Mạc Như Thụ Nhân

1 2 3 4 5 6 7 8

MichelAnge

 

36-

Thế là buổi tế hiến kết thúc tốt đẹp. Có đổ máu. Nhưng không phải máu trẻ thơ vô tội. Nhưng là máu con cừu do chính Thiên Chúa cung cấp.

Thiên Chúa biết bụng dạ Abraham. Ngược lại, Abraham cũng biết ḷng Thiên Chúa dành cho ông .

Nhưng một biến chuyển quan trọng đă xảy ra.

Trên tế đàn, dường như không có ǵ khác biệt. Isaac chịu nằm trói mà không phản đối. Isaac chịu chết mà không hề mở miệng kêu la, than khóc, hay xin tha mạng.

Chúng ta cứ thử tượng tượng Isaac nằm ngửa, nh́n cánh tay bố ḿnh cầm dao, quả quyết giơ lên, rồi đâm mạnh xuống. Cái chết đến nhanh như tiếng sét.

Nếu Thiên sứ không kêu nhanh hai tiếng “Abraham ! Abraham” vào đúng lúc, th́ hẳn lịch sử đă rẽ sang hướng khác, và đă không có dân tộc Israel .

Trải qua một kinh nghiệm kinh hoàng kề cận cái chết như thế, không ai là không thay đổi. Isaac thay đổi. Tương quan giữa hai bố con, Isaac với Abraham, cũng thay đổi.

Lúc lên núi, hai lần bản văn kể: “vayelchu shneihem yachdav.- And the two of them went together. - họ cùng đi .”

Nhưng sau biến cố, khi xuống núi, Kinh Thánh không hề nhắc tới Isaac có xuống núi hay không, mà chỉ ghi rằng :

19 Vayashov Avraham el-ne'arav vayakumu vayelchu yachdav el-Be'er-sheva vayeshev Avraham biVe'er-sheva.
Avraham returned to his attendants, and they rose and went together to Beer-sheva. Avraham dwelt in Beer-sheva.
Ông Áp-ra-ham trở lại với các đầy tớ của ông; họ đứng dậy và cùng nhau đi đến Bơ-e Se-va. Ông Áp-ra-ham sống ở Bơ-e Se-va. (Stk 22:19)

Điểm đặc biệt thứ hai là, sau đó, hai bố con không hề xuất hiện chung bên nhau, cho đến lúc an táng Abraham. Lúc đó Isaac và Ismael cùng về bên nhau chịu tang Abraham.

Điểm đặc biệt thứ ba, Sáng Thế Kư chỉ nói Isaac ưu sầu v́ thương nhớ mẹ Sarah, (vayinachem Yitzchak acharei imo. Yitzchak was then consoled for the loss of his mother. Stk 24:67) nhưng không hề nói ông khóc v́ thương nhớ cha .

Có lẽ ông khó mà tha thứ cho bố Abraham. Măi lúc an táng Abraham, Isaac mới về mà chịu tang.

 

Điểm đặc biệt thứ hai là, sau đó, hai bố con không hề xuất hiện chung bên nhau, cho đến lúc an táng Abraham. Lúc đó Isaac và Ismael cùng về bên nhau chịu tang Abraham.


Nhưng vết thương tâm lư này chỉ dần dần lành lại, khi chính ông có con và phải biết cách hành xử đối với hai người con của ông sau này.

Ông hiểu và thương bố Abraham hơn khi chính ông bị người con thứ là Giacop lừa đảo để cướp lấy lời Hứa, mà đáng lẽ ông chỉ dành cho Esau.

Khi nhận ra sự thật, lúc ấy, Isaac không giận, nhưng sợ. Toàn thân run lên v́ sợ:

33 Vayecherad Yitzchak charadah gdolah ad-me'od vayomer mi-efo hu hatzad-tza'id vayave li va'ochal mikol beterem tavo va'avarachehu gam-baruch yihyeh.
Yitzchak was seized with a powerful trembling; and said, "Who, then, i she who trapped [deer] and brought it to me? I ate all of it before you came, and I blessed him. He shall be blessed."
Ông I-xa-ác run lên, run bắn người lên và hỏi: "Vậy ai là người đă săn thịt rừng và đem lại cho cha? Cha đă ăn tất cả trước khi con vào. Cha đă chúc phúc cho nó, và dù sao nó vẫn được chúc phúc." (Stk 27:33)

V́ chính lúc ấy ông thấy rằng lời Hứa đă trao về đúng người, ngoài ư muốn của ông.

Esau mất đi lời Hứa, cũng y hệt như chính ông, Isaac, đă tế hiến người con Esau mà ông thương yêu.

Y hệt như xưa kia, bố ông, Abraham, đă tế hiến ông trên ngọn Moriah !

V́ thế mà ông “run lên, run bắn người lên.”

