Mạc Như Thụ Nhân

1 2 3 4 5 6 7 8

MichelAnge

 

20-

Tản mạn thêm một chút về đôi đặc tính của con người Yitzchak.

Nhà cháu đă có bài tản mạn về đôi nét cuộc đời Isaac và Rebecca. (Xem chú thích 6*) Ở đây chúng ta chỉ nói thêm một vài điểm liên quan đến cái tên của Vị tổ phụ suưt-chết-non này .

Yitzchak là tổ phụ duy nhất mà tên không bị thay đổi. Bố Abram được đổi tên thành Abraham, có nghĩa là “Av Hamon Goyim - Cha của đông đảo dân tộc” (Stk 17:5). Giacop, sau khi vật lộn với một người lạ mặt suốt đêm tại khúc sông cạn Jabbok, được đổi tên thành “Yisrael – Kẻ chế ngự”.

C̣n Yitzchak, sinh ra là Yitzchak, và chết cũng là Yitzchak. Căn cước không thay tên đổi họ.

Tên ông gắn liền với một biến cố và thái độ của hai ông bà cụ thân sinh. Cả hai đă bật cười lúc nghe báo tin “lăo bạng sinh châu” .

Khi ông chưa sinh ra, tên ông đă được nhắc xa nhắc gần đến bốn lần ( Stk 17:17, 19; 18:10-12) Khi bà cụ Sarah sinh ông, bà hân hoan tuyên bố : “Vatomer Sarah tzechok asah li Elokim kol-hashomea yitzachak-li. Sarah said, "G-d has given me laughter. All who hear will laugh with me.
- Bà Xa-ra nói: "Thiên Chúa đă làm cho tôi cười; tất cả những ai nghe biết sẽ cười tôi."( Stk 21:6)

Cười là thế, vui là thế, nhưng khi bà Sarah thấy Yismael, đứa con của tỳ nữ Hagar đang cười nhạo – metzachek”, th́ tiếng cười của Yisma’el khiến bà nhớ tới lời Hứa, mà bực ḿnh đề nghị đuổi hai mẹ con cô Hagar đi.

9 Vatere Sarah et-ben-Hagar haMitzrit asher-yaldah le-Avraham metzachek.
Sarah saw that the son of Hagar, the Egyptian, that she had born to Avraham, was mocking. - Bà Xa-ra thấy đứa con mà Ha-ga, người Ai-cập, đă sinh ra cho ông Áp-ra-ham, đang cười giỡn.

10 Vatomer le-Avraham garesh ha'amah hazot ve'et-benah ki lo yirash ben-ha'amah hazot im-beny im-Yitzchak.
She said to Avraham, "Drive out this slave-woman and her son, for the son of this slave woman will not inherit with my son, with Yitzchak."
Bà nói với ông Áp-ra-ham: "Ông hăy đuổi hai mẹ con đứa nữ tỳ này đi, v́ con trai đứa nữ tỳ không được thừa kế cùng với I-xa-ác, con trai tôi."

Cười nhạo–“metzachek” không thể chung sống với “cười tươi -Yitzachak”

Tuy hai anh em lúc bắt đầu lớn lên đă chia ĺa nhau, và sau đó Kinh thánh không hề nói thêm về phận số của hai mẹ con Yisma’el, nhưng khi ông Abraham mất, Yisma’el có về chịu tang, cùng với Yitzchak :

“Vayikberu oto Yitzchak veYishma'el banav el-me'arat haMachpelah el-sedeh Efron ben-Tzochar hachitti asher al-penei Mamre.
- His sons Yitzchak and YIshmael buried him in the Machpelah cave, in the field of Efron, son of Tzochar, the Chitti, which faces Mamre.
- Các con ông I-xa-ác và Ít-ma-ên chôn cất ông trong hang Mác-pê-la, (Stk 25:9)

Như thế dù anh em sống xa nhau, dù cha mẹ phân ly, nhưng dường như Yitzchak vẫn không xa anh Yisma’el. Hai anh em đă cộng tác với nhau trong việc chôn cất bố Abraham .

Cả hai bố con vừa trải qua môt cuộc thử thách khủng khiếp. Cả hai cùng lên núi. Yitzchak vác củi. Nhưng lúc xuống núi trở về th́ chỉ nhắc đến một ḿnh Abraham. Vậy Yitzchak đâu ? Dường như cuộc hiến tế đă thay đổi tận căn con người Yitzchak. Ông hiểu ra được lẽ tử sinh. Ông nghiệm ra được sự kề cận của vị Thiên Chúa của gia tộc ḿnh, tuy vô h́nh, nhưng luôn gần gũi.


