Mạc Như Thụ Nhân

1 2 3 4 5 6 7 8

MichelAnge

  8-

Vậy chúng ta tiếp tục theo dấu chân của Abram như đă ghi trong Kinh Thánh:

4 Vayelech Avram ka'asher diber elav HASHEM - Avram went as HASHEM had told him,
vayelech ito Lot - and Lot went with him.
ve'Avram ben chamesh shanim veshiv'im shanah betzeto meCharan.
- Avram was seventy-five years old when he left Charan

Abram ra đi “như Thiên Chúa đă bảo. Có Lot đi cùng với ông.”

“Vayelech ito Lot - Có Lot đi cùng với ông.” ?

Chúa có nhắc Abram là : “Nhớ đem Lot đi theo.” không ?

Chi tiết con con này cho chúng ta thấy điều ǵ ? Khi đem Lót đi theo, có phải Abram muốn sống trọn t́nh trọn nghĩa với người em út đă khuất, thay mặt em mà lo lắng cho cháu ? Hoặc ông vẫn c̣n nặng t́nh nghĩa họ hàng ?

Hay, bạo mồm bạo miệng hơn, chúng ta có thế vơ đoán rằng, v́ hai ông bà nay đă luống tuổi, nên ḷng thầm nghĩ rằng đứa cháu kia có thể là đầu mối hậu duệ của ḿnh và lời nói của Đấng Vô H́nh kia vậy là bắt đầu có cơ thực hiện ? Cháu cũng như con. Ḍng dơi nó cùng là ḍng dơi nhà ḿnh.

Hẳn Abram có ḷng lo xa “dùm” Thiên Chúa. Nhưng Abram cũng chỉ lo xa được tới chừng đó. Rơ ràng ông không thể biết những bất ngờ Ngài c̣n dành cho ông, phía trước mặt. Ngài sẽ chỉnh đốn sự sai lạc này. Như chúng ta sẽ thấy, sau này hai chú cháu chia tay. Abram đă thi rớt lần đầu tiên.

Nhưng bây giờ chúng ta hăy cứ tiếp tục đi theo hai chú cháu.

5 Vayikach Avram et-Sarai ishto ve'et-Lot ben-achiv - Avram took his wife Sarai, Lot, his brother's son,
ve'et-kol-rechusham asher rachashu - all their possessions they had acquired,
ve'et-hanefesh asher-asu veCharan - and the souls [people] that they had made [converted] in Charan
vayetze'u lalechet artzah Kena'an - , and they set out to go to the land of Kenaan.
vayavo'u artzah Kena'an. - They came to the land of Kenaan.

Không chỉ có hai chú cháu, nhưng c̣n có các “ve'et-hanefesh asher-asu veCharan - and the souls [people] that they had made [converted] in Charan – những người mà họ asu được . “Asu” có nghĩa là “làm ra”. Có người nghĩ rằng, đây là những nam nữ gia nhân đem theo. Người khác cho rằng hơn thế, đó là những người mà họ đă truyền đạt đức tin của ḿnh, những người nghe theo lời họ mà tin vào vị Thần Mới của Abram.

“Họ” nghĩa là cả hai ông bà. Ông truyền đạo có người theo riêng. Bà truyền giảng có người theo riêng.

Khi tới đất Canaan, bất ngờ và ngỡ ngàng, ông nhận ra rằng, nơi đây không phải là vùng đất hoang chưa ai chiếm, chưa ai khai khẩn, chưa ai căm lều. Đất đă có chủ, đă có cư dân bản địa.

Đọc tiếp các câu Stk 12:5,6,7 chúng ta thấy ǵ ?

vayavo'u artzah Kena'an. They came to the land of Kenaan.

6 Vaya'avor Avram ba'aretz - Avram passed [traveled] through the land
ad mekom Shechem - until the place of Shechem,
ad elon Moreh - until the Plains of Moreh.
vehaKna'ani az ba'aretz. - The Kenaanim were then in the land.

7 Vayera HASHEM el-Avram vayomer - HASHEM appeared to Avram and said:
lezar'acha eten et-ha'aretz hazot - "To your descendants I will give this land."
vayiven sham mizbe'ach l'HASHEM hanir'eh elav. - There he built an altar to HASHEM Who had appeared to him.

Đă đến nơi rồi sao không dừng chân mà Abram c̣n đi qua vùng đấy cho măi tới nơi gọi là Shechem ?

