Huynh đệ như thủ túc
兄弟如手足

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

MichelAnge

 

 

 

23-

Bây giờ chúng ta đi thẳng vào lập luận của Giuđa. Ông đă nói sao mà khiến được Israel quyết định ?

8 Vayomer Yehudah el-Yisra'el aviv shilchah hana'ar iti venakumah venelechah venichyeh velo namut gam-anachnu gam-atah gam-tapenu. - Then Yehudah said to Yisrael his father, "Send the lad with me, and let us arise and go, so we will live and not die, we as well as you as well as our children.- Ông Giu-đa thưa với ông Ít-ra-en, cha ḿnh: "Xin cha sai thằng bé đi với con; chúng con sẽ chỗi dậy lên đường, và chúng ta sẽ sống chứ không chết cả đám, cha cũng như chúng con và lũ trẻ.

9 Anochi e'ervenu miyadi tevakshenu im-lo havi'otiv eleycha vehitzagtiv lefaneycha vechatati lecha kol-hayamim. - I will personally guarantee him; of my own hand you can demand him. If I do not bring him back to you and stand him before you, then I will have sinned to you for all time. - Chính con xin bảo lănh cho nó; cha cứ bắt con chịu trách nhiệm; nếu con không đưa nó về cho cha và đặt nó trước mặt cha, th́ con sẽ đắc tội với cha suốt đời.

10 Ki lule hitmahmahnu ki-atah shavnu zeh fa'amayim. - For had we not delayed, by now we could have returned twice." - Giả như không chần chừ thế này, th́ bây giờ chúng con đă đi được hai chuyến rồi! "

Khi nghe Giuđa nói thế , Giacóp thuận t́nh và quyết định giao Benjamin cho Giuda mang sang Ai cập .

Lư do nào đă khiến cho Giacóp thay đổi thái độ ? Nghĩa là Giuđa đă lư luận thế nào mà Giacóp đồng ư ?

Khi chúng ta xét đến lư luận của Giuđa, thoạt nghe chúng ta thấy Giuđa chẳng thêm một luận cứ nào mới . Ông không đưa ra một bảo đảm đáng tin nào:

Ông chỉ nói chính ông đích thân chịu trách nhiệm về Benjamin, “Anochi e'ervenu - chính con xin bảo lănh cho nó” , và cố gắng giữ an toàn cho Benjamin “miyadi tevakshenu - cha cứ bắt con chịu trách nhiệm .”

Sau này khi Benjamin bị đổ tội oan là ăn cắp chén uống rượu của Giuse ( Stk 44:18 ) th́ Giuđa đă có can đảm đứng ra chịu tội thế cho Benjamin thiệt .

Nghĩa là quả thực Giuđa đă nói là giữ lời .

Nhưng có điều, xét cho kỹ, th́ chúng ta biết Giuđa lúc này nói th́ nói mạnh miệng thế, nhưng ông không biết chắc ông có giữ được lời đă hứa hay không.

Nếu vị phó vương này là một ai khác, không phải là Giuse, th́ Benjamin đă vẫn cứ bị bắt bỏ tù, c̣n Giuđa đành phải trở về tay không chịu tội cùng bố Giacóp, đúng không nào ?

Vậy khi ông mạnh miệng nói : vechatati lecha kol-hayamim - con sẽ đắc tội với cha suốt đời (tất cả mọi ngày .)” th́ điều này khó mà thuyết phục được Giacóp. Nó như là một lời hứa trống rỗng .

Nhưng sao Giacóp lại đồng thuận ?

 

 

24-

Sau đây là một cố gắng giải thích .

Chúng ta biết thời ấy, bộ tộc Giacóp sống đời du mục, chăn chiên, dê. Gia tài của dân du mục là đàn súc vật, và cuộc sống xă hội của họ được quy định theo một bộ luật riêng, đặc trưng cho xă hôi du mục.

Suốt gần 500 năm sau đó, các chi tộc Do thái vẫn sống đời du mục, cho đến khi vào đất Hứa, đời sống họ chuyển thành bán du mục .

Từ sau khi Xuất Ai Cập, Dân Do thái có bộ Luật Núi Sinai mà Môsê đă đưa ra. Nó phản ảnh và ấn định những quan hệ thời mọi người c̣n sống đời du mục.

Ở sách Xuất Hành, chương 22, có những điều khoản ấn định việc bồi thường như sau :

Xh 22:9-13

9 Ki-yiten ish el-re'ehu chamor o-shor o-seh vechol-behemah lishmor umet o-nishbar o-nishba ein ro'eh. -If a man delivers to his neighbor a donkey, an ox, a sheep, or any animal to keep, and it dies, is hurt, or driven away, no one seeing it, - Khi có ai gửi người thân cận giữ hộ ḿnh lừa, ḅ, chiên hay thú vật nào, nếu con vật ấy chết, bị thương hoặc bị lấy trộm mà không có ai chứng kiến,

10 Shvu'at HASHEM tihyeh bein shneihem im-lo shalach yado bimlechet re'ehu velakach be'alav velo yeshalem. -then an oath of HASHEM shall be between them both, that he has not put his hand into his neighbor's goods; and the owner of it shall accept that, and he shall not make it good.- th́ đôi bên phải đến trước mặt ĐỨC CHÚA: người giữ con vật phải thề không có đụng tới của cải người thân cận. Chủ con vật phải chấp nhận lời thề và người kia không phải bồi thường.

11 Ve'im-ganov yiganev me'imo yeshalem live'alav. - But if, in fact, it is stolen from him, he shall make restitution to the owner of it. - Nếu con vật bị lấy trộm trong nhà người giữ hộ, th́ người này phải bồi thường cho chủ con vật.

12 Im-tarof yitaref yevi'ehu ed hatrefah lo yeshalem. - If it is torn to pieces by a beast, then he shall bring it as evidence, and he shall not make good what was torn.- Nếu con vật hoàn toàn bị thú dữ xé xác, và nếu người giữ hộ đưa ra bằng chứng, th́ không phải bồi thường.

Đó là bộ luật của những người chăn súc vật. Thoạt đọc chúng ta thấy, dân du mục đă có một tiêu chuẩn luân lư về công bằng rất cao. Chỉ cần một lời hứa, lời thề, là câu chuyện được giải quyết .

Nếu tôi có một con chiên nhờ hàng xóm chăn giữ hộ, mà con vật bị mất hay bị trộm, mà không có ai chứng kiến, th́ người hàng xóm chỉ cần sang báo cho tôi biết sự vụ. Một lời thề là xong. Không hề có nghi ngờ hay kiện cáo . Đó là luật số Xh 22: 9-10

Nếu con vật bi mất trộm từ trong nhà hàng xóm, th́ hàng xóm phải đền bù. Điều này dễ hiểu. Đó là luật số Xh 22:11

Nhưng nếu con vật bị thú dữ ăn thịt, xé thây, th́ hàng xóm chỉ cần mang tang vật về cho tôi thấy, th́ sự việc cũng kể như đă giải quyết xong. Hàng xóm có lư do chính đáng. Tôi không thể kiện cáo hay nghi ngờ hàng xóm điều chi nữa. Đó là luật số Xh 22:12

Chúng ta thấy vấn đề chưa ?

