Huynh đệ như thủ túc
兄弟如手足

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

MichelAnge

 

 

 

13-

Chắn chắn những băn khoăn trên đây là những dấu hỏi to tướng đang chiếm hết tâm trí Giuse trong những lúc bó gối dưới giếng cạn, hay bị trói lôi đi thất thểu sau đoàn thương khách Ai Cập, và những năm tháng dài tủi nhục trong ngục tối.

Ngày qua ngày, rồi năm qua năm, vẫn không có ai đi t́m Giuse.

Cuối cùng hẳn là Giuse đành cam ḷng với số phận, mà kết luận rằng: anh em của ông đă thành công trong việc thuyết phục bố Giacóp.

Giuse tin rằng ḿnh đă bị bố từ, bị bố bỏ quên .

Chắc hẳn bà Leah đă thuyết phục được bố Giacóp tin rằng Giuse chỉ là đứa con chẳng ra ǵ, thậm chí c̣n ngỗ ngược, v́ đă dám cho mơ ước rằng ḿnh sẽ cai trị trên cả cha lẫn mẹ và anh em.

V́ thế Giuse cần phải bị loại trừ trước khi anh ta phá nát gia đ́nh .

Giuse có đủ cớ khả tín để có thể tin được như thế :

V́ trước đây, trong gia tộc, bà cố Sarah đă thành công trong việc thuyết phuc cụ cố Abraham đuổi Yismael đi, mặc dù cụ tổ rất thương Yismael đấy thôi ? Sự việc xảy ra mà đâu thấy Thiên Chúa có động tĩnh ǵ ?

Rồi Bác Esau cũng vậy, đă từng bị mất quyền trưởng nam đấy thôi ! Ông cụ Isaac, đă từng thuận theo lời cụ bà Rivka (Rebecca) để chọn bố Giacóp ḿnh thay cho bác Esau mà!

Vậy th́ có thể Thiên Chúa đă cho bố Giacóp biết rằng ḿnh, Giuse, đă có lỗi nào đó, và phải bị đuổi đi.

Mười ba năm trong ngục tối, chung quanh chỉ là bốn bức tường, triền miên trong bồn chồn thắc mắc, cuối cùng hẳn Giuse đành phải chấp nhận số phận.

Nhưng có điều tuyệt vời, là ông vẫn c̣n giữ truyền thống gia đ́nh, nghĩa là vẫn giữ niềm tin vào Thiên Chúa, vào vị Thần của gia đ́nh, tuy phải sống xa gia đ́nh, và mặc dù chừng như Ngài đă ruồng rẫy ông .

V́ thế tuy bị cám dỗ và gài bẫy, ông vẫn không sa ngă vào tay bà vợ của chủ .

Sau này, khi Giuse đă cạo râu và hiên ngang đứng trước mặt Pharaô, Giuse hiểu rằng Thiên Chúa đă an định cho ông phải sống xa gia đ́nh .

Ông bày tỏ niềm kiên tín ấy qua việc đặt tên cho con đầu ḷng. Tên Menashé, [15]có nghĩa “Thiên Chúa đă khiến tôi quên (nashani) hết những khổ nhọc và quên cả nhà cha tôi.”

Stk 41: 51 Vayikra Yosef et-shem habechor Menashshe ki-nashani Elokim et-kol-amali ve'et kol-beit avi. - Yosef called the name of the firstborn Menashshe for, "G-d has made me forget all my hardship and all my father's household."

“Quên nhà cha tôi” ! Tên đứa con thứ hai diễn tả tâm t́nh nhẫn nhục hơn nữa của ông.

Stk 41: 52 Ve'et shem hasheni kara Efrayim ki-hifrani Elokim be'eretz oni'i.

And the name of the second son he called Efrayim for, "G-d has made me fruitful in the land of my suffering."- "V́ Thiên Chúa đă cho tôi sinh sôi nảy nở trong xứ tôi phải chịu khổ cực."

Giacóp đưa Esau vào một cuộc chiến, không bằng vũ khí, mà ông biết chắc sẽ thua, nhưng bằng lời lẽ, mà ông tự tin sẽ thắng .


Tắt một lời, thế giới của Giuse hoàn toàn xây dựng trên một tiền đề sai lầm rằng bố Giacóp đă từ bỏ ông.

C̣n Giacóp lại hoàn toàn sống trong sai lầm cho rằng Giuse thực sự đă chết .

V́ thế không ai đi t́m ai .