Chỉ bởi v́ “ehaKna'ani az ba'aretz. - The Kenaanim were then in the land. Người Canaan đang ngụ cư tại đó.”Dân bản địa Canaan này là một sắc dân hùng mạnh. Cơ ngơi, nhà cửa vườn tược đă đâu vào đấy từ lâu đời. C̣n thành quách của họ th́ không phải là nhỏ hay sơ sài .

Nhóm người tí tẹo kia đi theo hai ông bà già dĩ nhiên không dám dừng chân. Một chút lắng lo và se ḷng chăng ? Dĩ nhiên là Abram sợ.

Vả lại, khi Thiên Chúa bảo Abram ra đi, Ngài chỉ bảo

Lech Lecha me'artzecha - "Go from your land,
umimoladetecha - from your birthplace,
umibeit avicha - and from your father's house,
el-ha'aretz asher ar'eka. - [and go] to the land that I will show you.

“Đi đến đất Ta sẽ chỉ cho.” Ngài chưa hề hứa ban cho Abram đất ấy, hay đất nào khác. Ngài chỉ bảo “đi đến nơi Ngài sẽ chỉ cho.”

 

Ông và gia đ́nh cứ miệt mài đi măi, đi qua vùng đất ấy, cho tới Shechem. Đến đây, Thiên Chúa hiện ra với ông ...Ngài hết c̣n là Đấng Vô H́nh. Ngài không dấu mặt nữa. Nay Ngài đă là một Thực-Tại-Hữu-H́nh.


V́ thế, chúng ta không nghe nói Abram lập bàn thờ tại chỗ này !

Nghĩa là chưa dám tŕnh bày niềm tin mới vào Vị Thần mới , trong một tông giáo mới.

Nghĩa là chưa dám giảng đạo, chưa dám truyền giáo công khai ở vùng đất mới.

Ông và gia đ́nh cứ miệt mài đi măi, đi qua vùng đất ấy, cho tới Shechem. Đến đây, Thiên Chúa hiện ra với ông .

À ! Đây mới là lần đầu tiên Thiên Chúa tỏ hiện cho ông thấy . Vayera HASHEM el-Avram vayomer - HASHEM appeared to Avram and said:

Ngài hết c̣n là Đấng Vô H́nh. Ngài không dấu mặt nữa. Nay Ngài đă là một Thực-Tại-Hữu-H́nh.

Đồng thời với việc thần hiển, Ngài long trọng hứa ban Đất này cho hậu duệ ông . lezar'acha eten et-ha'aretz hazot - "To your descendants I will give this land."

Chúng ta lưu ư Thiên Chúa không hứa ban đất cho ông, nhưng cho con cháu ông .

Bấy giờ ông mới lập bàn thờ đầu tiên. Tế lễ và Tạ ơn Vị Thần Chủ mới của gia đ́nh.

“vayiven sham mizbe'ach l'HASHEM hanir'eh elav. - There he built an altar to HASHEM Who had appeared to him.

Nhân đây chúng ta mở một ngoặc đơn. Lẽ ra chúng ta nên nên ngạc nhiên khi lưu ư rằng, lần cuối cùng Thiên Chúa hiện ra tiếp xúc với loài người là lần hiện ra với Noe. Mới có cách mười thế hệ mà phàm nhân đă quên Chúa Cả Đất Trời.

Nay Ngài phải nhọc ḷng tự giới thiệu lại cho loài người, qua Abram. Sau bao nhiêu thế hệ và bao nhiêu năm, niềm tin ấy được Abram truyền đạt cho con cháu, và qua con cháu ông, truyền đạt sang biết bao nhiêu dân tộc dưới ṿm trời này.

Quả thực so với Abram, Noe là một thất bại ê chề .

9 -

Sau khi lập bàn thờ tại Shechem, Abram c̣n đi tiếp về phía núi

8 Vayatek misham haharah - From there he moved to the mountain
mikedem leVeit-El vayet aholoh - that was east of Beit-El and set up his tent.
Beit-El miyam veha'Ai mikedem - Beit-El was to the west and Ai was to the east.
vayiven-sham mizbe'ach l'HASHEM - There he built an altar to HASHEM,
vayikra beshem HASHEM. - and he proclaimed the Name, HASHEM.
9 Vayisa Avram haloch venasoa hanegbah. - Avram journeyed, traveling steadily southward.