Nhưng ông không theo mức thường, mang xác con vật bị xâu xé về làm bằng chứng rồi vô can, mà chính ông đền bù cho Laban một con nguyên khác, c̣n sống, như chưa hề bị thú dữ ăn thịt.


Chính đây là mấu chốt để chúng ta hiểu tại sao, sau khi bán Giuse đi, anh em của ông lấy áo của ông, xé toạc ra, rồi rảy máu trên đó, mang về cho Giacóp, làm bằng chứng Giuse bị thú dữ ăn thịt.

Stk 37: 32 Vayeshalchu et-ktonet hapasim vayavi'u el-avihem vayomru zot matzanu haker-na haktonet binkha hi im-lo. - They sent the long, colorful coat and brought it to their father, and said, "We found this. Please identify it. Is it your son's coat or not?" - Họ gửi người mang cái áo chùng dài tay về cho cha họ và nói: "Chúng con đă thấy cái này. Xin cha nhận ra xem có phải là áo của con cha hay không."

Một lư chứng bất khả bác, theo bộ luật cuả người chăn súc vật: Xuất hành chương 22 câu 12.

Giacóp nh́n thấy áo bị rách toang và khô đặc những máu, hoàn toàn không hề nghi ngờ một tí ǵ. Ông tin chắc Giuse bị thú dữ ăn thịt . V́ ông sống theo bộ luật của những người chăn súc vật .

Stk 37: 33 Vayakirah vayomer ktonet bni chayah ra'ah achalathu tarof toraf Yosef. - He recognized it and said, "It is my son's coat. An evil beast has devoured him. Yosef has been torn to pieces." - Ông nhận ra cái áo và kêu lên: "Áo chùng của con tôi đây! Thú dữ đă ăn thịt nó! Giuse đă bị xé xác rồi! "

Không một chút nghi ngờ cho ai, Giacóp để tang cho con .

Stk 37: 34 Vayikra Ya'akov simlotav vayasem sak bemotnav vayit'abel al-beno yamim rabim. - Yaakov tore his robes, and placed sackcloth on his loins. He mourned for his son for many days. - Ông Gia-cóp xé áo ḿnh ra, quấn áo vải thô ngang lưng và để tang Giu-se lâu ngày.

Khi các anh gửi tang vật, là cái áo vấy máu, về cho Giacóp, các anh đă lợi dụng bộ luật của người chăn súcvật: tang chứng bị thú dữ xé xác sẽ tha bổng người chịu trách nhiệm chăn dắt . Khi nh́n thấy cái áo vấy máu, Giacóp lập tức kết luận : “tarof toraf Yosef. - Giuse đă bị xé xác rồi! “ ( Stk 37:33)

Ông dùng nguyên văn từ ngữ trong câu luật : “Im-tarof yitaref - Nếu con vật hoàn toàn bị thú dữ xé xác.” ( Xh 22: 12)

Như thế các anh đă dùng mưu kế này do luật định để rửa tay minh oan. Làm thế họ được trắng án về số phận của Giuse .

Nhưng thật ra đấy chưa phải là tiêu chuẩn luân lư cá nhân của Giacóp. Tiêu chuẩn của ông c̣n cao hơn thế .

Như chúng ta biết, chính Giacóp cũng là người chăn súc vật , Khi c̣n ở Haran làm rể Chương đài cho ông cậu Laban , Giacóp đă tùng phân trần với cậu như sau : :

Stk 31: 38 Zeh esrim shanah anochi imach recheleicha ve'izeicha lo shikelu ve'eilei tzoncha lo achalti. - These twenty years I was with you, your eyes and she-goats never miscarried, and I did not eat any rams of your flocks. - Suốt hai mươi năm con đă ở với cha, chiên cái dê cái của cha không hề sẩy thai, con không hề ăn con chiên đực nào trong đàn vật của cha.

Stk 31:39 Trefah lo-heveti eleicha anochi achatenah miyadi tevakshenah genuvti yom ugenuvti lailah. - I never brought to you a mutilated animal. I took the blame for it. You demanded compensation from my hand whether [an anaimal] was stolen from me by day or whether it was stolen from me by night.- Con vật bị cắn xé, con không đưa về cho cha, chính con chịu đền; con bị mất trộm con nào ban ngày hay ban đêm, cha đều đ̣i con phải trả.

Chúng ta thấy sao ?

Giacóp cho Laban biết “Con vật bị cắn xé, con không đưa về cho cha, chính con chịu đền. “

Không phải là suốt 20 năm chăn súc vật cho Laban, không hề có lần nào thú dữ xé xác đàn vật của Giacóp . Có chứ. Nhưng ông không theo mức thường, mang xác con vật bị xâu xé về làm bằng chứng rồi vô can, mà chính ông đền bù cho Laban một con nguyên khác, c̣n sống, như chưa hề bị thú dữ ăn thịt.

Như đích thân ông chịu trách nhiệm về cái chết của con vật ấy.

anochi achatenah - chính con chịu đền

miyadi tevakshenah -cha cứ đ̣i con phải trả

Đó là lời chính miệng Giacóp nói ra . (Stk 31:39)

Bây giờ chúng ta nghe lại lời Giuđa nói khi đứng ra bảo lănh cho Benjamin .

9 Anochi e'ervenu miyadi tevakshenu im-lo havi'otiv eleycha vehitzagtiv lefaneycha vechatati lecha kol-hayamim. - I will personally guarantee him; of my own hand you can demand him. If I do not bring him back to you and stand him before you, then I will have sinned to you for all time. - Chính con xin bảo lănh cho nó; cha cứ bắt con chịu trách nhiệm;

Giuđa dùng nguyên văn câu Giacóp đă nói:

Anochi e'ervenu - Chính con xin bảo lănh cho nó;

miyadi tevakshenu - cha cứ bắt con chịu trách nhiệm;

Nói cách khác, các anh của Giuse chỉ dùng tiêu chuẩn luân lư công bằng thông thường của giới chăn súc vật . Mà chính tiêu chuẩn này đă không đủ để bảo đảm an toàn cho Giuse, th́ rơ ràng cũng sẽ không đủ làm yên ḷng Giacóp trong trường hợp của Benjamin.

Nếu các anh đă làm mất Giuse dựa vào tiêu chuẩn thông thường đó th́ họ làm sao bảo đảm cho an nguy của Benjamin khi đem cậu ấy sang xứ người ?

