "yud", "tzadi", "chet" và "kuf" theo mô h́nh “VxYxTZxCHxK”, trong đó x thay cho các nguyên âm. Câu này mang nghĩa là "Và nó đă cười - and he laughed".

Nhưng chi tiết thú vị là nếu từ câu “VxYxTZxCHxK” chúng ta bỏ liên từ “Vx” đọc thành “Va” có nghĩa là “và”, th́ cụm từ "vayitzchak" trở thành "yitzchak" với các phụ âm "yud", "tzadi", "chet" và "kuf" hay “YxTZxCHxK”. Khi bỏ liên từ “và” th́ cụm từ “Và nó đă cười” này không chỉ mất liên từ “và” để chỉ c̣n nghĩa “Nó đă cười” nhưng th́ của động từ cũng thay đổi. Nghĩa là "vayitzchak", bỏ “va”, trở thành "yitzchak" là động từ “cười” ở th́ tương lai:"he will laugh - Nó sẽ cười”.

Thiên Chúa đă chuyển phản ứng Abraham đă từng cười v́ nghi hoặc trong quá khứ, "vayitzchak" – người cười hôm trước - để tiên báo một nụ cười hân hoan trong tương lai – hôm sau vẫn sẽ cười - Yitzchak –

Bản thân và cả cái tên của Yitzchak – Isaac – chính là sứ điệp Thiên Chúa muốn gửi gắm.
Ngài muốn Abraham nh́n vào tương lai mà tin, hơn là cứ măi tŕ trệ trong nghi hoặc như quá khứ đă từng.

 



Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5 6 7 8

Xem các bài viết khác trong Lớp Ngôn sứ , Khoá 15 GHHV Đà Lạt Việt Nam.