Huynh đệ như thủ túc
兄弟如手足

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

MichelAnge

 

 

 

38-

Đă đến lúc chúng ta bàn đến những giọt nước mắt của Giuse .

Đến cuối diễn từ của Giuđa, mà dường như Giuđa chưa kịp kết thúc bài độc thoại, đến lúc Giuđa đứng ra thay cho Benjamin chịu tội ở tù, th́ Giusa bật khóc.

Ông không ḱm giữ được t́nh cảm. Ông rơi lệ .

Ông hoàng Ai Cập rơi lệ.

Không những rơi lệ mà rơi cả cái mặt nạ lâu nay ông núp sau để hạch sách các anh .

Stk 45:1 Velo-yachol Yosef lehit'apek lechol hanitzavim alav vayikra hotzi'u chol-ish me'alai velo-amad ish ito behitvada Yosef el-echav. - Now Yosef could not restrain himself in the presence of al who stood before him, so he called out, "Remove everyone from before me!" Thus no one remained with him when Yosef made himself known to his brothers. - Ông Giu-se không thể cầm ḷng trước mặt tất cả những người đứng bên ông, nên ông kêu lên: "Bảo mọi người ra khỏi đây! " Khi không c̣n người nào ở với ông, ông Giu-se mới tỏ cho anh em nhận ra ḿnh

2 Vayiten et-kolo bivechi vayishme'u Mitzrayim vayishma beit Par'oh. - He cried in a loud voice. Egypt heard, and Pharaoh's household heard.- Ông oà lên khóc và người Ai-cập nghe được, triều đ́nh Pha-ra-ô cũng nghe thấy.

Điều ǵ đă khiến cho Giuse mất tự chủ như thế ?

Trước giờ chúng ta thấy Giuse rất tự chế. Đôi lần ông khóc, nhưng ông thường lẻn vào pḥng riêng để rơi lệ, không cho các anh ḿnh biết. V́ chưa muốn tỏ bày thân phận.

Thế mà giờ đây chương tŕnh của ông đột ngột thay đổi,

1-

Lư do thứ nhất chúng ta dễ đoán ra được hẳn là Giuse bật khóc là v́ ông quá xúc động. Xúc động dồn dập đă khiến ông mất tự chủ.

Ở các đoạn Stk 42:24 và Stk 43:30-31 ông đă phải lánh mặt các anh, để khóc một ḿnh, khi cơn xúc động trào dâng .

Trong đoạn thứ hai này chúng ta gặp động từ “vaYit’apak – ông tự chế, cầm ḷng, “

30 Vayemaher Yosef ki-nichmeru rachamav el-achiv vayevakesh livkot vayavo hachadrah vayevk shamah. - Then Yosef rushed because his compassion for his brother had been stirred and he wanted to weep; so he went into the room and wept there.- Trông thấy em, ông xúc động nghẹn ngào, rồi đi vội vào pḥng riêng mà khóc.

31 Vayirchatz panav vayetze vayit'apak vayomer simu lachem. - He washed his face and went out, fortified himself and said, "Serve food." - 31 Sau đó, ông rửa mặt và đi ra; ông cầm ḷng mà nói: "Dọn bữa lên!"

Trong câu Stk 45:1, thuật tŕnh dùng cùng một động từ y hệt “hit'apek” .

Như thế chúng ta thấy cảm xúc của Giuse, cùng một cảm xúc, càng ngày càng dâng cao như sóng triều, đột ngột thành băo tố, lúc Giuđa kết thúc cuộc bào chữa .

Stk 45:1 Velo-yachol Yosef lehit'apek lechol hanitzavim alav vayikra hotzi'u chol-ish me'alai velo-amad ish ito behitvada Yosef el-echav. - Now Yosef could not restrain himself in the presence of al who stood before him, so he called out, "Remove everyone from before me!" Thus no one remained with him when Yosef made himself known to his brothers. -1 Ông Giu-se không thể cầm ḷng trước mặt tất cả những người đứng bên ông, nên ông kêu lên: "Bảo mọi người ra khỏi đây! " Khi không c̣n người nào ở với ông, ông Giu-se mới tỏ cho anh em nhận ra ḿnh.

2-

Giuse phải rơi lệ v́ có quá nhiều áp lực của “những người đứng bên ông”.