Thế giới của Giuse và chính con người ông thực sự rúng động khi các anh ông xuất hiện trước mắt ông. Ông đứng trước mặt họ, mà họ không nhận ra. Họ sấp ḿnh bái lạy ông, thành toàn giấc chiêm bao ngày trước.

Kinh Thánh cho ta chi tiết thú vị này : “Đến lúc đó, ông mới nhớ lại giấc mơ xưa.” Nghĩa là Giuse không hề ngày đêm nghiềm ngẫm mong cho giấc chiêm bao thành sự thật. Mà có lẽ chính ông cũng chẳng ngờ là giấc chiêm bao kia sẽ thành sự thật nữa .

Stk 42: 9 Vayizkor Yosef et hachalomot asher chalam lahem vayomer alehem meraglim atem lir'ot et-ervat ha'aretz batem. - Yosef recalled the dreams that he dreamed about them, so he said to them, "You are spies! To see the land's nakedness have you come!"

Nhưng mối bận tâm, lớn nhất của Giuse bây giờ là t́m xem sự thật đă như thế nào. Ông muốn biết bố ḿnh, ông Giacóp, có từ ông hay không ?

Ông đă có chủ ư. Ông muốn có một cuộc điều tra độc lập, không cứ hẳn nghe theo quan điểm một chiều của 10 người anh ở đây. Ông muốn nghe sự thật từ Benjamin, người em cùng mẹ với ông, nghĩa là cùng phe với ông trước kia.

Benjamin không có ở đây, nên ông phải t́m cách gặp Benjamin .

V́ thế, mặc cho các anh chối bai băi, ông cứ kết luận : “meraglim atem lir'ot et-ervat ha'aretz batem - You are spies! To see the land's nakedness have you come! – Các ông là gián điệp.”

 

 

14-

Khi 10 người con của Giacóp đứng trước mặt Giuse, ông nhận ra ngay các anh em ḿnh, và hỏi liền. Ông chỉ hỏi (một chi tiết) :

vayomer alehem me'ayin batem “Các anh từ đâu đến ?”

vayomeru Họ trả lời (hai chi tiết ):

“me'eretz Kena'an lishbor-ochel. - Từ đất Canaan. Để mua lương thực .”

Giuse kết luận ngay :

“ מרגלים אתם לראות את ערות הארץ באתם

-meraglim atem lir'ot et-ervat ha'aretz batem

-You are spies! To see the land's nakedness have you come!

–Các ông là gián điệp....”

Có lẽ chúng ta phải dừng lại đây một chút, để tản mạn một điều lư thú mà bản dịch tiếng Việt PVCGK không lột tả được .

Câu kết tội của Giuse, dịch theo nguyên văn Do thái, từng chữ, có nghĩa là :

“ מרגלים אתם לראות את ערות הארץ באתם

- meraglim atem lir'ot et-ervat ha'aretz batem

-You are spies! To see the land's nakedness have you come!

Các anh là gián điệp . Đến đây để thấy sự trần truồng (ervat) của đất đai

Chúng ta chỉ ghi lại đây câu văn dịch của Bible de Jérusalem và của Nhóm PVCGK. Ghi lại để các bạn tuỳ nghi nhận định.

-Vous êtes des espions ! C'est pour reconnaître les points faibles du pays que vous êtes venus.(BJ)

-Các ông là gián điệp. Các người đến để ḍ xét những chỗ sơ hở của xứ này."”(PVCGK)

Chúng ta c̣n nhớ câu chuyên ông Caleb trong phần chú thích trên đây. Chuyện kể trong những chương đầu sách Đệ Nhị Luật .

Khi mới ra khỏi Ai Cập, Mosê sai một số thám thính viên, gián điệp –meraglim- đi t́m hiểu đất Caaan. Họ trở về thuật lại rằng : “Dân đó lớn và cao hơn chúng ta. Các thành th́ lớn, tường luỹ ngất trời. Chúng tôi cũng thấy ở đó con cái A-nác nữa.” (Đnl 1:28 )

Chẳng lẽ đất Canaan có “những thị tứ” với “ערים בצורות - arim betsurot, -tường lũy cao ngất trời”, trong khi đất nước hùng vĩ, và ph́ nhiêu của Ai Cập lại chỉ có đất cát “trống trỏi”, “trụi lủi”, “trần truồng”, “ervat” như lời Giuse miêu tả ?