Nhưng có một chi tiết quan trọng không thế bỏ sót khiến chúng ta thấy rơ hơn nét đặc biệt trong đời của Yitzchak.

Sau cuộc tế hiến hụt trên Núi Moriah, thay v́ tế con, Abraham đă hiến tế con cừu đực cho Thiên Chúa. Hai bố con xuống núi trở về. Kinh thánh chỉ đơn giản ghi :

19 Vayashov Avraham el-ne'arav vayakumu vayelchu yachdav el-Be'er-sheva vayeshev Avraham biVe'er-sheva.
Avraham returned to his attendants, and they rose and went together to Beer-sheva. Avraham dwelt in Beer-sheva.
Ông Áp-ra-ham trở lại với các đầy tớ của ông; họ đứng dậy và cùng nhau đi đến Bơ-e Se-va. Ông Áp-ra-ham sống ở Bơ-e Se-va.

Không hề nhắc đến Yitzchak một mảy may. Bản văn chỉ nói “Abraham trở lại với các đầy tớ”. Làm như Yitzchak không c̣n ở đó nữa! Y hệt như là dù Yitzchak không chết trong cuộc tế hiến, v́ đă có con cừu thế mạng, Yitzchak cũng không c̣n hiện hữu trên đời này nữa vậy.

Cả hai bố con vừa trải qua môt cuộc thử thách khủng khiếp. Cả hai cùng lên núi. Yitzchak vác củi. Nhưng lúc xuống núi trở về th́ chỉ nhắc đến một ḿnh Abraham. Vậy Yitzchak đâu ?

Dường như cuộc hiến tế đă thay đổi tận căn con người Yitzchak. Ông hiểu ra được lẽ tử sinh. Ông nghiệm ra được sự kề cận của vị Thiên Chúa của gia tộc ḿnh, tuy vô h́nh, nhưng luôn gần gũi.

Nên ông sống đời nội tâm nhiều hơn mọi người khác. Ông sống trong trần thế này nhưng ḷng trí vẫn bận rộn với thế giới bên kia. V́ thế mà khi xuống núi Moriah, ông trở về sống tại “Be'er-lachai-ro'i” Tên điạ danh lạ lùng này có nghĩa là - Well of the Living One appearing to me - Giếng nước Đấng Hằng Sống đă hiện ra cho tôi”. Đó là nơi mà mẹ con người anh cùng cha, Yisma’el, đă từng thấy Đấng Vô H́nh .

13 Vatikra shem-HASHEM hadover eleyha atah El Ro'i ki amerah hagam halom ra'iti acharei ro'i.
She called the Name Hashem Who had spoken to her: "You are Almighty Who sees," for she said: "Have I also seen here [a vestige] after He saw me."
14 Al-ken kara labe'er Be'er-lachai-ro'i hineh veyn-Kadesh uvein Bared.
Therefore the well was called: "Be'er Lachai Ro'i (Well of the Living One appearing to me);" it is between Kadesh and Bared.

V́ thế ông thường xuyên tiếp xúc với vị Thiên Chúa của gia tộc, sống trong trần thế này nhưng tâm trí cứ như phiêu diêu trong cơi vô h́nh .

Mẹ mất, ông cứ măi thương nhớ mẹ cả gần ba năm, tuy đă là thanh niên ba mươi mấy tuổi. Chuyện vợ con cũng do người khác lo toan cho. Ông có để ư ǵ đến đâu vậy ?

Khi người nô bộc dẫn cô, Rebecca, vợ chưa cưới về, th́ đó là lúc mà ông đang từ chỗ giếng “Be’er-Lachai –Roi” này đi lang thang ngoài đồng. Kinh Thánh nói lúc đó ông đang đi để cầu nguyện :

62 VeYitzchak ba mibo Be'er-lachai-ro'i vehu yoshev be'eretz haNegev.
Yitzchak had just come from the well [called] Lachi Ro'i for he lived in the land of the Negev.
63 Vayetze Yitzchak lasuach basadeh lifnot arev vayisa eynav vayar vehineh gemalim ba'im.
Yitzchak went out to meditate in the field towards evening. He raised his eyes and suddenly saw camels approaching. (Stk 24:62-63)

Có ai lạ đời như ông không ? Vợ sắp cưới về mà c̣n đang cầu nguyện, như một thầy ḍng ẩn tu ?