Nghĩa là lúc Giuđa biện bạch đến chỗ “Vậy bây giờ, tôi tớ ngài xin ở lại làm nô lệ ngài thế cho thằng bé, c̣n thằng bé th́ xin cho về với các anh nó.34 Thật vậy, tôi về với cha tôi thế nào được, nếu thằng bé không cùng đi với tôi? Tôi không thể nào chứng kiến tai hoạ sẽ giáng xuống cha tôi! " th́ những người chung quanh ông, gia nhân tả hữu cũng như các anh em ông đứng dưới kia, trước mặt ông, họ cũng không cầm ḷng được, mỗi người một câu nói thêm vào.

Điều đó càng làm cho đề nghị của Giuđa thêm sức mạnh dẫn dụ. Và Giuse nhận thấy một lần nữa ḿnh đă quá đáng khi cứ măi bắt chẹt các anh như thế .

3-

Chúng ta đừng quên c̣n một lư do khác mà chúng ta đă nhắc đến:

Giuse khóc và tự tỏ ḿnh, v́ đến lúc đó, ông biết các anh đă thành thực nhận và thống hối lỗi xưa.

Khi Giuse cố ư đẩy các anh vào một t́nh huống tương tự năm xưa, ông muốn xem xét các anh có nhẫn tâm bỏ mặc Benjamin vào tù, để mua lấy sự an toàn cho chính bản thân họ, hay không .

Khi Giuse cố ư đẩy các anh vào một t́nh huống tương tự năm xưa, ông muốn xem xét các anh có nhẫn tâm bỏ mặc Benjamin vào tù, để mua lấy sự an toàn cho chính bản thân họ, hay không .

Ngày xưa chính Giuđa đưa ra ư kiến bán Giuse cho nhóm thương khách Medianite, ngày nay chính ông đứng ra thế mạng cho Benjamin.

Giuse thấy được rơ ràng rằng tội năm xưa đă được thống hối. Ông xúc động trước ḷng chân thành của Giuđa và các anh.

4-

Không ít th́ nhiều, tranh chấp về uy quyền giữa con cái các bà vợ của Giacop cũng là đầu mối các xung khắc giữa các anh em và là nguyên do gây nên tai ương cho Giuse.

Khi nghe Giuđa nói câu “Các con biết rằng vợ của cha đă sinh cho cha hai đứa.” (Stk 44:27) kể lại câu tâm sự của Giacóp, th́ người “vợ” được Giacóp đề cập đến không ai khác hơn là bà Rachel, mẹ của Giuse.

Giuđa đă bỏ qua cảm t́nh riêng của ḿnh dành cho mẹ ḿnh, là bà Leah, mà thành thực kể lại t́nh cảm của bố Giacóp dành cho d́ Rachel. Điều này rơ ràng biểu lộ một biến chuyển t́nh cảm nơi Giuđa và các anh : Không c̣n nghi kỵ và ganh ghét d́ Rachel cũng như ganh ghét các con của d́ ấy nữa.

Phần nào họ đă chấp nhận hiện trạng là Giacóp vẫn thương yêu hai anh em d́ Rachel hơn các người khác. Và không c̣n ganh tỵ như xưa nữa .

Như thế ít ra Giuse cảm thấy được an toàn hơn khi bày tỏ thân phận ḿnh .

5-

Khi Giuse bày tỏ thân phận, ông đă nói một câu nghe thật bất ngờ :

Stk 45:3 Vayomer Yosef el-echav ani Yosef ha'od avi chai velo-yachlu echav la'anot oto ki nivhalu mipanav. -And Yosef said to his brothers, "I am Yosef. Is my father still alive?" But his brothers could not answer him because they were left disconcerted before him. - Ông Giu-se nói với anh em: "Tôi là Giu-se đây! Cha tôi c̣n sống không? "

Tại sao Giuse lại hỏi: “Avi chai – Cha c̣n sống không ?”

Trong bài diễn văn, nhiều lần Giuđa nhấn mạnh rằng nếu Benjamin không trở về th́ cha sẽ chết. Nghĩa là cho đến lúc này, mọi người, và cả Giuse, đều biết rằng Giacóp vẫn c̣n sống !

Vậy Giuse có ư ǵ khi hỏi câu ấy ?

Chính là v́ Giuse muốn nói: “Qua bao nhiêu sự cố đau thương như thế th́ cha tôi c̣n sống được chăng ?”

Khi Giuđa cho biết những đau thương trầm thống mà cụ Giacóp phải chịu, từ khi Giuse mất đi,và nhất là khi Giuđa nhấn mạnh nhiều lần rằng Benjamin mà không trở về th́ chắc chắc cụ Giacóp sẽ không thể nào sống nổi.