Những báo cáo có tính cách bi quan như thế đă khiên cho dân Do thái nản ḷng không dám tiến tới chiếm đất : “Chúng ta sắp lên chỗ nào đây? Anh em chúng ta đă làm cho chúng ta nản ḷng.” (Đnl 1:28 )

Chi tiết thú vị là chẳng lẽ đất Canaan có “những thị tứ” với “ערים בצורות - arim betsurot, -tường lũy cao ngất trời”, trong khi đất nước hùng vĩ, và ph́ nhiêu của Ai Cập lại chỉ có đất cát “trống trỏi”, “trụi lủi”, “trần truồng”, “ervat” như lời Giuse miêu tả ?

Nếu đúng như thế th́ có ǵ mà phải nhọc công làm gián điệp ? C̣n các Kim Tự Tháp vĩ đại đâu rồi ? các tượng h́nh Nhân sư uy nghi đâu rồi ?

Mà làm gián điệp sao được khi đám mười người ấy chỉ đến từ một vùng đang bị đói, trong khi Ai Cập đang thừa mứa lương thực ? Có nói họ là đám xin ăn th́ cũng không quá đáng lắm.

Hay là Giuse ám chỉ tới vùng sa mạc bao la đang bảo vệ Ai cập ? “ervat ha’areth- đất đai trần trụi ” Nhưng nếu chỉ đến Ai cập để quan sát sa mạc “trần trụi”, như lời Giuse muốn nói, th́ quả là những-người-bị-mang-nhăn-hiệu-“gián-điệp”-kia đă bị Giuse mai mỉa chơi khăm. Chơi khăm để chọc tức. Chọc tức với hậu ư ǵ khác nữa sau này ?

Bốn trăm năm mươi năm sau đó, khi được Môsê dẫn dắt ra khỏi Ai Cập, vùng đất họ sống đời nô lệ cực nhọc, khi đối diện với cát và đá và cát và đá trùng trùng điệp điệp vây quanh, của bán đảo sa mạc Sinai ,người Do thái đă thực sự hoảng loạn :

3 Vayomru alehem benei Yisrael mi-yiten mutenu veyad HASHEM be'eretz Mitzrayim beshivtenu al-sir habasar be'ochlenu lechem lasova ki-hotzetem otanu el-hamidbar hazeh lehamit et-kol-hakahal hazeh bara'av. - And the children of Yisrael said to them, "Oh, that we had died by the hand of HASHEM in the land of Egypt, when we sat by the pots of meat and when we ate bread to the full! For you have brought us out into this wilderness to kill this whole assembly with hunger." - Con cái Ít-ra-en nói với các ông: "Phải chi chúng tôi chết bởi tay ĐỨC CHÚA trên đất Ai-cập, khi c̣n ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16:1-6)

Họ vẫn nhớ và thèm thuồng cái “sir habasar- nồi thịt” và “lechem – bánh” thoả thuê của Ai Cập .

Phải chăng cái “trần truồng của đất đai” Ai cập chỉ là “thịt” và “bánh thoả thuê” ?

 

 

a-

Có người cho là “Chắc không phải vậy đâu !”. Không phải v́ lư do nạn đói mà con cái Giacóp sang Ai Cập.

Abraham gặp nạn đói, rồi phiêu bạt sang Aicập. Đúng thế.

Nhưng thời Isaac cũng có nạn đói đấy thôi, mà ông nào có cần sang Ai Cập làm chi ?

Ông chỉ ở lại Canaan, và xuống sâu hơn về phía Nam, quá lắm là đến vùng vua Abimelek mà thôi : “Bấy giờ trong xứ xảy ra một nạn đói, không phải nạn đói đă xảy ra trước kia thời ông Ápraham. Ông Ixaác đi Gơra, đến với Avimeléc, vua người Philitinh. ĐỨC CHÚA hiện ra với ông và phán: "Đừng xuống Aicập, hăy ở trong đất Ta sẽ chỉ cho. Hăy trú ngụ trong đất này.” (Stk 26:1- 3)

V́ thế họ có xuống tận Aicập là v́, biết đâu đấy, họ thích thú với cái “trống rỗng của đất nước” xứ này, trống rỗng về luật lệ luân lư.

Không có quy luật như “thành luỹ kiên vững” bao bọc, nghĩa là không có hạn chế. Họ ăn thịt và bánh “tha hồ”, nghĩa là “không giới hạn”.

Không có Torah. Không có Mười giới răn. Không có Luật. Không có cả Đệ Nhị Luật ...

Một đất nước tự do về luân lư. Muốn chiếm vợ người khác th́... cứ việc . [16]

 

 

15-

b-

C̣n có một cái nh́n khác:

Cách nh́n thứ hai này chú giải sâu xa hơn về nghĩa của từ “ervah.”

Thế nào là “sự trần truồng cuả đất đai Ai cập” ?