Trước khi đi tiếp nhà cháu mời các Bác tản mạn đôi điều về các địa danh của vùng linh địa, những nơi mà Abram từng lập các Bàn thờ.

So với các Cha Sở ngày nay, Abram là một trong những Vị xây được nhiều nhà thờ nhất !

Như chúng ta vừa đề cập, Abram lập bàn thờ đầu tiên tại Shechem, khi ông vừa mới vào đất Canaan . Đó là nơi đích thân Thiên Chúa hiện ra cho ông lần đầu tiên .

Sau này, Shechem cũng là thành tŕ đầu tiên dân Do thái đi vào khi vừa vượt qua sông Giodan để tiến vào Đất Hứa dưới sự lănh đạo của Josue.

Shechem cũng là thành mà Dinah, con gái út của Giacob, bị bắt và bị hiếp. Sau này để trả thù cho cái nhục của em gái, hai anh Shimon và Lêvi, bất chấp thoả thuận của những anh em khác, giết hết dân thành khi họ đang đau đớn v́ mới bị cắt b́.( Stk 34:25-28)

Shechem là nơi có mồ chôn Giuse, con cưng của Giacop,( Stk 37:24)

Và Shechem cũng là nơi phân giới, chia lănh thổ Israel thống nhất thời David và Salomon thành hai vương quốc Bắc và Nam.

Abram lập bàn thờ thứ ba tại cây sồi ở Mambré, vùng Hebron ( Stk 13:18), nơi sau này có ngôi mộ chung của gia đ́nh.

Núi Morah là nơi có bàn thờ thứ tư, nơi ông tế sinh Isaac (Stk 22:14), nơi “Thiên Chúa được mọi người thấy.”

C̣n một bàn thờ nữa, bàn thờ thứ hai này. Thoạt nh́n chừng như không quan trọng mấy, v́ không được xác định rơ địa điểm (Stk 12:8) Bản văn chỉ nói nó nằm giữa Beit El và Ai. Chỉ có một chi tiết thú vị là sau khi lưu lạc sang Aicập về, hai ông bà trở lại chốn này, và lập thêm một bàn thờ nữa tại đây (Stk 13:3-4).

Chốn này có ǵ đặc biệt ?

Trước hết là Beith-El . “Beith” là “nhà” và “El” là “Thiên Chúa”. “Beith-El” là “nhà của Thiên Chúa.” Giacob trên đường lưu lạc về lại Haran t́m vợ, đêm nằm gối đầu trên ḥn đá tại chỗ này mà ngủ. Trong giấc mộng Giacob mơ thấy có một cái thang dài từ đất nối lên trời, có thiên thần lên xuống (Stk 28:12). Sau con bĩ cực trở về, Giacop cũng đi ngang qua nơi này lần nữa.

Thang dài nối liền trời đất, phải chăng biểu tượng cho con người phải biết đem công sức ḿnh cộng tác vào ơn Trời.

C̣n thành Ai là nơi Israel phạm tội tày trời, sau khi chiến thắng Giêricô, gia đ́nh ông Akhan con của Ami không tuân theo lệnh tru diệt, đă lén chiếm làm của riêng một số chiến lợi phẩm, thay v́ phải đốt sạch. Sau đó Israel tiến quân chiếm thành Ai. Lẽ ra đây phải là một chiến thắng oai hùng nữa. Nhưng Israel lại thua xiểng niễng.

Sau khi t́m ra do lai, Josue đành phải lên án tử gia đ́nh Akhan. Lúc ấy, thành Ai mới bị triệt hạ.

Như vậy bàn thờ thứ hai của Abram dựng nên nằm giữa hai vị trí mang tính biểu tượng cho hậu thế. Nhưng con cháu của Abram sau này quên mất ư nghĩa của bài học địa danh này.

 

Abram có chút nào thất vọng không, khi được hứa ban một mảnh đất mà, sau một hành tŕnh dài gian khổ, trải qua bao dặm đường đất, để lại sau lưng quê nhà yên ấm, của cải gia tài, đến nơi chỉ gặp được một ....nạn đói ?


10-

Đi tới đâu lập các bàn thờ ở đó, rồi Abram định cư.

Mà chưa chừng Abram chẳng có giờ để mà ở lâu. Thuật tŕnh đang kể Abram cứ đi xuôi măi xuống miền Nam “9 Vayisa Avram haloch venasoa hanegbah. - Avram journeyed, traveling steadily southward.” th́ nạn đói ập tới, hoành hành nghiệt ngă .