 

Khi người nô bộc dẫn cô, Rebecca, vợ chưa cưới về, th́ đó là lúc mà ông đang từ chỗ giếng “Be’er-Lachai –Roi” này đi lang thang ngoài đồng. Kinh Thánh nói lúc đó ông đang đi để cầu nguyện. Có ai lạ đời như ông không ? Vợ sắp cưới về mà c̣n đang cầu nguyện, như một thầy ḍng ẩn tu ?


Bận suy tư, lo chiêm niệm, ông ít để ư đến chuyện nhà. Đến khi đứa con trai đầu, Esau, lấy vợ người địa phương trái với tập tục gia đ́nh, ông cũng chẳng can ngăn hay dàn xếp trước. Hai cô dâu này gây cho hai ông bà nhiều phiền muộn cay đắng, hai ông bà chỉ đành chịu: “Khi Ê-xau được bốn mươi tuổi th́ lấy hai người vợ là Giu-đi-tha, con gái ông Bơ-ê-ri người Khết, và Ba-xơ-mát, con gái ông Ê-lôn người Khết.35 Hai người phụ nữ này làm cho ông I-xa-ác và bà Rê-bê-ca phải cay đắng trong ḷng.” (Stk 26:34-35)

Có đôi mắt, nhưng không bận tâm nh́n cuộc đời này, chỉ lo chiêm ngắm, nên lúc luống tuổi, ông bị mù.

Chỉ có hai chi tiết cho thấy đời ông tươi vui. Đó là lúc nào ông cũng thành công trong việc đào giếng. Trong vùng sa mạc đất đai khô cằn, th́ giếng nước là nguồn sống. Có một cái giếng nước là hơn cả một kho tàng. Chiến tranh cũng v́ giành giếng nước. Giếng phải đào sâu và thật khó mới trúng được mạch nước .

Vây mà trước sau ông đào ít nhất được bốn cái giếng : Hai cái đầu, mang tên “Esek - Tranh chấp” ( Stk 26:19) và “Sitnah - Lấp che” đều bị người địa phương tranh giành . Đến cái giếng thứ ba, người ta không tranh chấp nữa, ông đặt tên là “Rechovot – Mênh mông .” Cái giếng thứ tư ông đặt tên là Shiva . (Stk 26-25,32) .

Nhưng những cái giếng chưa chắc làm đời ông vui bằng bà Rebecca. Khi gặp bà lần đầu tiên, ông nguôi ngoai ngay lập tức nỗi buồn mất mẹ.

Khi xảy ra nạn đói tại vùng đó, câu chuyện đời bố Abraham được ông bắt chước, hai ông bà lưu lạc xuống vùng Gerar của vua Abimelech, vua người Philitinh. Khi người dân địa phương hỏi ông Rebecca là ai. Ông nói : “Achoti - Nàng là em tôi”. Ông sợ chết như bố ông, Abraham, đă từng sợ trong trường hợp tương tự. V́ Rebecca cũng là cô gái đẹp .

7 Vayish'alu anshei hamakom le'ishto vayomer achoti hi ki yare lemor ishti pen-yaharguni anshei hamakom al-Rivkah ki-tovat mar'eh hi.
[When] the local men asked about his wife, he said, "She is my sister." He was afraid to say, "]she is] my wife, lest the local men kill me for Rivkah, for she is so good looking."

Chuyện cũ tái diễn. Nhưng lần này chính cái cười của ông đă cứu ông

8 Vayehi ki archu-lo sham hayamim vayashkef Avimelech melech Pelishtim be'ad hachalon vayar vehineh Yitzchak metzachek et Rivkah ishto.
Once, after [Yitzchak] had been there a long while, Avimelech, king of the Pelishtim, looked out the window, and he saw, and behold, Yitzchak was amusing himself with Rivkah, his wife.
9 Vayikra Avimelech le-Yitzchak vayomer ach hineh ishtecha hi ve'eych amarta achoti hi vayomer elav Yitzchak ki amarti pen-amut aleyha.
Avimelech called Yitzchak and he said, "But she is your wife. How could you have said, 'She is my sister'?" Yitzchak said to him, "Because I said, 'I might die because of her."'

Nh́n qua cửa sổ, vua Abimelech thấy ông cười giỡn với Rebecca. Vua nhận ra sự thật .