Từ “ervah” thường có hàm ngụ giới tính, liên quan đến thân xác con người. Từ này thường gặp trong chương 18 của sách Levi, bàn về sự thánh thiêng của giới tính con người.

Chương sách ấy long trọng bắt đầu như sau: “ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: "Hăy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi. Các ngươi không được làm như người ta làm trên đất Ai-cập, nơi các ngươi đă ở.”

Và liên tục chúng ta được nghe một danh sách dài các cấm đoán rằng: “Các ngươi không được lột trần- ervah - chổ kín của ...” (Lev 18:1-30)

Như thế từ “ervah” nhằm nói đến sự trần truồng phần thân thể không nên phơi bày ra , nhất là thân thể phụ nữ .

Một kết luận dễ dăi là chúng ta cho rằng Giuse cảnh báo, và buộc tội các anh ông sang Ai cập để “làm như người ta làm trên đất Ai-cập.” (Lev 18:1-2)

Không hẳn vậy. Nhưng khi Giuse dùng từ “ervah,” có thể ông hàm ngụ một điều khác nữa, sâu xa hơn .

“Ervah”- sự trần trụi- c̣n có thể được hiểu như soi mói vào đời tư của người khác, xăm soi vào đầu óc kẻ khác, đoán, khai thác và muốn biết người khác nghĩ ǵ trong đầu.

Chúng ta c̣n có kiểu nói : “m’galeh ervah” là bỏ đi sau khi biết bí mật mà người khác không muốn chia xẻ. V́ có những điều mà, nếu chúng ta chia xẻ cho kẻ khác, chúng ta sẽ gặp nguy hiểm .

Có thể nói, bây giờ, Giuse là Ai Cập.  Nếu anh em biết được Giuse là ai, th́ có khác ǵ biết được trần trụi nội tâm của Giuse.


Như thế, chúng ta có thể rụt rè đưa ra thêm một lối hiểu câu kết án của Giuse như sau :

Nói cho ngay, lúc bấy giờ, sau bảy năm phong nhiêu, sung túc, đất nước Ai Cập đă không bị cuộc hạn hán làm điêu đứng, v́ đă nhờ Giuse mà lo liệu trước được tương lai, uy tín của Giuse lại càng lên cao.

Có thể nói, bây giờ, Giuse là Ai Cập .

Nếu anh em biết được Giuse là ai, th́ có khác ǵ biết được trần trụi nội tâm của Giuse.

Ông chưa sẵn sàng cho việc này. Ông chưa muốn cho những người đă ném ông xuống giếng cạn, đă toan tính giết ông, đă bán ông làm nô lệ biết được toan tính của ông.

Thuật tŕnh ghi lại cho chúng ta diễn tiến như sau. Các anh em cúi mặt sấp ḿnh lạy Giuse trước( Stk 42:6), Khi họ ngẩng lên, Giuse nh́n họ (Stk 42:7a) nhận ra các anh (Stk 42: 7b) nhưng làm như không biết họ ( Stk 42:7c)

Hai lần Kinh Thánh nhấn mạnh “Giuse nhận ra các anh em” (Stk 42:7a ; 8) , Lần đầu “Giuse làm mặt lạ, tỏ ra ḿnh là người xa lạ”. Lần thứ hai, động thái của các anh em là “không nhận ra ông” (Stk 42:8), c̣n ông th́ “nhớ lại giấc mơ” (Stk 42: 9).

Dĩ nhiên bây giờ nếu Giuse có kiêng dè, th́ không phải v́ các anh em ông c̣n có thể làm hại ông. Ông kín đáo và dấu mặt, v́ ông không muốn họ biết được thân phận của ông, biết được, cái sự thật trần trụi của đất nước Ai cập, cái “ervah ha’areth”. Đó là một người phó vương toan quyền của Ai Cập đây chính là anh em của họ.

Chắc chắn, với đầu óc siêu việt của ḿnh, người đă đọc được ư nghĩa các giấc mộng, lại nhất thời đưa ra được cả một chương tŕnh kinh tế độc đáo, mang lại thịnh vượng và sự sống c̣n suốt bảy năm hạn hán cho cả một dân tộc lớn Ai Cập, th́ Giuse biết rằng, khi các anh em ông biết được ông, Giuse, th́ họ cũng biết được cái tôi của chính họ, cái tôi với cái tội sát nhân (hay mưu toan sát nhân ) tày trời của họ .

Ông biết rằng, với họ, nhận ra Giuse, là đối diện với nhân chứng vật chứng bất khả bác trong một cuộc tự kết án ḿnh .