Nghĩa là nếu Giuse cứ khăng khăng giữ Benjamin, Giuse trở thành thủ phạm giết cha .

V́ thế Giuse không thể nào cầm ḷng được.

Và ông đă bật khóc .

Có điều đây không phải là lần đầu tiên, cũng chẳng phải là lần cuối cùng ông khóc.

Ông là ông hoàng Ai Cập mau nước mắt .

 

 

39-

Chúng ta thử tản mạn t́m lư do cho những giọt lệ của Giuse.

Trong đời ông, ông khóc cả thảy bảy lần, được ghi lại trong Kinh Thánh. (Stk 42:24, 43:30, 45:2, 14, 46:29, 50:1, 50:17).

Lần khóc này là lần khóc to tiếng hơn cả và được nhiều người nghe biết .

Trong đời ông, ông khóc cả thảy bảy lần, được ghi lại trong Kinh Thánh. (Stk 42:24, 43:30, 45:2, 14, 46:29, 50:1, 50:17).

Sau khi nghe những lời biện hộ của Giuđa. Giuse cầm ḷng không được. Ông bày tỏ ḿnh cho anh em, trong ràn rụa nước mắt. Ông khóc to đến độ cả triều đ́nh Ai cập nghe thấy.

Dĩ nhiên không phải ông khóc trên máy phóng thanh, hay trên đài phát thanh, hầu cho cả thủ đô Ai Cập hay triều đ́nh Ai cập nghe được. Biến cố Giuse gặp lại gia đ́nh, hay nói cho đầy đủ, bi kịch huynh đệ tương tàn của gia đ́nh Giacóp nay đi đến cái kết có hậu, rất hậu.

Mọi người nghe biết câu chuyện đều coi đó là một điều lạ lùng. Cả triều đ́nh Ai cập, và có lẽ cả đất nước Ai cập, nghe biết câu chuyện và tiếng khóc của ông hoàng Giuse cũng là điều dể hiểu và đúng thôi.

Tiếng khóc trong vui mừng. Vui quá mà khóc.

Giuse thay mặt mọi người nhận định về biến cố này như sau :

Stk 45:5 Ve'atah al-te'atzevu ve'al-yichar be'eineichem ki-mechartem oti henah ki lemichyah shlachani Elokim lifneichem. - And now, be not distressed, nor reproach yourselves for having sold me here, for it was to be a provider that G-d sent me ahead of you. - Nhưng bây giờ, các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận v́ đă bán tôi sang đây: chính là để duy tŕ sự sống mà Thiên Chúa đă gửi tôi đi trước anh em.

Một nhận định rất tích cực, rất hiền triết, và rất ...thần học. Ông không trách oán anh em . Ông thấy ra được điều tích cực trong khốn khó, tàn ác, dă man trong cơi đời ô trọc này .

Bao nhiêu năm trong ṿng lao lư, mang thân khâm phạm, bị ngược đăi tột cùng, vậy mà Giuse cho đó chỉ là “Thiên Chúa gửi” ông sang Ai Cập “trước” để ông có thể cứu sống cả gia tộc nhà ḿnh.

Khác xa với nhiều người ngày nay, khi chính ḿnh gặp đau khổ, thậm chí khi chỉ mới chứng kiến đau khổ tai ương sự tàn ác nơi người khác chung quanh ḿnh thôi, cũng đă giơ tay chỉ trời mà rằng : “Không có Thiên Chúa !”

Thôi chúng ta hăy trở về với thần học gia Giuse .

Thế là gia đ́nh đoàn tụ, anh em sum họp. Chuyện cũ lỗi xưa đă được quên đi. Và tha thứ.

Cả gia đ́nh từ Canaan, kéo sang Ai cập theo “diện đoàn tụ”, và định cư tại vùng Gosen.

Gia đ́nh sống qua năm năm hạn hán c̣n lại trong yên b́nh no ấm. và trong tiếng cười no nê hạnh phúc .

Rồi Giacóp qua đời .

Đến lúc Giuse sau khi có con đàn cháu đống (Stk 50:23), cũng qua đời .

Trước khi chết Giuse báo cho anh em ḿnh ông sắp măn phần. Ông cũng cho anh em ḿnh biết rằng Thiên Chúa sẽ đưa các anh em từ Ai Cập này trở về lại Đất Hứa (Stk 50:24) Ông yêu cầu anh em ḿnh nhớ mang xương cốt ḿnh trở về cố hương.