Giuđa hiểu điều này. Nên ông đă vượt lên trên, cao hơn mức tiêu chuẩn thông thường của những người chăn súc vật thông thường.

Ông dùng chính tiêu chuẩn của bố. Ông lập lại nguyên văn câu nói của bố “Anochi e'ervenu - Chính con xin bảo lănh cho nó; miyadi tevakshenu - cha cứ bắt con chịu trách nhiệm;” cho thấy rằng ông sẽ cố gắng hết sức ḿnh theo một tiêu chuẩn cao hơn b́nh thường, để lo lắng cho Benjamin.

Khi Giacóp nghe lại được cái tiêu chuẩn luân lư và công bằng cao hơn người đấy, của ông , được chính người con của ḿnh, Giuđa, long trọng lập lại, Nghĩa là ông biết Giuđa sẽ phải cẩn trọng hơn người, sẽ có tinh thần trách nhiệm hơn người, sẽ trọng chữ tín hơn người, như ông ngày xưa đă từng, th́ ông yên tâm, hài ḷng.

Và đồng ư cho mang Benjamin sang Ai cập .

Khi Giacóp nghe lại được cái tiêu chuẩn luân lư và công bằng cao hơn người đấy, của ông , được chính người con của ḿnh, Giuđa, long trọng lập lại, Nghĩa là ông biết Giuđa sẽ phải cẩn trọng hơn người, sẽ có tinh thần trách nhiệm hơn người, sẽ trọng chữ tín hơn người, như ông ngày xưa đă từng, th́ ông yên tâm, hài ḷng.


Như thế, nhờ cẩn thận đọc kỹ các chữ trong Kinh Thánh, mà chúng ta ngộ ra được nhiều điều thú vị, ngộ ra được ngôn ngữ các người chăn súc vật ngày xưa từng sử dụng .

Nhờ thế chúng ta hiểu được cái hàm ngụ trong câu nói các nhân vật, và hiểu được tiến tŕnh câu chuyện cách thích thú hơn .

 

 

25-

Không chỉ có một ḿnh Giuđa đứng ra bảo lănh cho Benjamin. Trước đó, Reuben đă lên tiếng xin bố Giacóp cho mang Benjamin đi sang Ai Cập.

Thế tại sao Giacóp lại không nghe lời Reuben ?

Đă đến lúc chúng ta tản mạn một chút về Reuben, người anh cả của nhà Giacóp.

Lẽ ra ông mới phải là người lănh đạo nhóm con cái nhà Giacóp, v́ ông là anh cả, ông có quyền trưởng nam. Nhưng như chúng ta thấy, ông đă xúc phạm đến “chổ nằm của Giacóp” ( Stk 35:21) nên ông đă mất quyền ấy .

Mất quyền trưởng nam, ông vẫn có thể lănh đạo các em kia mà, tại sao vài tṛ lănh đạo cũng vuột khỏi tay ông. Ông thua cả người em thứ tư, Giuđa, của ḿnh .

Chúng ta hăy thử tản mạn, xét hai biến cố biểu lộ hai tài lănh đạo của cả Reuben và Giuđa, để có cái nh́n chính xác hơn ai là kẻ xứng đáng.

Biến cố đầu tiên là cuộc bàn căi để lấy mạng Giuse. Chúng ta đọc thấy như sau :

Stk 37:18-21 : Vayir'u oto merachok uveterem yikrav aleyhem vayitnaklu oto lahamito. - They saw him from a distance, and before he approached them they were plotting against him to kill him. - “Họ thấy cậu từ xa, và trước khi cậu tới gần họ th́ họ lập mưu giết chết cậu.

19 Vayomru ish el-achiv hineh ba'al-hachalomot halazeh ba. - One man said to another, "Here comes the dreamer. - Họ bảo nhau: "Thằng tướng chiêm bao đang đến kia!

20 Ve'atah lechu venahargehu venashlichehu be'achad haborot ve'amarnu chayah ra'ah achalathu venir'eh mah-yihyu chalomotav. - Now, come let us kill him and throw him into one of the pits; and we will say that a wild beast devoured him. Then we will see what will become of his dreams." - Bây giờ, nào ta giết và ném nó xuống một cái giếng. Ta sẽ nói là một thú dữ đă ăn thịt nó. Rồi ta sẽ thấy các chiêm bao của nó đi tới đâu! "

21 Vayishma Re'uven vayatzilehu miyadam vayomer lo nakenu nafesh. - Reuven heard and rescued him from their hands. He said, "Let us not kill him."- Nghe thấy thế, Rưu-vên t́m cách cứu em khỏi tay họ; cậu nói: "Ta đừng đụng tới mạng sống nó."

Thuật tŕnh nói rơ “Re'uven vayatzilehu miyadam - Reuven t́m cách cứu em cậu khỏi tay họ” (câu 21). Nghĩa là nếu không có ông ngăn cản ngay lúc ấy, hẳn Giuse đă phải chết chắc.

Nhưng câu 21 này lại bắt đầu bằng chi tiết : “Vayishma Re'uven - Nghe thấy thế,”. Chúng ta có thể kết luận Reuben không tham dự vào cuộc bàn luận, ông chỉ đứng đâu đó chung quanh,nghe các em bàn căi. Nghĩa là ông thiếu gắn bó với các em .

Khi các em quyết định giết Giuse, Reuven can ngăn: “lo nakenu nafesh - Ta đừng đụng tới mạng sống nó .”

Sang câu sau, thuật tŕnh không ghi lại các anh em ông đă phản ứng như thế nào, mà chỉ ghi thêm một câu nói nữa của Reuben. Nghĩa là Reuben phải nói thêm, phải nói... hai lần, để mong các anh em ông đổi ư, chọn một giải pháp khác .

22 Vayomer alehem Re'uven al-tishpechu-dam hashlichu oto el-habor hazeh asher bamidbar veyad al-tishlechu-vo lema'an hatzil oto miyadam lahashivo el-aviv. - Reuven said to them, "Do not commit bloodshed. Throw him into this pit which is in the wilderness, and do not lay a hand on him." His purpose was to rescue him from their hands, to bring him back to his father. - Rưu-vên bảo họ: "Đừng đổ máu! Cứ ném nó xuống cái giếng kia trong sa mạc, nhưng đừng giơ tay hại nó." Cậu có ư cứu em khỏi tay họ và đưa về cho cha.

Như thế Reuben thực sự có ư ǵ ?

Rơ ràng, thoạt tiên Reuben muốn thuyết phục các em rằng giết Giuse là có tội, nên ông mới nói: “al-tishpechu-dam - Đừng đổ máu” .

Sau đó ông đưa ra một giải pháp...thế chấp: Thay v́ chính họ tra tay giết Giuse, th́ cứ ném Giuse xuống giếng.

Nghĩa là ông đă đồng ư với họ: trước sau cũng giết, nhưng nên giết một cách “sạch” hơn mà thôi, giết mà không đổ máu. Nằm trong đáy giếng, không cách nào lên được, Giuse hẳn là chết chắc.