Ông chưa (hay không ? ) muốn các anh ông nhận ra cái tội của họ, ngay bây giờ .

V́ sao vậy ? V́ mới chỉ một giấc mơ của ông thành hiện thực mà thôi.

Chính lúc này thuật tŕnh nhắc lại chi tiết với chữ “những” rơ ràng: “Vayizkor Yosef et hachalomot asher chalam lahem - Giuse nhớ lại những giấc chiêm bao của ông liên quan đến họ.” (Stk 42: 9)

Mà Giuse có hai giấc chiêm bao liên qua đến họ :

“Giu-se chiêm bao, cậu thuật lại cho các anh, khiến họ càng ghét cậu thêm.6 Cậu nói với họ: "Xin nghe em kể giấc chiêm bao của em.7 Em thấy chúng ta đang bó những bó lúa ở giữa đồng, th́ bó lúa của em vươn dậy, đứng thẳng lên, c̣n những bó lúa của các anh bao quanh và sụp xuống lạy bó lúa của em."8 Các anh bảo cậu: "Mày muốn làm vua làm chúa thống trị chúng tao sao? " Và họ càng ghét cậu thêm v́ những chiêm bao và những lời nói của cậu.” (Stk 37:5-8 )

C̣n một giấc mơ thứ hai :

“Một lần khác cậu lại chiêm bao và kể cho các anh. Cậu nói: "Em lại chiêm bao. Em thấy mặt trời, mặt trăng và mười một ngôi sao đang sụp xuống lạy em."10 Cậu kể lại cho cha và các anh, nhưng cha cậu mắng cậu và nói: "Giấc chiêm bao mày đă thấy là ǵ? Tao, mẹ mày và các anh mày lại phải đến sụp xuống đất lạy mày sao? "11 Các anh ghen với cậu, c̣n cha cậu th́ ghi nhớ điều ấy.” (Stk 37:9-11)

Mà giấc mơ này, không phải ông sợ nó xảy ra, mà sợ rằng nó xảy ra như thế nào. [17]

Ông muốn biết và rất muốn biết “mặt trời,và mặt trăng” kia có c̣n sống hay không.

Nghĩa là ông muốn biết những ǵ xảy ra sau khi ông khuất mặt.Và nhất là ông muốn biết những ǵ đă từng biến chuyển trong ḷng anh em của ông ?

V́ thế, trong vai quan toà, ông c̣n đóng vai công tố viên: kết án họ với tội danh : “gián điệp.”

Không phải họ muốn biết sự thật trần trụi.

Nhưng là chính ông, ông muốn biết được sự thật trần trụi .

Ông vẫn chưa gặp lại được cha già và em Benjamin, nên ông lập mưu để thử thách và thăm ḍ tâm tư các anh, đồng thời t́m cách gặp lại Giacóp.

V́ thế năm lần bẩy lượt, mặc cho các anh phân bua, ông nằng nặc kết luận: "... alehem meraglim atem lir'ot et-ervat ha'aretz batem. - "You are spies! To see the land's nakedness have you come!" - Các người là bọn do thám. Các người đến để ḍ xét những chỗ sơ hở của xứ này." ( Stk 42,9)

Ông kết tội bốn lần. Các anh ông chối lại ba lần.

Trước lời buộc tội của Giuse mà các ông cho là một phó vương đầy quyền uy nhưng tính khí bất thường, không thể đoán trước, các anh ông nhấn mạnh hai lần: “benei ish echad- con cùng một cha”

Chúng ta chịu khó theo dơi lại từng bước cuộc tranh luận thú vị này :

Trước lời đổ lỗi tội do thám, các anh của Giuse trả lời lần đầu

11 Kulanu benei ish-echad nachnu kenim anachnu lo-hayu avadeycha meraglim. - All of us, sons of one man are we; we are truthful people; your servants have never been spies." -Chúng tôi đều là con cùng một cha, chúng tôi là người lương thiện; các tôi tớ ngài không phải là bọn do thám."

Họ mới chỉ nhấn mạnh họ đều là anh em với nhau, con cùng một người cha , benei ish-echad . Họ không nói họ thực sự có bao nhiêu anh em. Lại cũng chẳng nhắc đến mười người ấy là con từ bao nhiêu người mẹ.

Nghĩa là, ít ra, họ không c̣n phân biệt người mẹ này, người mẹ kia. Mối giây ràng buộc họ thành một khối là “con cùng một người cha”.

Dường như Giuse vẫn chưa hài ḷng về câu trả lời. Ông chưa nắm được điều ông muốn biết .