Khi Giuse chết , ông được ướp xác và chôn cất tại Ai cập.

Như thế Sáng Thế Kư kết thúc bằng thuật tŕnh kể lại hai cái chết: Một của Giacóp và một của Giuse .

Nếu khéo nh́n, chúng ta sẽ thấy rằng Sáng thế kư so sánh sóng đôi giữa những ǵ xảy ra ở cuối đời hai tổ phụ . Có giống nhau ,mà cũng có nhiều điều khác biệt .

Nhờ những khác biệt này, mà có khi, chúng ta hiểu được tâm t́nh lúc Giuse khóc lần cuối chăng ?

 

 

40-

Vào những chương cuối sách, Sáng thế kư ghi lại hai cái chết : bố Giacóp và Giuse . Khi bắt đầu nói về cái chết của hai vị ấy, Kinh Thánh dùng công thức “vayechi – ông đă sống .”

Stk 47: 28 Vayechi Yaakov be'eretz Mitzrayim shva esreh shanah vayehi yemei-Yaakov shnei chayav sheva shanim ve'arba'im ume'at shanah. - Yaakov lived in the land of Mitzrayim seventeen years; and the days of Yaakov - the years of his life - where one hundred and forty-seven years.- Ông Gia-cóp sống ở xứ Ai-cập mười bảy năm. Tuổi đời của ông là một trăm bốn mươi bảy năm.

Stk 50:22 Vayeshev Yosef beMitzrayim hu uveit aviv vayechi Yosef me'ah va'eser shanim. - Yosef dwelt in Egypt - he and his father's household - and Yosef lived one hundred and ten years. -Ông Giu-se, ông và gia đ́nh cha ông ở bên Ai-cập. Ông Giu-se sống được một trăm mười tuổi.

Công thức này chỉ dùng hai lần trong phần cuối sách, và chỉ dùng cho hai vị này mà thôi .

Cả hai đều được Sáng thế kư miêu tả kề cận cùng với con cái, cháu, chắt trước khi qua đời. Khi đặt tay chúc phúc cho hai cháu Ephraim và Manasseh (Stk 48:1-22) Giacóp coi hai cháu như con ḿnh, ngang vai ngang vế với Reuven và Shimon

Stk 48:5 Ve'atah shnei-vaneicha hanoladim lecha be'eretz Mitzrayim ad-bo'i eleicha Mitzrayim li-hem Efrayim uMenashshe kiReuven veShimon yihyu-li.- And now, your two sons who were born to you in the land of Egypt before my coming to you in Egypt shall be mine; Efrayim and Menashshe shall be mine like Reuven and Shimon. -Bây giờ hai đứa con trai con đă sinh được tại xứ Ai-cập trước khi cha đến Ai-cập với con, sẽ là của cha: Ép-ra-im và Mơ-na-se sẽ là của cha như Rưu-vên và Si-mê-ôn

Cả hai đều bắt con cháu thề nguyền mang di hài họ về lại Canaan: Stk 47:30, 50:25

Giacóp có gom con cháu lại và nói cho họ về tương lai ḍng tộc và chúc phúc cho họ (Stk 49:1-28) , th́ Giuse cũng nói cho “anh em ông” , nghĩa là cho “con cái Israel” biết về chương tŕnh Thiên Chúa dành cho họ sau ngay sau khi ông qua đời (Stk 50:24).

Cuối cùng , Giuse chết và Kinh Thánh kể rằng ông được ướp xác (Stk 50:26) giống như bố Giacóp đă được ướp xác (49:33, 50:2).

Stk 50: 26 Vayamot Yosef ben-me'ah va'eser shanim vayachantu oto vayisem ba'aron beMitzrayim. -Yosef died at the age of one hundred and ten years; they embalmed him and he was placed in a coffin in Egypt. - Ông Giu-se qua đời, thọ một trăm mười tuổi. Người ta ướp xác ông và đặt ông vào một quan tài ở Ai-cập.

Từ lúc bị bán đi cho đến lúc chết, đối với các anh em, Giuse vẫn là người “ngoài” ! Hơn thế nữa, ông như bị tách biệt khỏi gia tộc, quê hương và truyền thông Do thái.

Có điều, trong khi Kinh Thánh dành gần 74 câu ( Stlk 47: 28 – 50:13), để miêu tả về cái chết của Giacóp, cái chết của Giuse chỉ được tả vỏn vẹn trong bốn câu Stk 50:23-26 .