Theo phương thức này, các anh của Giuse được một công đôi việc: Giuse sẽ chết. Tự ḿnh chết. C̣n tay họ th́ không dính máu .

Ư của Reuben là t́m kế hoăn binh để cứu Giuse. Kinh Thánh cho biết thế.

Nhưng v́ các em ông không thèm nghe lời ông - ông phải nói hai lần - mà cả hai lần ông nói, các em ông chẳng lấy làm điều!

Ông nói đến hai lần, mà không ngăn được âm mưu giết người, nên ông mới đưa ra một đề nghị gián tiếp. Ông tỏ ra đồng ư với họ, rồi đưa ra một phương pháp giết người có vẻ “gọn gàng” hơn, mong họ chấp thuận

Thế các em ông có nghe lời ông không? Chúng ta đọc tiếp câu chuyện kể :

Stk 37:23 Vayehi ka'asher ba Yosef el-echav vayafshitu et-Yosef et-kutanto et-ktonet hapasim asher alav. - When Yosef came to his brothers, they stripped him of his coat, the long, colorful coat that he had on. - Vậy khi Giu-se đến chỗ các anh, th́ họ lột áo chùng của cậu, chiếc áo chùng dài tay cậu đang mặc.

Stk 37:24 Vayikachuhu vayashlichu oto haborah vehabor reyk eyn bo mayim. - They took him and threw him into the pit. The pit was empty; there was no water in it. - Họ túm lấy cậu và ném xuống cái giếng; giếng đó cạn, không có nước.

Stk 37:25 Vayeshvu le'echol-lechem - They sat down to eat bread. - 25 Rồi họ ngồi xuống dùng bữa.

Thuật tŕnh cho thấy các em ông lột áo xống của Giuse, rồi túm lấy ông, đẩy ông xuống cái giếng cạn.

Họ làm theo đúng như Reuben đă đề nghị .

Có điều thuật tŕnh không hề ghi lại phản ứng của các em ông như thế nào đối với lời ông nói.

Nghĩa là thuật tŕnh không ghi thêm : “Các em ông nghe theo lời ông mà bỏ Giuse xuống giếng”, hay “Họ xô Giuse xuống giếng như Reuben đă nói.”

Không một chi tiết nào cho thấy các em ông làm v́ nghe theo lời ông.

Và câu chuyện kể tiếp :

Stk 37:

25 Vayeshvu le'echol-lechem vayis'u eyneyhem vayir'u vehineh orchat Yishme'elim ba'ah miGil'ad ugemaleyhem nos'im nechot utzri valot holchim lehorid Mitzrayim. - They sat down to eat bread. They raised their eyes and saw, - behold a Yishmaeli caravan was coming from Gilad. Their camels were carrying spices, balsam and lotus, bringing them down to Egypt.- Rồi họ ngồi xuống dùng bữa. [Họ ngước mắt lên và thấy đoàn thương khách Ismaên đến từ Gilad. Lạc đà của họ thồ gia vị , hương liệu và rễ ích mẫu đi để xuống Ai cập.]

26 Vayomer Yehudah el-echav mah-betza ki naharog et-achinu vechisinu et-damo. - Yehudah said to his brothers, "What will we gain if we kill our brother and cover up his blood? - 26 Giu-đa nói với các anh em: "Ta giết em và phủ lấp máu nó, nào có ích lợi ǵ?

27 Lechu venimkerenu la-Yishme'elim veyadenu al-tehi-vo ki-achinu vesarenu hu vayishme'u echav. - Come let us sell him to the Yishmaelim, and let our hands not be upon him; for he is our brother, our own flesh." His brothers listened [to him]. - Thôi, ta hăy bán nó cho người Ít-ma-ên, nhưng đừng động tay tới nó, v́ nó là em ta, là ruột thịt của ta." Các anh em nghe cậu.

Sau khi ném Giuse xuống giếng, các anh ngồi xuống để ăn, và khi đoàn thương khách Ismael xuất hiện, Giuđa lên tiếng : “Mah-betza - Chúng ta được ích lợi về điều ǵ nếu chúng ta giết em ? “

Cho măi đến lúc này, lúc Giuđa nói câu trên đây, câu “ nếu chúng ta giết em”, th́ các anh vẫn c̣n nuôi ư định giết Giuse.

Nghĩa là Reuben đă thất bại trong việc khuyên giải các em ḿnh đừng giết Giuse nữa. Reuben đă không đủ mạnh, không đủ uy tín để thuyết phục các em, và hơn thế, các em không thèm nghe lời ông anh cả này .

Câu chuyện c̣n có thể rẽ sang nhiều ngă khác.

Có thể các anh sẽ bỏ mặc Giuse trong giếng cạn. Rồi Reuben lén tới để cứu Giuse lên. Nhưng sau đó th́ sao ? Gặp lại Giuse c̣n sống, lại một màn âm mưu khác. Giuse vẫn không tránh khỏi họa chết !

Hay tệ hơn, các anh xô Giuse xuống giếng. Ăn xong bữa, họ ...lấp giếng lại cho chắc ăn và để phi tang. Nếu thế Reuben cũng chẳng thể cứu Giuse được nữa .

Đàng nào th́ đàng, cách Reuben can thiệp vẫn không cứu được Giuse !

 

 

26-

Nhưng t́nh h́nh thay đổi hẳn từ khi có Giuđa can thiệp vào. Chúng ta hăy phân tích.

Giuđa ngồi xuống cùng ăn với các anh em. Câu gợi ư của ông bắt đầu bằng câu “Vayomer Yehudah el-echav ...- Yehudah said to his brothers, - Giu-đa nói với các anh em”

Nghĩa là ông không phải người ngoài cuộc. Ông là người trong nhóm, khác hẳn với Reuben .

Rồi Giuđa nói với các anh em trong tư thế ngôi thứ nhất: Ông bao gồm cả ông trong câu nói : “ki naharog et-achinu vechisinu et-damo. (Chúng – WE ) Ta giết em và phủ lấp máu nó, nào có ích lợi ǵ?”

Reuben th́ dùng ngôi thứ hai để can ngăn các em : “al-tishpechu-dam hashlichu oto el-habor hazeh asher bamidbar veyad al-tishlechu-vo lema'an hatzil oto miyadam lahashivo el-aviv. - (Các em- YOU ) "Đừng đổ máu! (Các em -YOU) Cứ ném nó xuống cái giếng kia trong sa mạc, nhưng (các em - YOU) đừng giơ tay hại nó.”

Nghĩa là Reuben không tính ḿnh trong số các em .

Giuđa rất trân trọng t́nh huynh đệ của ḿnh. Nó như là mối bận tâm lớn trong tâm tư và trong những câu nói Giuđa thốt ra . Và đó cũng là yếu tố nổi bật nơi Giuđa khiến các anh em khác thấy mà xiêu ḷng để rồi nghe theo lời ông .