Ông coi như không đếm xỉa ǵ đến câu trả lời của họ, nên lập lại một lần nữa lời kết tội, lần này giọng cao hơn, và khẳng quyết hơn:

12 Vayomer alehem lo ki-ervat ha'aretz batem lir'ot. - And he said to them, "No! But the land's nakedness have you come to see." -Ông nói với họ: "Không! Các người đến để ḍ xét những chỗ sơ hở của xứ này."

13 Vayomeru shneym asar avadeycha achim anachnu benei ish-echad be'eretz Kena'an vehineh hakaton et-avinu hayom veha'echad eynenu. - And they replied, "We, your servants, are twelve brothers, the son of one man in the land of Kenaan. The youngest is now with our father and one is gone."- Họ nói: "Các tôi tớ ngài là mười hai anh em, chúng tôi là con cùng một cha, ở đất Ca-na-an. Đứa út hiện đang ở với cha chúng tôi, c̣n một đứa th́ không c̣n nữa."

Lân này, họ nói rơ con số anh em, c̣n cho thêm nhưng chi tiết mà Giuse hầu như cần biết: “Mười hai anh em – Shneym asar ... achim” , lập lại điều quan trọng này: “con cùng môt cha – benei ish-echad”, Và thông tin hàng đầu mà giuse cân biết là “đứa út đang ở với cha chúng tôi”.

Nghĩa là, Benjamin c̣n sống, bố Giacaóp c̣n ống, ông vẫn c̣n đang thương yêu Benjamin, em ḿnh. Nghĩa là bô Giacóp vẫn c̣n dành cảm t́nh cho mẹ ḿnh.

Và ḿnh vẫn c̣n được bố thương yêu, chứ không từ ḿnh như ḿnh đă từng nghĩ oan lâu nay .

Tại sao các anh ông lập đi lập lại hai lần: chúng tôi đều là “anh em cùng một cha” ?

 

 

16-

Sáng Thế kư miêu tả Giuse như “một người thành công” trong mọi chuyện ông nhúng tay vào (Stk 39:2) Ở đâu, ông cũng được mọi người tin tưởng, và luôn được người khác tín nhiệm trao trọng trách, dù là lúc trong ngục tối, trong nhà của tể tướng Potiphar, hay trong triều đ́nh vua Pharaô.

Dù bị bà vợ Potiphar vu oan, Potiphar bỏ tù ông, nhưng Potiphar vẫn không tin lời bà vợ, th́ đủ biết Giuse rất được coi trọng và nể v́ .

Ngay sau biến cố Giuse bị bà vợ Potiphar vu oan, (Stk 39:7-21) thuật tŕnh Kinh Thánh kể ngay sang chuyện Giuđa bê bối với con dâu Tamar.

Như cố ư so sánh hạnh kiểm hai người .

Giuse, tuy đẹp trai, thông minh đĩnh ngộ, lại truân chuyên lưu lạc xa nhà, không c̣n được bầu khí gia đ́nh cùng với niềm tin vào Thiên Chúa của tổ tiên gia tộc nâng đỡ, thế mà ông vẫn kiên tŕ sống với một hạnh kiểm tốt.

Trong khi Giuđa, lớn tuổi hơn, nghĩa là già dặn hơn, sống tại quê hương, nghĩa là được môi trường xă hội chung quanh nâng đỡ , vậy mà vẫn không chống lại được sức cám dỗ của một người giả làm nghề không đứng đắn bên vệ đường.

Nếu nh́n Giuse qua lăng kính như thế, và nhất là sau nhiều năm truân chuyên mà hạnh kiểm vẫn đứng đắn như thế, th́ chúng ta không thể mau miệng mà cho rằng Giuse có tính hay thóc mách, kể cho bố nghe về những chuyện không hay, không tốt của các anh ông, khiến cho các anh đâm ra ghét ông .

Câu Kinh Thánh cho chúng ta chi tiết này là câu Stk 37:2

“Yosef et-dibatam ra'ah el-avihem - Yosef brought back bad reports about them to their father - Cậu mách cha tiếng đồn không hay về họ”

Nếu ông có đầy đủ các tính thông minh như chúng ta thấy sau này, th́ hẳn, cho dù ông có muốn báo cáo mọi điều xấu xa của các anh cho bố Giacóp, th́ hẳn ông đă có cách xử sự tốt hơn, kín đáo hơn, hay sư phạm hơn, thay v́ vụng về chuốc thêm oán ghét cho ḿnh.

Tại sao sự thể lại xảy ra khác hẳn: Các anh em ông ghét ông ?