Abram có chút nào thất vọng không, khi được hứa ban một mảnh đất mà, sau một hành tŕnh dài gian khổ, trải qua bao dặm đường đất, để lại sau lưng quê nhà yên ấm, của cải gia tài, đến nơi chỉ gặp được một ....nạn đói ?

Cuộc gặp gỡ đầu tiên với Miền Đất Hứa quả là để lại nhiều ấn tượng nhớ để đời.

Nếu nhà cháu là Abram, chắc chắn nhà cháu sẽ có nhiều cay đắng. Chứ không như hai ông bà Abram, không hề ca thán, chỉ dắt d́u nhau đi tiếp qua Ai Cập lánh nạn .

Abram phải tự ḿnh đi mà không được chỉ định trước, t́m thực phẩm bên Ai cập, để sống c̣n.
Lần đầu tiên, Abram biết thế nào là thân phận kẻ ngoại kiều trong một đất nước hoàn toàn xa lạ.
Lần đầu tiên Abram phải đương đầu với những hoàn cảnh bất công và bại hoại, ngược hẳn với đường lối của Đấng Tối Cao.
Lần đầu tiên ông biết xung khắc giữa t́nh yêu ḿnh dành cho người nhà và bất công của xă hội ;

Ông chia xẻ điều lo ngại đó với vợ :

11 Vayehi ka'asher hikriv lavo Mitzrayimah - As he came near and was about to enter Egypt,
vayomer el-Sarai - he said to his wife Sarai,
ishto hineh-na yadati ki ishah yefat-mar'eh at. - "Behold, I now realize that you are a woman of beautiful appearance.
Bà coi, tôi biết bà là một người phụ nữ có nhan sắc.

12 Vehayah ki-yir'u otach haMitzrim ve'amru ishto zot vehargu oti ve'otach yechayu.
It will happen when the Egyptians see you that they will say, 'This is his wife.' They will kill me and let you live.
Khi người Ai-cập thấy bà, họ sẽ nói: "Vợ hắn đấy! ", họ sẽ giết tôi và để cho bà sống.
13 Imri-na achoti at lema'an yitav-li va'avurech vechaytah nafshi biglalech.
Please say [therefore] that you are my sister, so that it will go well with me for your sake, and my life will be spared because of you."
Vậy xin bà cứ nói bà là em tôi, để v́ bà, người ta xử tốt với tôi, và nhờ bà, tôi được sống."

Như thế lo cho an nguy của tính mạng ḿnh, Abram yêu cầu bà Sarah chối bỏ hôn nhân giữa hai người và chỉ tự nhận ḿnh là “em gái”, mong rằng v́ thế mà người Ai cập để ư đến nhan sắc của bà và chỉ để ư đến điều đó mà thôi. Nếu thế ông sẽ giữ được mạng.

Điều lạ là chính bà Sarah đă đồng ư như thế.

Sự thể xảy ra đúng như ông đă đoán. Chỉ có chút sai biệt là ông không ngờ chính Pharaon, chứ không ai khác, để ư tới nhan sắc của bà Sarah .

Làm phụ nữ có nhan sắc cũng... phiền, các Bác nhỉ ?

Hành vi của Abram không phải là ai cũng hoan nghênh .

Thánh Augustine chỉ nhận định "he silenced a little bit of truth, he didn't say anything false.- Tổ phụ im lặng không nói hết sự thật. Ngài không nói điều ǵ sai" (Xem Augustine contra Faustum 22. 34; PL, cuốn 42, cột 422)

C̣n Gerhard con Rad, một học giả cự phách về KinhThánh Cựu ước, trách hành vi này là "cynical, utilitarian consideration.- toan tính bất chấp đạo lư, đầy thủ lợi " (Xem Gerhard con Rad, Genesis, 2nd ed., bản dịch nhuận sắc của John H. Marks, in tại London, Nxb S.C.M. Press Ltd., 1963, trang. 222.) Bible de Jerusalem, bản dịch mới năm 1985, trang 53, phần chú thích cuối trang số b) ghi như sau : “Cette histoire, dont le thème se retrouve en 20 (encore Sara) et 26 1-11, célèbre la beauté de l’aïeule de la race, l’habileté du Patriarche, la protection que Dieu accorde à tous deux. Elle porte la marque d’un âge moral où la conscience ne réprouvait pas toujours le mensonge et où la vie du mari valait plus que l’honneur de la femme . L’humanité, guidée par Dieu, n’a pris de la loi morale qu’une conscience progressive. – Câu chuyện này có chủ đề lập lại ở hai nơi, chương 20 (cũng Sara ) và 26 1 –11, nhằm ca ngợi sắc đẹp của tổ mẫu, nét linh lợi của của Tổ Phụ, và sự bảo vệ Thiên Chúa dành cho cả hai vị. Chuyện tích mang dấu ấn của một giai đoạn luân lư, thời mà lương tâm không phải lúc nào cũng lên án lời nói dối, thời mà mạng sống người chồng có giá trị hơn danh dự người vợ . Được Thiên Chúa hướng dẫn, nhân loại học dần dần quy luật luân lư qua một lương tâm tiệm tiến.