Cùng là chuyện hy hữu và thú vị, người mang tên Yitzchak - Nguyễn văn Sẽ-Cười, bây giờ nhờ “metzachek et Rivkah ishto.- cười giỡn với Rebecca vợ ḿnh”, không những được toàn mạng mà c̣n giữ được tiết hạnh cho vợ và bảo vệ hạnh phúc gia đ́nh.

Các Bà ơi tối nay, mau giở Kinh Thánh sách Sáng Thế kư chương 26, đọc các câu 6- 12 . cho các ông nghe mà bắt chướcYitzchak, metzachek - cười giỡn với vợ ḿnh.

Coi chừng lại sinh đôi như Isaac, nghen bà con !

21-

Bây giờ, chúng ta hăy trở lại ḍng tư tưởng chính

Măi cho đến 25 năm sau lần Thiên Chúa gọi đầu tiên, cụ ông cụ bà Abraham-Sarah mới thực sự có đứa con do hai người sinh ra. Bài học về vợ chồng đồng công đồng trạng trong việc thừa hưởng lời Hứa kéo dài 25 năm quả là ... lâu. Đủ lâu để làm nản ḷng rất nhiều người (Xem chú thích 7*).

Không chỉ thời gian đă lâu, mà các bài học, và thử thách kèm theo, cũng đa dạng. Huấn luyện một con người để trở thành tổ phụ của đông đảo dân tộc hẳn đ̣i hỏi nhiều công sức và nhẫn nại. Chức phân cao đ̣i hỏi bản lănh phải cao. Và kinh nghiệm cũng cần phải dồi dào và đa dạng .

Sau khi tiên báo trong một năm nữa đứa con Yitzchak của hai ngướ sẽ ra đời, Thiên Chúa nâng Abarham lên một cấp độ mới, thành người bạn của Thiên Chúa và học làm quan toà cầm cân nảy mực giữa công b́nh và chính trực.

Bài học sẽ khiến cho Abraham có một cái nh́n mới thế giới. Ông sẽ biết rằng, làm cha con cái trong một gia đ́nh khác hẳn với tư thế làm cha của đông đảo các dân tộc trên thế giới.

Ông phải học bài học về số phận của hai thành Sodom và Gomorrah (Stk 18:17tt)

Thiên Chúa khai mào bài học bằng cách tư lự, phân vân. Nghĩa là Ngài coi trong Abraham lắm, nên mới tỏ vẻ phân vân như thế. Ngài nghĩ đi, rồi Ngài nghĩ lại.

Có hai điều chúng ta thấy được ở đây: Thứ nhất, Thiên Chúa coi trọng Abarham, chọn ông làm bạn tâm giao, nên mới chia xẻ điều sắp làm với ông.

Thứ hai, Ngài cố ư cho Abraham biết Ngài đang phân vân .

17 Va'HASHEM amar hamechaseh ani me'Avraham asher ani oseh.
HASHEM said, "Shall I conceal from Avraham what I am about to do?
Yahvé s'était dit : Vais-je cacher à Abraham ce que je vais faire,
ĐỨC CHÚA phán: "Ta có nên giấu Áp-ra-ham điều Ta sắp làm chăng?

Nên nhớ lúc đó, có Abarahm cùng đi theo để tiễn chân ba người khách tới báo tin tại cây sồi ở Mambré (Stk 18:1-16). Nghĩa là có Abraham bên cạnh.

Không biết Thiên Chúa có “phân vân” to tiếng không, nhưng chúng ta có thể đoán chắc Ngài nói điều phân vân ấy ra, và Abraham quả thực đă nghe và đă học được bài học này ngay. V́ sau này chính Abraham bắt chước Ngài, đă kỳ nèo để buộc Thiên Chúa suy đi rồi nghĩ lại .

18 Ve'Avraham hayoh yihyeh legoy gadol ve'atzum veniverechu-vo kol goyei ha'aretz.
Avraham is indeed to become a great and mighty nation, and through him shall be blessed all the nations of the world.
alors qu'Abraham deviendra une nation grande et puissante et que par lui se béniront toutes les nations de la terre ?
Áp-ra-ham sẽ trở thành một dân tộc lớn mạnh và mọi dân tộc sẽ được chúc phúc nhờ nó.