Giờ th́ ông mới hiểu và thông cảm cho ḷng Abraham, và tha thứ cho cha ông.

Ngay sau đó ông vượt qua được chính ông. Ông vươn lên như một cổ thụ, xứng đáng với phong thái của tổ phụ. Ông ra lệnh cho Giacop không được lấy phụ nữ bản xứ Canaan làm vợ, mà phải t́m vợ nơi quê cha đất tổ.

Sau đó, và chỉ sau lúc đó, khi Giacop-Rebecca đă thành toàn vợ chồng, Isaac, trong tư thế tổ phụ của ḿnh, long trọng nói chuyển lời chúc tổ phụ của Abraham lên trên Giacop .

Chúng ta hăy nghe ông gần như lập lại lời chúc của Abraham :
3 Ve'Kel Shakai yevarech otcha veyafrecha veyarbecha vehayita lekehal amim.
May the Almighty, Shakai, bless you, make you fruitful and multiply you. May you become an assembly of peoples.
4 Veyiten-lecha et-birkat Avraham lecha ulezar'acha itach lerishtecha et-eretz megureycha asher-natan Elokim le-Avraham.
May He give you the blessing of Avraham, to you and to your descendants with you, that you may inherit the land of your dwelling which G-d gave to Avraham."
Xin Thiên Chúa toàn năng chúc phúc cho con, xin Người làm cho con sinh sôi nảy nở thật nhiều, để con trở nên một cộng đồng nhiều dân nước.4 Xin Người ban cho con và ḍng dơi con phúc lành của ông Áp-ra-ham, để con chiếm hữu miền đất con đang trú ngụ, là miền đất Thiên Chúa đă ban cho ông Áp-ra-ham." (Stk 28:3-4)

Đây là hành vi cuối cùng của Isaac, và là những lời nói cuối cùng của Isaac mà chúng ta nghe được trong Kinh Thánh.

Chữ cuối cùng mà chúng ta nghe được từ miệng ông, đó là tên “Abraham”, cha của ông.

Và của chúng ta.

Chữ cuối cùng mà chúng ta nghe được từ miệng ông Isaac, đó là tên “Abraham”, cha của ông. Và của chúng ta.


37-

Vài ư mọn thay cho lời kết .

Sau khi được Thiên Chúa gọi để làm tổ phụ một dân tộc mới, Abraham được chính Thiên Chúa giáo dục và trắc nghiệm thử thách, để rèn luyện ông đủ bản lănh thành của một tổ phụ.

Sau cuộc thử thách tại đồi Moriah. Abraham chỉ c̣n lại đôi việc phải làm .

Ông bỏ tiền mua cái hang tại Machpelah, để làm nghĩa trang cho gia tộc ḿnh. Qua hành vi này, ông chính thức làm sở hữu chủ vùng đất mà Thiên Chúa hứa ban cho con cháu ông .

Mảnh đất nghĩa trang này, mà chúng ta cũng gọi là Đất Thánh, là bằng cớ vật lư cụ thể cho con cháu ông, sau 450 năm lưu đày bên Ai cập, trở về để dành lại chủ quyền .

Sau đó ông lo liệu việc cưới vợ cho Isaac. Qua Rebecca, một người vợ đúng nghiă “vợ” mà ông đă học được qua nhiều thăng trầm với Sarah, ông yên tâm v́ nhận ra được rằng nàng dâu Rebecca đủ bản lănh và xứng đáng với vai tṛ tổ mẫu để chuyển đạt truyền thống gia đ́nh cho thế hệ sau .

Yên tâm và vững ḷng, Abarahn xuôi tay nhắm mắt .

7 Ve'eleh yemei shnei-chayei Avraham asher-chai me'at shanah veshiv'im shanah vechamesh shanim.
These are the days of the years of Avraham which he lived, one hundred years, seventy years and five years.
Vayigva vayamot Avraham beseyvah tovah zaken vesavea vaye'asef el-amav.
Avraham expired and died in a good old age, old and satisfied, and he was gathered to his people.
Ông Áp-ra-ham sống thọ một trăm bảy mươi lăm tuổi 8 rồi tắt thở. Ông qua đời khi đă cao niên, đă sống tuổi già hạnh phúc và được măn nguyện; và ông được về sum họp với gia tiên.

Thiên Chúa gọi ông lúc ông 75 tuổi. Ông mất lúc 175 tuổi. Một trăm năm miệt mài theo Chúa. Và một trăm năm Thiên Chúa miệt mài giáo dục ông. Bách niên chi kế.

Trong đời này chưa hề có kế hoạch nào mà thành công như thế.

Nguyễn đức Khang
Ngày 29 tháng 11 năm 2006



Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5 6 7 8

Xem các bài viết khác trong Lớp Ngôn sứ , Khoá 15 GHHV Đà Lạt Việt Nam.