Rồi Giuđa dùng ngay chữ “lợi lộc” đầu tiên để bàn tính công chuyện “Mah-betza - Có lợi lộc ǵ ?” Nghĩa là được bao nhiêu tiền mà bơ công giết em ?

Và ông đưa ra đề nghị “Lechu venimkerenu la-Yishme'elim... - Thôi, (chúng) ta hăy bán nó cho người Ít-ma-ên...”

Nghĩa là các ông nắm được tiền rủng rỉnh trong tay . Giải quyết được Giuse mà lại c̣n được giầu thêm .

Lời đề nghị của Giuđa khiến ta sửng sốt hơn đề nghị của Reuben . Giuđa đề nghị giết hay bán em ruột ḿnh như một món hàng để được lợi, được tiền. Thoạt nghe chúng ta thấy Giuđa đă cho các anh em một cách làm giầu. Muốn giầu th́ cứ việc.. bán em ruột !

Chỉ sau khi đưa ra cái mồi lợi lộc, Giuđa mới nói đến luân lư: “veyadenu al-tehi-vo ki-achinu vesarenu hu - nhưng đừng động tay tới nó, v́ nó là em ta, là ruột thịt của ta."

Tại sao Giuđa chỉ nói đến luân lư ở lúc phút cuối cùng ?

Giuđa t́m cách thuyết phục anh em. Nên ông không thể mới bắt đầu nói đă vội bắt anh em nghe giảng... luân lư. Như thế chỉ tổ cho các anh em bịt tai mà không nghe tiếp. Ông khôn khéo bắt đầu bằng điều mà ai cũng muốn nghe: lợi lộc tiền bạc. Sau đó mới nói đến luân lư tính.

V́ thế mà Giuđa thành công ngay tại điểm mà Reuben thất bại .

Chúng ta cũng nên để ư đến chi tiết Giuđa hai lần dùng từ “achinu – em chúng ta” khi nói đến Giuse. Ông dùng một lần ngay đầu câu nói, khi nói về lợi lộc, và lần thứ hai ở cuối câu, khi nhắc khéo đến luân lư tính.

Như thế ông t́m cách nhắc khéo cho các anh em rằng Giuse vẫn là em của họ.Và ông c̣n nhấn mạnh “versarenu hu - ruột thịt chúng ta !” Điều này đánh động ḷng các anh em .

C̣n chữ “ach - anh em” được dùng bốn lần trong hai câu Kinh Thánh ghi lại câu nói của Giuđa, hai lần để chỉ tương quan giữa Giuđa và các anh em , và hai lần Giuđa nói về Giuse như anh em chúng ta .

Như thế dường như Giuđa rất trân trọng t́nh huynh đệ của ḿnh. Nó như là mối bận tâm lớn trong tâm tư và trong những câu nói Giuđa thốt ra . Và đó cũng là yếu tố nổi bật nơi Giuđa khiến các anh em khác thấy mà xiêu ḷng để rồi nghe theo lời ông .

Khi gọi Giuse là “anh em, ruột thịt chúng ta” Giuđa tŕnh bày Giuse với các anh em dưới một cái nh́n khác, không phải là “kẻ thù” như lâu nay các anh em đang “gh́m trong ḷng”, mà là “em”, người em ruột thịt .

Ngược lại Reuben không hề gọi Giuse là “em chúng ta”. Ôg không bày tỏ cho các em ḿnh thấy được ḿnh trân quư t́nh huynh đệ.

Ông sống tách xa các em, ông cũng tách biệt Giuse khỏi các anh. V́ thế lời ông nói không thấm được vào ḷng các em. Các em không “ăn lời” ông .

Và Kinh Thánh ghi lại kết qủa của Giuđa : Stk 37:27 “vayishme'u echav. - His brothers listened [to him]. -Các anh em nghe cậu.

Họ bán Giuse cho nhóm thương khách Ismael

Stk 37: 28 Vaya'avru anashim Midianim socharim vayimshechu vaya'alu et-Yosef min-habor vayimkeru et-Yosef la-Yishme'elim be'esrim kasef vayavi'u et-Yosef Mitzrayim. – Midianim merchants passed by. They [the brothers] pulled Yosef up from the pit and sold Yosef to the Yishmaelim for twenty pieces of silver. They brought Yosef to Egypt. – Những lái buôn người Ma-đi-an đi qua đó kéo Giu-se lên khỏi giếng, rồi bán cậu cho người Ít-ma-ên hai mươi đồng bạc. Những người này đưa Giu-se sang Ai-cập.

 

 

27-

Lúc anh em bán Giuse, lại không có mặt Reuben tại hiện trường, v́ sau đó Kinh Thánh miêu tả phản ứng của Reuben như sau :

29 Vayashav Re'uven el-habor vehineh eyn-Yosef babor vayikra et-begadav. - Reuven returned to the pit, but behold, Yosef was not in the pit. He [then] tore his clothes [in grief]. - Khi Rưu-vên trở lại giếng th́ thấy Giu-se không c̣n ở dưới giếng nữa. Cậu liền xé áo ḿnh ra.

30 Vayashav el-echav vayomar hayeled eynenu va'ani anah ani-vah. - He returned to his brothers and said, "The boy is not there; and I - where can I go." - Cậu đến nói với các em: "Thằng bé không c̣n nữa! C̣n tôi, tôi biết đi đâu bây giờ! "

Qua những câu trên đây, chúng ta có bằng chứng cho thấy Reuben không ngồi ăn chung với các em. V́ nếu có ngồi ăn chung, th́ đă biết Giuđa can thiệp can thiệp vào và đă biết các em nghe theo lời Giuđa mà bán Giuse đi rồi.

Như thế Reuben không tham dự vào cuộc bàn bạc lập mưu, không ăn chung, không có mặt lúc Giuđa góp ư. Tuy là anh cả mà Reuben sống như người ngoài giữa nhóm anh em con nhà Giacóp.

Nên Reuben có nói, mà không ai nghe .

Khi không tham dự vào cuộc bàn bạc lập mưu giết Giuse, Reuben tránh được việc rửa tay.

Nhưng khi lên tiếng can gián mà không ai nghe, th́ Reuben phải hiểu rằng cuộc giết người vẫn đang được tiến hành. Biết thế tại sao Reuben lại c̣n bỏ đi đâu ?

Khi ông vắng mặt vào thời điểm tội ác có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nghĩa là ông không dấn thân chịu trách nhiệm về an nguy của Giuse cho đến cùng. Lẽ ra ông phải có mặt đó để theo dơi, để canh chừng, để can thiệp vào đúng lúc cần thiết .

Cuối cùng ông trở lại chỉ đế thấy cái giếng trống không . Xé áo, rền rĩ : “anah ani- vah Tôi biết đi đâu bây giờ ?”