Hơn nữa, trong khi toàn dân tụ tập lại ( Stk 49:33), khóc than thương tiếc về cái chết của Giacóp (Stk 50:3,4-10), và đám táng được đưa rước linh đ́nh, Giuse chỉ được tả đơn giản rằng ông được đặt “vào một quan tài ở Ai-cập. “ (Stk 50:26 ).

Không có khóc lóc hay có chút ǵ thương tiếc.

Giacóp được mang thẳng về Canaan, về ngay hang Machpelah để an nghĩ bên tổ tiên (Stk 47:30, 49:29-31), trong khi Giuse chỉ yêu cầu “các anh em” và thân nhân rằng khi Thiên Chúa “nhớ đến anh em- etchem” và đưa anh em về miền đất Ngài đă hứa cho Abraham Isaac và Giacóp, th́ “bấy giờ anh em sẽ đưa hài cốt tôi lên khỏi đây.” (Stk 50:25)

Stk 50:24 Vayomer Yosef el-echav anochi met v'Elokim pakod yifkod etchem vehe'elah etchem min-ha'aretz hazot el-ha'aretz asher nishba le-Avraham le-Yitzchak ule-Yaakov.- Yosef said to his brothers, "I am about to die, but G-d will surely remember you and bring you up out of this land to the land that He swore to Avraham, to Yitzchak, and to Yaakov." - Ông Giu-se nói với các anh em: "Tôi sắp chết, nhưng thế nào Thiên Chúa cũng sẽ nhớ đến anh em và đưa anh em từ đất này lên đất mà Người đă thề hứa với ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp."

Stk 50:25 Vayashba Yosef et-benei Yisrael lemor pakod yifkod Elokim etchem veha'alitem et-atzmotai mizeh. - Then Yosef adjured the children of Yisrael saying, "When G-d will indeed remember you, then you must bring my bones up out of here." - (25) Ông Giu-se bắt con cái Ít-ra-en thề, ông nói: "Thế nào Thiên Chúa cũng sẽ viếng thăm anh em, bấy giờ anh em sẽ đưa hài cốt tôi lên khỏi đây."

Ông không dùng chữ “chúng ta”. Ông nói “etchem – các anh em.” Nghĩa là đối với ông , đất Canaan và tổ tiên, là những điều xa xôi vời vợi, thuộc về họ - các anh em ông – chứ không thuộc về ông.

Đối với ông , quê nhà, mồ mả tổ tiên chỉ c̣n là những cái tên .

Xét theo một lẽ, lư do khác biệt giữa Giuse và Giacóp rất dễ thấy. Giuse không phải là Giacóp. Giuse không phải là một tổ phụ. Nên cái chết của ông chẳng đáng quan tâm bằng cái chết của cha mẹ ông bà của ông.

Hơn nữa, có một khoảng thời gian rất lâu giữa hai cái chết. Giuse mất sau Giacóp sáu mươi tư năm ( Stk 41:46 ; 45:11 ; 47:28 ; 50;26 ). T́nh h́nh chinh trị và xă hội đă có nhiều thay đổi . Quê cha đất tổ càng ngày càng xa vời. Giuse giờ chỉ mong được gởi nắm xương tàn về chôn tại quê hương mà thôi .

Nhưng điều chúng ta cần lưu tâm khi thấy cách Kinh Thánh miêu tả hai cái chết, đó là h́nh như Kinh Thánh muốn hàm ngụ một điều ǵ quan trọng .

Dường như Giuse không thể hoà nhập hoàn toàn lại với các anh em. Dường như thân phận của Giuse, tuy là ông hoàng một cơi đất giầu mạnh, cũng chẳng thể nào sánh được với các tổ tiên tại Canaan.

Chúng ta thây rơ điều đó khi đọc đến đoạn người Ai Cập linh đ́nh tống táng Giacóp , nhưng lại vắng tiếng khóc khi Giuse mất đi.

Nghĩa là từ lúc bị bán đi cho đến lúc chết, đối với các anh em, Giuse vẫn là người “ngoài” ! Hơn thế nữa, ông như bị tách biệt khỏi gia tộc, quê hương và truyền thông Do thái.

Tại sao vậy ?

 

 

 


Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 

Xem các bài viết khác trong Lớp Ngôn sứ , Khoá 15 GHHV Đà Lạt Việt Nam.