Rất dễ dàng để chê trách Abram không lư ǵ đến an nguy của vợ mà chỉ nghĩ sắc đẹp của bà là đáng kể.

Tuy nhiên chúng ta phải nhớ rằng, cả hai đang rơi vào một nan đề. Họ đang chạy trốn cái chết chắc chắn tại Canaan do nạn đói đang hoành hành, và cả hai đều giả thiết rằng nhan sắc lộng lẫy của Bà sẽ khiến bà bị bắt đi. Bị bắt đi nghĩa là bà chắc chắn c̣n có thể sống. Nan đề c̣n lại là phần Abram, liệu ông có thể sống sót được hay không ? Trong tư cách là “chồng” th́ ông chết chắc. Trong tư cách là “anh” th́ ông có thể sống.

Hai kẻ được kể là chết đói kia có lẽ chẳng c̣n ǵ để mất. Tạm dung để ăn mày thực phẩm nơi đất khách quê người, th́ chủ nhân đ̣i hỏi ǵ nơi ḿnh mà chẳng được. Thói thường, trong hoàn cảnh ngặt ngèo như thế th́ thực phẩm lại càng không phải là món miễn phí. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào ư muốn bất ưng của chủ nhân sông Nil. Nếu Pharaon muốn có thêm một giai nhân vào trong hậu cung của ḿnh, ai có thể từ chối ?

Sau này c̣n có một mẫu đời khác tương tự, đó là câu chuyện của Esther, một thiếu nữ Do thái trong hậu cung hoàng đế Xerxes đế quốc Batư (486-465 TCN) .

Thế ư kiến các Bác thế nào ?

 

Cả hai đang rơi vào một nan đề. Họ đang chạy trốn cái chết chắc chắn tại Canaan do nạn đói đang hoành hành, và cả hai đều giả thiết rằng nhan sắc lộng lẫy của Bà sẽ khiến bà bị bắt đi. Bị bắt đi nghĩa là bà chắc chắn c̣n có thể sống. Nan đề c̣n lại là phần Abram, liệu ông có thể sống sót được hay không ? Trong tư cách là “chồng” th́ ông chết chắc. Trong tư cách là “anh” th́ ông có thể sống.


11-

Chúng ta không thể không thông cảm với Abram. Ông đứng trước một nan đề : Hoặc ông giữ được mạng ḿnh, nhưng với giá phải trả là tiết hạnh của bà vợ Sarah. Hoặc ông liều ḿnh chết, để giữ danh tiết cho vợ . Nhưng dù thế, khi ông chết rồi, bà Sarah cũng bị bắt đi, mà lúc ấy là trong thân phận bà goá Sarah !

Có thể Abram nghĩ tới lời Thiên Chuá hứa, mà lư luận rằng: ông có giữ được mạng sống th́ Lời Chúa hứa mới có cơ thực hiện. Như thế, xét theo quan điểm phàm trần của ông, mạng sống của ông quan trọng cho Lời Hứa hơn là sự trung tín trong hôn nhân của hai ông bà.

Và biết đâu, có thể ông suy cho đến cùng, rằng v́ Lời Chúa đă hứa với “cho ông và con cháu ông” nên, “con cháu của ông” th́ “với ai” cũng được, chứ đâu cứ phải là con cháu của ông có cùng với bà Sarah ! Vả lại, đàng nào th́ Sarah cũng hiếm muộn .

Mà có lẽ hai ông bà đă suy luận như thế thật. V́ bà cũng thuận t́nh với lời đề-nghị-thoạt- nghe-rất-hợp-lư ấy!