Nếu ông đă không biết số phận Giuse, th́ ông cũng chẳng c̣n biết chính ông rồi sẽ ra sao – “anah ani – vah” !

Nghe thế các em ông có đoái hoài ǵ đến ông không ?

Không ! Họ chẳng thèm nói với ông một lời. Dường như họ muốn nói với Reuben rằng “Có ǵ mà phải làm um xùm lên như thế !”

Họ lẳng lặng đi lấy áo của Giuse, trây đầy máu thú vật vào. Họ ngụy tạo một cái cớ để trốn tránh trách nhiệm cho họ. Và cho cả Reuben.

Nhiều năm sau, khi anh em sang AiCập mua lúa thóc, cả bọn bị Giuse thử thách. Ban đầu ông nói: giam cả bọn, chỉ cho một người về mang Benjamin sang. (Stk 42:17)

Sau khi giam bọn họ ba ngày, ông lại nói : giữ lại một người, các người khác được về, khi nào mang Benjamin sang th́ sẽ thả người bị giam. Tuỳ anh anh quyết định .

Bọn họ đứng trước mặt Giuse bàn bạc xem ai đáng bị giam lại. (Stk 42:20-24)

Chúng ta thử tản mạn xem thái độ của Reuben:

21 Vayomeru ish el-achiv aval ashemim anachnu al-achinu asher ra'inu tzarat nafsho behitchaneno eleinu velo shamanu al-ken ba'ah eleinu hatzarah hazot. -They then said to one another, "Indeed we are guilty concerning our brother inasmuch as we saw his heartfelt anguish when he pleaded with us and we paid no heed; that is why this anguish has come upon us."-Họ bảo nhau: "Than ôi! Chúng ta có lỗi với em chúng ta: chúng ta đă thấy nó phải ngặt nghèo. Nó đă năn nỉ chúng ta, nhưng chúng ta chẳng nghe. Chính v́ thế mà chúng ta gặp cảnh ngặt nghèo này."

22 Vaya'an Re'uven otam lemor halo amarti aleichem lemor al-techet'u vayeled velo shematem vegam-damo hineh nidrash. – Reuven spoke up to them, saying, "Did I not speak to you saying, 'Do not sin against the boy,' but you would not listen! And his blood as well - behold! - is being avenged. - Ông Rưu-vên trả lời họ rằng: "Tôi đă chẳng bảo các chú thế này sao: "Đừng phạm tội hại đến thằng bé! " nhưng các chú đă không chịu nghe. Bây giờ th́ phải đền nợ máu nó! "

Thuật tŕnh bắt đầu bằng câu : “Vayomeru ish el- achi Họ bảo nhau.” Các anh em nhớ đến tội cũ. Ngôn từ họ dùng rất tha thiết , biểu lộ tâm t́nh thống hối: “Than ôi chúng ta có lỗi với em chúng ta.” Họ dùng chữ “al-achinu”, từ trước kia Giuđa đă dùng.

Sau bao nhiêu năm mà trí nhớ của họ về biến cố vẫn c̣n được các từ của Giuđa ảnh hưởng. Tuy không giết em, nhưng họ vẫn cảm thấy “aval ashemim – là những người có lỗi với em” .

Trong khi đó ở đầu câu sau, chúng ta gặp mấy chữ “Vaya’an Re’uven” Reuben vẫn là người đứng ngoài, không can dự vào cuộc bàn luận.Ông mở miệng chỉ để kết tội các em:

“Tôi đă chẳng bảo các chú ..” Ông không cùng nhóm, không mang tâm trạng bời bời thống hối như các em. Ông đứng ở ngôi thư nhất mà ch́ chiết họ, ngôi thứ hai.

Khi các em ông đă thú nhận : “Nó là em chúng ta” th́ Reuben vẫn c̣n lập lại câu ông đă nói bao nhiêu năm trước: “Đừng đố máu nó !”

Và nhất là ông đă nói lên sự kiện : “ mà các chú không nghe .”

Đó c̣n là sự thật về tương quan giữa ông và các em: Họ không nghe lời ông. Ông không đủ bản lănh để các em ông nghe ông.

 

 

28–

Chúng ta đă tản mạn về xung khắc giữa Abraham và Lot, giữa Esau và Giacóp, giữa Giuđa và Giacóp, giữa Reuben và Giuđa .

Bây giờ đă đến lúc chúng ta thử tản mạn về những cách thế Giuse sử dụng để “đọc được” tâm t́nh của các anh em.

Sơ lược câu chuyện đến đây là như sau :

Sau khi giam các anh ba ngày , Giuse thả các anh ra với điều kiện họ phải chọn một người ở lại bị tù làm con tin, cho đến khi họ trở lại mang theo Benjamin.

Họ bàn bạc nhau mà không đi đến kết quả. Giuse khóc khi nghe họ thú nhận lỗi xưa .

Dường như các anh không đành ḷng chọn ai làm tù nhân, nên Giuse trở lại bắt giam Siméon.

Trên đường về, tới lữ quán, ngoài số lúa thóc mua được, mỗi người phát giác trong bao c̣n nguyên cả tiền mua lương thực :

Stk 42: 27 Vayiftach ha'echad et-sako latet mispo lachamoro bamalon vayar et-kaspo vehineh-hu befi amtachto. - When the one of them opened his sack to give feed to his donkey at the inn, he saw his money, and behold! - It was in the mouth of his sack.- Tại nơi họ dừng lại nghỉ đêm, một người trong bọn họ mở bao của ḿnh để cho lừa ăn, th́ thấy bạc của ḿnh: bạc ấy ở miệng bao lúa ḿ.

28 Vayomer el-echav hushav kaspi vegam hineh ve'amtachti vayetze libam vayecherdu ish el-achiv lemor mah-zot asah Elokim lanu. - So he said to his brothers, "My money has been returned and behold! it, too, is in my sack!" Their hearts sank, and they turned trembling one to another, saying, "What is this that G-d has done to us?" - Người ấy nói với anh em ḿnh: "Người ta đă trả lại bạc của tôi! Nó ở trong bao lúa ḿ của tôi đây này! " Họ hết hồn hết vía, kinh hoàng nói với nhau: "Thiên Chúa làm ǵ cho chúng ta thế này! "

Họ ngạc nhiên hoảng sợ là phải, v́ b́nh thường trong bao, hoặc có lương thực, hoặc có tiền, chứ không thể có cả hai .

Các anh em của Giuse không biết thế nào mà họ lại có cả tiền cả thóc. C̣n chúng ta, độc giả, chúng ta biết sự việc đă xảy làm sao, do đâu.

Nhưng chúng ta lại không biết tại sao Giuse sai bỏ tiền lại vào bao ?

Chúng ta thử t́m hiểu lư do nào Giuse bỏ tiền vào bao các anh ?