19 Kiyedativ lema'an asher yetzaveh et-banav ve'et-beyto acharav veshameru derech HASHEM la'asot tzedakah umishpat lema'an havi HASHEM al-Avraham et asher-diber alav.
For I have given him special attention because he commands his children, and his household after him, and they will preserve the way of HASHEM, doing charity and justice, so that HASHEM will bring upon Avraham all that which He has spoken of him."
Car je l'ai distingué, pour qu'il prescrive à ses fils et à sa maison après lui de garder la voie de Yahvé en accomplissant la justice et le droit; de la sorte, Yahvé réalisera pour Abraham ce qu'il lui a promis.
Thật vậy, Ta đă chọn nó, để nó truyền cho con cái nó và gia tộc nó sau này phải giữ đường lối của ĐỨC CHÚA mà thực hiện điều công minh chính trực; như thế ĐỨC CHÚA sẽ làm cho Áp-ra-ham điều Người đă phán về nó."

Bài học sẽ khiến cho Abraham có một cái nh́n mới thế giới. Ông sẽ biết rằng, làm cha con cái trong một gia đ́nh khác hẳn với tư thế làm cha của đông đảo các dân tộc trên thế giới. Ông phải học bài học về số phận của hai thành Sodom và Gomorrah


Đọc lại hai câu trên, chúng ta thấy Ngài nhắc lại Lời Hứa, nhắc lại sự tuyển chọn của Ngài, nhất là nhắc lại mục đích của bài học “la'asot tzedakah umishpat - doing charity and justice - en accomplissant la justice et le droit - thực hiện điều công minh và điều chính trực.

Ngài tỏ cho Abraham biết điều Ngài sắp làm, và chờ đợi Abarham lên tiếng “đôi co” với Thiên Chúa .

Mà điều tuyệt diệu là Thiên Chúa muốn Abarahm “đôi co” , để sau này chính Abraham dạy lại cho con cháu của ông, nghĩa là chính chúng ta, “biết thực hiện điều công minh và điều chính trực.”

Ngài muốn Abraham, sau khi có một lương tâm luân lư ngay thẳng, c̣n phải biết biện biệt, xét đoán theo lẽ công minh và theo điều chính trực.

Bằng cách nào ?

Ngài không những muốn Abraham biết cách Ngài phán xét Sodom và Gomorrah, mà Ngài c̣n muốn Abraham biết rằng Ngài phán xét như thế là đúng đắn.

Hơn nữa Ngài muốn Abraham cộng tác vào vai tṛ quan ṭa, như một người bồi thẩm, cùng chịu trách nhiệm với Thiên Chúa trong việc đoán phạt.

Abraham đang học bài học về ngành tư pháp.

Thiên Chúa bắt đầu bài học. Ngài nói to cho Abraham biết nội vụ : Công tố viện bắt đầu kết án

20 Vayomer HASHEM za'akat Sedom va'Amorah ki-rabah vechatatam ki khavedah me'od.
[Thus] HASHEM said, "The wailing concerning Sedom and 'Amorah is so great, and their sin is so very grave.

21 Erdah-na ve'er'eh haketza'akatah haba'ah elay asu kalah ve'im-lo eda'ah.
I will descend now and see, if their wailing which has come to Me is indicative of their conduct; destruction [shall come upon them]. If not I will know."
ĐỨC CHÚA phán: "Tiếng kêu trách Xơ-đôm và Gô-mô-ra thật quá lớn! Tội lỗi của chúng quá nặng nề! 21 Ta phải xuống xem thật sự chúng có làm như tiếng kêu trách đă thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết."

Tiếng kêu trách bất công từ hai thành vọng thấu tai Thiên Chúa . Nhưng Ngài không xét xử dựa trên những ǵ chỉ “nghe” nói, mà Ngài đích thân xuống tận hiện trường xem thực hư “Erdah-na ve'er'eh - I will descend now and see,” . Nghĩa là dựạ trên những điều chính Ngài đă tai nghe mắt thấy, dựa trên nhân chứng vật chứng !

Nghe thế Abraham can thiệp ngay :

23 Vayigash Avraham vayomar ha'af tispeh tzaddik im-rasha.
Avraham came forward and said, "Will You ]actually] destroy the righteous with the wicked?

24 Ulay yesh chamishim tzaddikim betoch ha'ir ha'af tispeh velo-tisa lamakom lema'an chamishim hatzaddikim asher bekirbah.
Suppose there are fifty righteous people in the midst of the city. Would You still destroy it, and not bear with the place for the sake of the fifty righteous people inside it.