Phải chăng v́ ông hay mách lẻo? Hay tại các anh ông ghen với ông v́ bố Giacóp thương ông cách riêng ?

Đọc tiếp câu này, chúng ta có thấy ǵ đặc biệt ?

Stk 37:2 Yosef ben-shva-esreh shanah hayah ro'eh et-echav batzon vehu na'ar et-benei Bilhah ve'et-benei Zilpah neshei aviv vayave - Yosef at the age of seventeen years, would tend the sheep with his brothers, and the lad was with the sons of Bilhah, and the sons of Zilpah, his father's wives. - Giu-se được mười bảy tuổi th́ đi chăn chiên dê với các anh. Khi ấy cậu c̣n trẻ, cậu đi với các con trai bà Bin-ha và các con trai bà Din-pa, là các bà vợ của cha cậu.

Như thế xung khắc giữa Giuse và các anh em c̣n là xung khắc giữa hai quan điểm, hai nhân sinh quan về “anh em trong nhà”. Giuse cho rằng các con của d́ Hai d́ Ba cũng phải được coi như là anh em ngang hàng... Dĩ nhiên các anh của ông, con bà chị cả Leah, không chịu thái độ này. Nên họ bất b́nh.


Chúng ta nên dừng lại kỹ một chút ở câu này, để hiểu thêm về tương quan giữa Giuse và các anh em của ông.

Sáng Thế Kư cho biết : “Mới bẩy tuổi, Giuse đi chăn chiên với các anh.”

Đọc đến đây, chúng ta thấy không có ǵ đáng ngạc nhiên. Giuse cũng phải đi làm lụng như mọi người. Mới bẩy tuổi đi chăn chiên chăn dê là chuyện đương nhiên .

Nhưng câu này mới thú vị : “na'ar et-benei Bilhah ve'et-benei Zilpah neshei aviv vayave - and the lad was with the sons of Bilhah, and the sons of Zilpah, his father's wives. - cậu đi với các con trai bà Bin-ha và các con trai bà Din-pa, là các bà vợ của cha cậu.

Nghĩa là Giuse “đi với”, nghĩa là “chơi với”, “bè bạn” , “theo phe” với “các con trai bà Bilhah”, nghĩa là với Dan và Naphtali, và “với con trai của Zilpah”,nghĩa là với Gad và Asher.

Và thuật tŕnh thêm : “ Các bà vợ của bố cậu .”

Đây là lần đầu tiên Sáng Thế Kư gọi hai bà này là “vợ của cha cậu”.

Trước giờ hai bà chỉ được nhắc đến như là “nữ t́ của Rachel”, hay “nữ t́ của Leah”. Ngay như Câu Stk 35:25-26, liệt kê danh sách con cái c ủa Giacóp chúng ta đọc thấy rơ ràng :

25 Uvnei Bilhah shifchat Rachel Dan veNaftali. - The sons of Bilhah, Rachel's handmaid, [were]: Dan and Naftali.- Con trai bà Bin-ha, nữ tỳ của bà Ra-khen: Đan và Náp-ta-li.26 ‘

26 Uvenei Zilpah shifchat Leah Gad ve'Asher eleh benei Ya'akov asher yulad-lo bePaddan-aram. - The sons of Zilpah, Leah's handmaid, [were]: Gad and Asher. These are the sons of Yaakov that were born to him in Padan-aram. - Con trai bà Din-pa, nữ tỳ của bà Lê-a: Gát và A-se. Đó là những con trai ông Gia-cóp sinh được tại Pát-đan A-ram.

Nghĩa là cách gián tiếp, trước giờ các anh em coi như Giuse theo phe với “con cái của kẻ ăn người ở”, “của gia nhân trong nhà.”

C̣n Giuse th́ khác, cậu chơi với các “anh em của ḿnh”, v́ họ là “con của d́ Hai d́ Ba”: chứ không phải là con của kẻ ăn người ở .

Như thế xung khắc giữa Giuse và các anh em c̣n là xung khắc giữa hai quan điểm, hai nhân sinh quan về “anh em trong nhà”. Giuse cho rằng các con của d́ Hai d́ Ba cũng phải được coi như là anh em ngang hàng.

Đối với Giuse, chữ “vehu na’ar “ông là người bạn, “chơi với” giúp” các con “của vợ bố ḿnh là Bihlah và Zilpah”, c̣n có thể hiểu như “ông nâng dậy - “ni’er” thành con của vợ bố ḿnh.

Ông giúp họ đ̣i hỏi quyền lợi ngang hàng của một người con Giacóp.