Đừng quên rằng chúng ta đang cố công t́m hiểu việc làm của một bộ óc xuất chúng, mới chỉ 30 tuổi đă thành công rực rỡ trong chức vụ Tổng trưởng Kinh tế một đế quốc lúc bấy giờ .


Đừng quên rằng chúng ta đang cố công t́m hiểu việc làm của một bộ óc xuất chúng, mới chỉ 30 tuổi đă thành công rực rỡ trong chức vụ Tổng trưởng Kinh tế một đế quốc lúc bấy giờ .

Những người đầu tiên có thể giúp ta hiểu chút ít lư do có thể là những... gia nhân của Giuse. V́ Giuse sai người bỏ tiền lại vào bao mỗi anh em :

Stk 42: 25 Vayetzav Yosef vayemal'u et-kleyhem bar ulehashiv kaspeyhem ish el-sako velatet lahem tzedah ladarech vaya'as lahem ken. -Yosef commanded that they fill their vessels with grain, and to return their money, each one's to his sack, and to give them provisions for the journey. And so he did for them.- Rồi ông Giu-se truyền đổ đầy lúa ḿ vào bao bị của họ, và truyền trả lại bạc: của ai th́ để vào bao người ấy, đồng thời cho họ lương thực ăn đường. Ông đă xử sự với họ như thế.

Nhưng khi làm theo lệnh, chắc chắn các thuộc hạ của Giuse cũng chỉ nghĩ rằng rằng đây lại là một hành vi quảng đại nữa của chủ nhân. Mặc dù nghi đám người này là dọ thám đến từ đất Canaan, chủ nhân của họ vẫn rộng lượng bán lương thực cho họ, giúp cho đầy đủ lương thực đi đường.

Không những thế ông c̣n trả lại tiền mua thực phẩm. Coi như ông “biếu không” lương thực mang về.

Quả thực ông chủ của họ là người rộng răi và tốt bụng .

Nếu chỉ nh́n theo quan điểm của các gia nhân như trên,chúng ta hẳn cũng thấy được chủ đích của thuật tŕnh: muốn miêu tả Giuse như một người đă có đầy uy quyền mà c̣n tốt bụng, rộng răi, đầy từ nhân.

Ngoài việc ông có hậu ư nào đó khi giam Simeon lại (Stk 42;24), c̣n th́ ông tỏ ra chu đáo và chăm lo cho các anh rất mực.

Trong thời buổi đói kém, lúa thóc là cần, nhưng tiền mặt cũng không phải là vô dụng. Vả lại chưa hẳn các anh có dư giả tiền bạc. Tóm lại Giuse muốn cho gia đ́nh được rộng răi về phương tiện cho đến khi cơn đói kém tác hại tiếp tục.

Nạn đói mới chỉ bắt đầu sang năm thứ hai. C̣n những năm năm dài nữa phải đối phó .

Nhiều chi tiết khác cho phép chúng ta kết luận như thế. Chẳng hạn khi nghe các anh bàn bạc, Giuse lánh mặt đi mà khóc (Stk 42:24).

Ông khóc v́ xúc động khi nghe các anh hối lỗi. Họ thú lỗi ngày xưa đă dửng dưng khi thấy em Giuse của họ nài xin tha mạng mà họ không hề đoái.

Những giọt nước mắt của Gisue cho thấy ông vẫn c̣n t́nh nghiă với anh em, tuy rằng ngày xưa anh em đă đoạn t́nh dứt nghĩa với ông.

Nước mắt đă nối kết lại tương giao anh em (Stk 41:51). Ông đă để lộ yếu điểm của ḷng ông. Tuy ông vẫn phải thi hành chương tŕnh ông định làm, tuy phải bắt giam Simeon, Giuse vẫn trả lại tiền cho các anh em .

Vụ trả lại tiền (Stk 42:18-28) bắt đầu với việc Giuse tha các anh em sau ba ngày giam tù. Chúng ta hăy nghe Giuse đề nghị :

Stk 42: 18 Vayomer alehem Yosef bayom hashlishi zot asu vicheyu et-ha'Elokim ani yare. -Yosef said to them on the third day, "Do this and live; I fear G-d: - Đến ngày thứ ba, ông Giu-se bảo họ: "Các người muốn sống th́ hăy làm thế này, v́ ta kính sợ Thiên Chúa.

19 Im-kenim atem achichem echad ye'aser beveit mishmarkhem ve'atem lechu havi'u shever ra'avon bateychem. -If you are truthful people, let one of your brothers be imprisoned in your place of confinement while you go and bring provisions for the hunger of your households. - Nếu các người là những kẻ lương thiện, th́ một anh em cứ phải chịu giam trong nhà tù này, c̣n các người khác th́ hăy ra đi, đem lúa về cho gia đ́nh khỏi đói.

Chúng ta có để ư chi tiết là ông hoàng Ai cập khó hiểu này bỗng dưng nhắc đến Thiên Chúa : “et-ha'Elokim ani yare. - I fear G-d: - v́ ta kính sợ Thiên Chúa.”

Khi đưa ra một thử thách và trắc nghiệm đám con cái Giacóp, nghĩa là con cháu của Abraham, cái ông hoàng người Ai cập lại nhắc đến “Elokim- Thiên Chúa”

Nghĩa là một người lương mà lại biết kính sợ Đức Chúa Trời !

Khi đưa ra một thử thách và trắc nghiệm đám con cái Giacóp, nghĩa là con cháu của Abraham, cái ông hoàng người Ai cập lại nhắc đến “Elokim- Thiên Chúa”, nghĩa là một người lương mà lại biết kính sợ Đức Chúa Trời !


Mà ḷng kính sợ Thiên Chúa th́ con cái ông Giacóp, - ḍng dơi Abraham - th́ không c̣n lạ ǵ . Ngày xưa khi đối đầu với vua Avimelekh, Abraham đă phải gọi Sarah là “em gái”: “Ông Áp-ra-ham trả lời: "Tôi nghĩ bụng: "Ở nơi này người ta chẳng kính sợ ǵ Thiên Chúa, và v́ vợ tôi họ sẽ giết tôi."(Stk 20:11).

Theo kinh nghiệm của Abraham, “không biết kính sợ Thiên Chúa” có nghĩa là sống buông tuồng, vô luân lư, không hiếu khách, tàn bạo khi có quyền hành, và nghĩa là giết người như ngóe .

C̣n “kính sợ Thiên Chúa” là ngược lại hoàn toàn : có hạnh kiểm, tốt bụng, có tinh thần giúp đỡ, và tôn trọng sự sống kẻ khác .

Khi ông hoàng Ai Cập cho các anh em con nhà Giacóp biết ông kính sợ Thiên Chúa, là ông đă cho họ thấy ông tôn trọng một mức luân lư không những rơ rệt mà c̣n cao.