25 Chalilah lecha me'asot kadavar hazeh lehamit tzaddik im-rasha vehayah hatzaddik karasha chalilah lach hashofet kol-ha'aretz lo ya'aseh mishpat.
It would be sacrilege [to attribute] to You such an act, to kill the righteous with the wicked, treating the righteous and the wicked alike. It would be sacrilege to attribute this to You: Shall the Judge of all the earth not do justice?"

Abraham “lại gần và thưa: "Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao ?

Khác với những lần trước, lần nay Abraham đề cập ngay vào vấn đề. Ông không c̣n sợ sệt hay e dè như trước kia. Sau khi biết ḿnh sẽ có con, xem chừng ông mạnh dạn hơn xưa. T́nh cảm giữa ông và Thiên Chúa gắn bó hơn. Ông mạnh dạn hơn khi ngỏ lời với Thiên Chúa. Như một người bạn thân.

Ông không nhập đề lung khởi, cũng chẳng xin lỗi trước v́ đă cả gan can thiệp vào “chuyện” của Thiên Chúa.

22-

À mà có điều lư thú. Thiên Chúa chưa hề nói ḿnh sẽ phạt hay không phạt Sodom và Gomorrah. Đành rằng “tội lỗi của chúng quá nặng nề” nhưng Ngài mới chỉ cho biết đích thân xuống xem xét sự t́nh t́nh ra sao thôi.

"Tiếng kêu trách Xơ-đôm và Gô-mô-ra thật quá lớn! Tội lỗi của chúng quá nặng nề! 21 Ta phải xuống xem thật sự chúng có làm như tiếng kêu trách đă thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết."

Vây mà Abarahm đă thấy ra h́nh phạt. Ông dùng chữ “tiêu diệt” "ha'af tispeh tzaddik im-rasha.- Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao?

Như vậy thoạt đầu, trong tâm trí, Abarahm đă nghĩ tới công lư, công đạo - justice, chứ không phải cảm thông hay thương xót.

Và lư thú hơn nữa là, khi nói thêm :

24 Ulay yesh chamishim tzaddikim betoch ha'ir ha'af tispeh velo-tisa lamakom lema'an chamishim hatzaddikim asher bekirbah.
Suppose there are fifty righteous people in the midst of the city. Would You still destroy it, and not bear with the place for the sake of the fifty righteous people inside it.
Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, v́ năm mươi người lành trong đó sao?
Peut-être y a-t-il cinquante justes dans la ville. Vas-tu vraiment les supprimer et ne pardonneras-tu pas à la cité pour les cinquante justes qui sont dans son sein ?

ông chỉ ám chỉ đến MỘT thành mà thôi “ha’ir - the city – dans la ville ” .

Ông lại không nói ra tên thành đó ra là thành nào, trong khi Thiên Chúa nói rơ tên hai thành là Sodom và Gomorrha !

Thành đó là thành nào mà Abraham ám chỉ đến ? Và tại sao vậy ? Các Bác đoán thử xem ?

Thiên Chúa không cần đoán như chúng ta. Ngài biết trong đầu Abraham nghĩ đến thành nào. Trong những câu kế tiếp, Ngài nói tên thành đó ra.

Abraham tiếp tục biện hộ :

25 Chalilah lecha me'asot kadavar hazeh lehamit tzaddik im-rasha vehayah hatzaddik karasha chalilah lach hashofet kol-ha'aretz lo ya'aseh mishpat.
It would be sacrilege [to attribute4] to You such an act, to kill the righteous with the wicked, treating the righteous and the wicked alike. It would be sacrilege to attribute this to You: Shall the Judge of all the earth not do justice?"

Thiên Chúa nói huỵch toẹt tên thành :

26 Vayomer HASHEM im-emtza viSedom chamishim tzaddikim betoch ha'ir venasati lechol-hamakom ba'avuram.
HASHEM said: "If, in Sedom, I find fifty righteous within the city, I will bear with the entire place for their sake."
"Nếu Ta t́m được trong thành Xơ-đôm năm mươi người lành, th́ v́ họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó."

Sodom là thành có Lot, cháu của Abraham, đang cư ngụ .

Cả hai, bây giờ, đều nói cùng một tần số.

Như vậy nếu chúng ta chỉ cho rằng Abraham nài nỉ xin/cầu bầu Thiên Chúa tha không tiêu diệt cả thành v́ trong đó có 50, 40, 30 người công chính trong thành, là chúng ta đă nh́n trật một chút.