Chị cả Leah có sáu người con, d́ Hai Rachel có hai. Bây giờ, nếu bốn người con của d́ Ba, d́ Tư mà được coi trọng ngang quyền và theo phe Giuse, như thế hai bên sẽ có sáu người ngang ngữa nhau. Và các anh con bà cả không c̣n lấn quyền như trước.

Dĩ nhiên các anh của ông, con bà chị cả Leah, không chịu thái độ này. Nên họ bất b́nh.

Và Giuse kể lại cho bố Giacóp nghe về thái độ này của họ . Bố Giacóp đồng ư với lối hành xử quảng đại và đúng đạo lư của Giuse.

Ông hài ḷng và không ngại cho cho Giuse một tấm áo màu sặc sỡ.

Điều này khiến cho các anh em càng ghét ông hơn .

Và âm mưu bán Giuse làm nô lệ cũng là cách để trả thù, cho Giuse một bài học rằng, đă muốn làm bạn với tỳ nữ th́ cứ việc, đây sẽ cho toại nguyện !

Lối nh́n vấn đề như thế giúp chúng ta hiểu t́nh cảnh hiện tại.

Bây giờ khi nghe các anh em ông nhấn mạnh hai lần: “Chúng tôi đều là anh em cùng một cha.” Giuse vui trong ḷng. Ông ưng bụng v́ biết rằng các anh em ông đă nhận ra được bài học, đă hoà hợp với nhau, đă gọi nhau là “anh em con cùng một cha,” không hề phân biệt nguồn gốc từ người mẹ nào.

 

 


 

 

  Ghi Chú

[15]

Manasseh hay c̣n viết là Menashshe, tên Do thái viết là, מְנַשֶּׁה, từ gốc נשה našah , có nghĩa là “quên”.

C̣n tên Efrayim hay Efra’im – Do thái viết là אֶפְרַיִם Theo ư của Giuse, tên אפרים - Ephraim có gốc là động từ להפרות – “lehafrot”, có nghĩa là “phong nhiêu” , “sinh sản” , “fertilize”, “inseminate”).

Tận ngày nay, cha mẹ Do thái vẫn dùng câu chúc lành của Gicaóp mà chúc lành cho con cái ḿnh. Câu chúc lành bắt đầu bằng "Xin Thiên Chúa làm cho con nên như Epharim và như Manassé” (Stk 48:20 )

[16] Chú thích này mang tính giải trí, thư giăn, nhiều hơn là nghiêm túc.

Đúng ra, khi xuống núi Sinai, Môse ôm hai bia đá trong đó ghi những... 14 Giới Răn. Ông đọc cho con cái Israel nghe. Dân chúng nghe xong , tranh luận ồn ào như vỡ chợ.

Sau khi bàn căi thoả thuê, một người đại diện dân chúng nói với Môsê:

-“Thưa Ngài, chúng tôi khó mà giữ cho đủ bấy nhiêu điều luật. Xin Ngài trở lên núi,và thử nói phải trái với Thiên Chúa dùm. Xin Ngài mạnh miệng giải thích cho Thiên Chúa biết rằng chúng tôi chỉ là loài người. Giữ bấy nhiêu giới răn th́ khó khăn cho chúng tôi lắm.”

Môsê miễn cưỡng lên núi, mang theo hai Bia Đá.

Sau một tuần, Môsê loạng choạng xuống núi, gương mặt không những hốc hác mà c̣n ngơ ngác.

Dân chúng uà tới, hồi hộp chờ đợi .

Người đại diện tới gần, rụt rè : “Thưa Ngài Môse, kết quả thế nào ?”

Khó khăn lắm Môsê mới mở miệng được, ông gần như kiệt lực sau một tuần tranh căi giằng co, kỳ nèo. Cuối cùng ông nói :

“Tôi có tin vui và tin buồn thông báo cho anh em : Tin vui là tôi xin được Thiên Chúa giảm xuống cho anh em chỉ c̣n giữ 10 giới răn. C̣n tin buồn là anh em vẫn phải giữ giới răn thứ 6 “Chớ làm sự dâm dục !”

[17] Lời giải đoán “mặt trời” là bố Giacóp, c̣n “mặt trăng” là bà Rachel, hoàn toàn là do Giacóp hồi đó vơ đoán đưa ra.Chứ điều đó không minh nhiên trong giấc mơ. Mà Giuse cũng chẳng hề biết. Ông chỉ kể lại như vậy. .

 


Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

Xem các bài viết khác trong Lớp Ngôn sứ , Khoá 15 GHHV Đà Lạt Việt Nam.