Nghĩa là ông giải thích tại sao ông thả họ. Đồng thời ông trông chờ họ phải chứng minh điều họ nói có thật hay không.

Nếu họ lanh trí, hay không bị bối rối v́ vụ việc đang xảy ra, và không bị áng mây của cái tội giết em trong quá khứ ám ảnh, hẳn họ đă nhận ra ông ta đang đứng cùng họ trong truyền thống của cụ tổ Abraham.

Cho nên khi thấy các anh đang đứng trước mặt ông, sợ hăi, vô phương tự vệ trước cái chết bất ưng, th́ điều tốt nhất Giuse có thể giúp họ, đó là cho lại họ tiền và các nhu yếu phẩm .

 

 

29-

Bây giờ nếu chúng ta đứng trong cương vị của các anh, chúng ta sẽ nh́n sự kiện một cách khác hẳn .

Sau khi một người khám phá thấy có tiền trong bao lương thực, Kinh Thánh ghi rơ rằng cả bọn họ “kinh sợ” :

Stk 42:28 Vayomer el-echav hushav kaspi vegam hineh ve'amtachti vayetze libam vayecherdu ish el-achiv lemor mah-zot asah Elokim lanu. - So he said to his brothers, "My money has been returned and behold! it, too, is in my sack!" Their hearts sank, and they turned trembling one to another, saying, "What is this that G-d has done to us?" - Người ấy nói với anh em ḿnh: "Người ta đă trả lại bạc của tôi! Nó ở trong bao lúa ḿ của tôi đây này! " Họ hết hồn hết vía, kinh hoàng nói với nhau: "Thiên Chúa làm ǵ cho chúng ta thế này! "

Họ hoàn toàn không cho chuyện t́m thấy tiền là điều tốt lành ! Theo thuật tŕnh, xem ra những người khác không dám lục t́m trong bao lương thực của ḿnh xem coi có tiền như người kia hay không .

Măi khi về đến đất Canaan, thuật lại chuyến đi cho bố Giacóp nghe, họ dấu bẵng chuyện một người t́m thấy có tiền.

Chúng ta đọc lại mấy câu này (Stk 42:29–34) : “Khi trở về với ông Gia-cóp, cha họ, ở đất Ca-na-an, họ thuật lại cho ông mọi việc đă xảy đến với họ; họ nói:30 "Ông chúa xứ ấy đă ăn nói với chúng con cách cứng cỏi, và coi chúng con là bọn người đến do thám xứ ấy.31 Chúng con nói với ông ta: "Chúng tôi là người lương thiện, không phải là bọn do thám.32 Chúng tôi là mười hai anh em, con cùng một cha. Một đứa không c̣n nữa, đứa út th́ hiện đang ở với cha chúng tôi tại đất Ca-na-an."33 Nhưng ông chúa xứ ấy bảo chúng con: "Căn cứ vào điều này, ta sẽ biết các người là những kẻ lương thiện: các người hăy để một anh em ở lại với ta, hăy lănh phần lương thực cứu đói cho gia đ́nh và ra đi.34 Các người hăy đem đứa em út đến cho ta; như vậy ta sẽ biết các người không phải là bọn do thám, nhưng là người lương thiện. Ta sẽ trả lại người anh em kia, và các người sẽ có thể đi lại mua bán trong xứ.”

Nhưng đến lúc tháo bao lương thực, tất cả ai nấy đều thấy trong bao có tiền.

Đến nước này th́ cả cha lẫn con đều kinh hoảng :

Stk 42: 35 Vayehi hem merikim sakeyhem vehineh-ish tzror-kaspo besako vayir'u et-tzerorot kaspeyhem hemah va'avihem vayira'u. -Then, as they were emptying their sacks, behold! - every man's bundle of money was in his sack. When they and their father saw their bundles of money, they were terrified. - Khi họ đổ bao ra, th́ mỗi người thấy trong bao có túi bạc của ḿnh. Thấy những túi bạc, họ và cha họ phát sợ.

Nhưng tại sao tiền lại làm cho họ sợ ? Và họ sợ cái ǵ ? Đây là một nỗi sợ b́nh thường hay có ǵ mà họ sợ đặc biệt ?

Quả thực bọn họ có một nỗi sợ không b́nh thường .

Sau này, khi sang Ai cập lần thứ hai, họ bị đưa ngay vào ngay dinh của Giuse, và họ vội vă kết luận ngay lư do :

Stk 43:18 Vayir'u ha'anashim ki huve'u beyt Yosef vayomeru al-devar hakesef hashav be'amtechoteinu batchilah anachnu muva'im lehitgolel aleinu ulehitnapel aleinu velakachat otanu la'avadim ve'et-chamoreinu. - But the men became frightened when they were brought to Yosef's house, and they said, "Because of the money replaced in our sacks originally are we being brought, so that a charge can be fabricated against us, that it crash down on us, and that we be take as slaves along with our donkeys." Họ sợ hăi khi bị đưa về nhà ông Giu-se, họ nói: Chúng ta bị đưa đi v́ chuyện số bạc đă được trả lại trong bao lúa của chúng ta lần trước. Người ta sắp xông tới, nhảy bổ vào chúng ta, bắt chúng ta làm nô lệ, và lấy lừa của chúng ta."

Vậy họ cho rằng đây đúng là một âm mưu .

Các anh em con nhà Giacóp cho rằng ông hoàng Ai Cập lắm mưu mô và khó hiểu này đă vờn họ như mèo vờn chuột.

Trong chuyến trước ông đă gán cho họ cái tội do thám để giam họ vào tù ba ngày. Rồi v́ t́m không ra chứng cớ, ông giả bộ nói ḿnh “kính sợ Thiên Chúa” để có lư do tha họ .

Nhưng tất cả những chuyện đó chỉ là bề ngoài.

V́ ông biết chắc họ sẽ phải trở lại v́ ông đă bắt giam Siméon làm con tin rồi. Và đồng thời ông đă lén bỏ tiền vào bao của họ để có cớ bắt họ giam tù và bắt họ làm nô lệ !

Bắt họ làm nô lệ !

Các anh của Giuse quả có lư do để sợ t́nh trạng bị bắt làm nô lệ . Họ không cho cái viễn cảnh bi đát đang dần dần xảy ra là do ông hoàng Ai Cập tạo ra, mà là do chính Thiên Chúa.

Họ đă thốt lên như thế ngay khi phát giác có tiền trong túi lương thực mà : “lemor mah-zot asah Elokim lanu.- "Thiên Chúa làm ǵ cho chúng ta thế này! "

Nghĩa là họ lo lắng v́ Thiên Chúa ra tay, hơn là v́ đây là âm mưu của ông hoàng Ai Cập !

 

 

 


Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

Xem các bài viết khác trong Lớp Ngôn sứ , Khoá 15 GHHV Đà Lạt Việt Nam.