Dĩ nhiên, trong quá khứ, Abraham đă từng huy động 318 gia đinh của ḿnh, nhập cuộc chiến tranh binh lửa, để cứu cháu Lot ra khỏi tay giam giữ của bốn vị vua, th́ bây giờ Abraham chẳng thể nào ngồi yên nh́n cháu Lot sắp lâm hoạ diệt vong mà không cứu giúp.

Lot là cái nguyên do, cái cớ, đồng thời cũng là mục đích để Abraham biện hộ can thiệp. Việc công việc tư đôi đàng toàn vẹn .

 

Abraham chú trọng đến nguy cơ người công chính bị phạt oan uổng. Người luật sư già của chúng ta không lư luận rằng kẻ xấu nên được tha thứ, bỏ qua v́ ḷng thương xót, nhưng nhấn mạnh rằng người công chính không nên bị phạt lây v́ kẻ dữ.


23-

Nhưng dù không cho Lot là mục tiêu mà Abraham muốn biện hộ để cứu, th́ luật sư Abraham đă đứng trên quan điểm “công chính cá nhân” để bào chữa. Nghĩa là luật sư Abraham lư luận: “Nếu một người sống công chính th́ người ấy được ǵ ?

Nói cách khác, cụ thể hơn, là trong trường hợp Sodom đây, th́ Abraham chú trọng đến nguy cơ người công chính bị phạt oan uổng. Người luật sư già của chúng ta không lư luận rằng kẻ xấu nên được tha thứ, bỏ qua v́ ḷng thương xót, nhưng nhấn mạnh rằng người công chính không nên bị phạt lây v́ kẻ dữ.

25 Chalilah lecha me'asot kadavar hazeh lehamit tzaddik im-rasha vehayah hatzaddik karasha chalilah lach hashofet kol-ha'aretz lo ya'aseh mishpat.
It would be sacrilege [to attribute] to You such an act, to kill the righteous with the wicked, treating the righteous and the wicked alike. It would be sacrilege to attribute this to You: Shall the Judge of all the earth not do justice?"

Mà có khi Abraham đă không hoàn toàn vô vị lợi trong lập luận của ḿnh. Có lẽ, khi đôi co, kỳ nèo trả giá với Thiên Chúa, ông muốn biết rằng, suốt đời sống công chính, ông có được đền bù như đă hứa ? Nếu Thiên Chúa, vị Thần ông mới làm quen 25 năm qua, mà xốc nổi, hời hợt, th́ hẳn ông có cố sống công chính suốt đời cũng bằng thừa. có khi ông c̣n bị chịu phạt lây một cách bất công, hay không được tưởng thưởng xứng đáng, đúng mức .

Chúng ta c̣n có thể nh́n ra được những vấn đề to lớn hơn liên quan đến tương giao giữa ông và Thiên Chúa, cũng như có ảnh hưởng quan yếu đến tư cách làm “tổ phụ đông đảo dân tộc” của ông. Trong những biện hộ mà luật sư Abraham đă đưa ra, ông c̣n muốn biết việc xét xử của Thiên Chúa có giống với việc đoán xét của loài người, nghĩa là người tốt có được giầu có sung túc,vận mệnh hanh thông, và kẻ xấu có bị kéo lê đời sống vất vưởng khốn khổ hay không .

Sự công chính của Thiên Chúa, xét theo nhăn quan loài người, có độc đoán, thất thường hay hời hợt không ? Nghĩa là có thể hết ḷng tin tưởng phó thác trọn đời sống ḿnh cho Ngài hay không ?

V́ thế ông muốn biết rơ, cho thật rơ, rằng người công chính có bị phạt chung với kẻ dữ hay không ?

25 Chalilah lecha me'asot kadavar hazeh lehamit tzaddik im-rasha vehayah hatzaddik karasha chalilah lach hashofet kol-ha'aretz lo ya'aseh mishpat.
It would be sacrilege [to attribute] to You such an act, to kill the righteous with the wicked, treating the righteous and the wicked alike. It would be sacrilege to attribute this to You: Shall the Judge of all the earth not do justice?"

Nhưng đồng thời, đứng về phía Thiên Chúa mà xét, điều Abraham muốn biết chắc trên đây, cũng chính là điều Thiên Chúa muốn dạy bảo cho học sinh Abraham thấu triệt .