Chúng ta có thể trách tại sao Abram lại làm thế ? Ông không tin tưởng vào Thiên Chúa sẽ cúu ông sao? Đức tin của ông đâu ?

Nhưng chúng ta đừng quên rằng Thiên Chúa đă chỉ hứa ban cho con cháu ông được vùng đất tại Canaan kia thôi . Ngài đâu có dặn ông phải đi sang Ai cập ! Ông tự ư đi qua Ai cập mà ! Và Thiên Chúa đâu có hứa “sẽ bảo vệ ông” ?

Hoàn cảnh đưa đẩy sang Ai cập mang thân viễn khách, Abram hẳn nghe biết Ai cập có luật lệ riêng, có các Thần riêng, và Pharaon cùng là một trong số các thần quyền uy ấy.

V́ không biết Vị Chủ Thần của ḿnh có quyền hạn tại Ai cập hay không, nên cách tốt nhất, trong khả năng ḿnh có thể , là giữ cho được mạng sống ḿnh, ít là của chính ḿnh.

Chuyện tráo trở vậy mà thành công . Không những không ai đụng đến ông anh Abram, mà Pharaon c̣n ban cho “anh rể” Abram nhiều quà tặng lấy ḷng:

16 Ule-Avram heytiv ba'avurah vayehi-lo tzon-uvakar vachamorim va'avadim ushfachot va'atonot ugemalim.
And he treated Avram well for her sake, and he acquired sheep, cattle, and male donkeys, male and female slaves, female donkeys and camels.

Bỗng chốc trong một sớm một chiều, Abram giầu lên, như một ông hoàng: có tôi nam tớ nữ, có đàn súc vật, lừa đực, lừa cái và cả lạc đà (xem chú thích 1*) .

Tất cả với cái giá phải trả là nhan sắc và tiết hạnh của bà Sarah.

 


Chú thích (1*)

Sáng thế kư nhắc đến “lạc đà (Camelus dromedarius) tất cả 28 lần ( Stk 12:16; 24; 30:43; 31:17, 34; 32:7, 15; 37:25 ). Nhiều nhà chú giải cho rằng đây là một chi tiết lạc thời . Bright cho rằng tác giả bản văn kể thêm “lạc đà” v́ khoa trương "...để cho câu chuyên thêm thú vị đối với người đọc." ( Xem Bright, John . A History of Israel. In lần ba, London: SCM, 1980, trang 81). V́ theo Seters, lạc đà chỉ mới được thuần hóa sau này, vào thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên (Xem Seters, John van. Abraham In History And Tradition. New Haven: Yale University Press,1975, trang 17).

Nhưng theo Wiseman, lạc đà và lừa đă từng được sử dụng để chuyên chở từ thiên niên kỷ thứ ba trước Công Nguyên, nhưng chỉ được thuần hoá rộng răi vào khoảng năm1500-1250 trước Công Nguyên ( Xem Wiseman, D.J. 1979. "Archaeology & The Old Testament," F.E. Gaebelein, gen.ed. Expositor’s Bible Commentary, Vol. 1. Grand Rapids: Zondervan, trang 316).

C̣n một chi tiết quan trọng khác. Lần đầu tiên KinhThánh nhắc tới “con ngựa” là thời Giuse đang làm quan lớn trong triều Pharaon. (Stk 47:17) Đó là thời điểm thế kỷ 18 đến thế kỷ 16 trước Công Nguyên. Ngựa xuất hiện trong vùng Trung Đông khoảng những năm 2300 trước Công Nguyên. Lúc ấy ngựa là con vật rất được coi trọng và quư giá. Nên nếu một tác giả vào thiên niên kỷ thứ nhất, nếu muốn nhấn mạnh đến sự giầu có của các Tổ phụ hẳn đă phải thêm “ngựa” thay v́ “lạc đà” như trong bản văn trên đây, v́ vào lúc ấy dù sao lạc đă cũng đă thông dụng và b́nh dân hơn. Chứ “ngựa” vẫn c̣n là con vật hiếm và đắt tiền (Xem Millard, Alan R. 1980. "Methods Of Studying The Patriarchal Narratives As Ancient Texts," A.R Millard.& D.J.Wiseman, eds. Essays On The Patriarchal Narratives. Leicester: IVP, trang 50).



Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5 6 7 8

Xem các bài viết khác trong Lớp Ngôn sứ , Khoá 15 GHHV Đà Lạt Việt Nam.