Khi Abraham lên tiếng can gián, Thiên Chúa biết ngay Abraham mơ hồ biết rằng giữa một cá nhân công chính và thành phố tốt lành người đó ngụ cư, hẳn phải có một tương quan. Ông tiên cảm rằng, nếu xét đoán chung cả một thành, th́ hậu quả sẽ bất công đối với các cá nhân công chính trong thành đó, v́ sẽ có vài người công chính chịu h́nh phạt oan uổng v́ thành.

V́ thế ông bắt đầu biện hộ từ điểm này: tránh nhắc đến số phận của toàn thành mà chỉ nhấn mạnh rằng vài kẻ công chính sẽ bị phạt oan nếu phạt cả thành ! “lehamit tzaddik im-rasha -, to kill the righteous with the wicked”

Ông nói thêm: Chẳng lẽ “hashofet kol-ha'aretz lo ya'aseh mishpat. Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao?

Với ông, “xét xử công minh” là trả lại cho mỗi người điều họ đáng được và chỉ những ǵ họ đáng được mà thôi.

25 Chalilah lecha me'asot kadavar hazeh lehamit tzaddik im-rasha vehayah hatzaddik karasha chalilah lach hashofet kol-ha'aretz lo ya'aseh mishpat.
It would be sacrilege [to attribute] to You such an act, to kill the righteous with the wicked, treating the righteous and the wicked alike. It would be sacrilege to attribute this to You: Shall the Judge of all the earth not do justice?"

24-

Ngược lại, Thiên Chúa tỏ vẻ bận tâm tới cả thành cùng những sự ác độc trong đó hơn là những cá nhân công chính. Nhưng Ngài vẫn chấp nhận lắng nghe Abraham tỏ bày nỗi bất b́nh nhân danh những người công chính. Để giáo dục ông .

Khi nghe Abraham biện hộ nhân danh 50 người công chính

24 Ulay yesh chamishim tzaddikim betoch ha'ir ha'af tispeh velo-tisa lamakom lema'an chamishim hatzaddikim asher bekirbah.
Suppose there are fifty righteous people in the midst of the city. Would You still destroy it, and not bear with the place for the sake of the fifty righteous people inside it.
Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, v́ năm mươi người lành trong đó sao?

Ngài chấp nhận tha cho thành v́ năm mươi người ấy :
26 Vayomer HASHEM im-emtza viSedom chamishim tzaddikim betoch ha'ir venasati lechol hamakom ba'avuram.
HASHEM said: "If, in Sedom, I find fifty righteous within the city, I will bear with the entire place for their sake."
"Nếu Ta t́m được trong thành Xơ-đôm năm mươi người lành, th́ v́ họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó."

Nhưng Ngài kín đáo nhắc cho Abarahm nghĩ tới toàn bộ vấn đề. Ngài nhấn mạnh đến chữ “tất cả - lechol

Khi tiếp tục biện hộ, Abraham dùng lại chữ “et-kol-ha'ir- tất cả thành” , nhưng rơ ràng ông không để tâm vào chữ này .

27 Vaya'an Avraham vayomar hineh-na ho'alti ledaber el-Ad-nai ve'anochi afar va'efer.
Avraham responded and said, "Here I have begun to speak to my Master, and I am but dust and ashes.

28 Ulay yachserun chamishim hatzaddikim chamishah hatashchit bachamishah et-kol-ha'ir vayomer lo ashchit im-emtza sham arba'im vachamishah.
But suppose they lack five of the fifty righteous? Will You destroy all the city because of five?" He said, "I will not destroy if I find forty-five there."

Ông chỉ muốn Thiên Chúa nh́n vào sự kiện lỡ mà thiếu 5 người công chính th́ sao ?

Và rồi cứ thế ông mặccả với Thiên Chúa dựa trên con số người công chính càng ngày càng nhỏ dần.

Bốn mươi. Rồi ba mươi. Rồi hai mươi. Và cuối cùng là mười người.

Nhưng khi xuống c̣n đến mười, ông đột nhiên không c̣n mặc cả nữa. Thật là lạ .

Tại sao vậy ?



Chú thích (6*) Đọc bài “Isaac Rebecca” , trong đề mục Vườn Tư Tưởng tại http://www.tamtusaobien.com/index2.htm



Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5 6 7 8

Xem các bài viết khác trong Lớp Ngôn sứ , Khoá 15 GHHV Đà Lạt Việt Nam.