Huynh đệ như thủ túc
兄弟如手足

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

MichelAnge

 

 

 

41-

Điều ǵ đă khiến cho Giuse măi măi bị coi như là người ngoại tộc?

Một biến cố có thể giúp soi sáng vấn đề cho chúng ta hiểu thêm. Đó là vừa khi Giacóp nằm xuống, các anh em ông đă lo lắng rằng bây giờ Giuse sẽ bắt đầu đâm ra ghét họ .Và bây giờ họ phải trả món nợ xưa, món nợ máu : Stk 50:15.

15 Vayir'u achei-Yosef ki-met avihem vayomru lu yistemenu Yosef vehashev yashiv lanu et kol-hara'ah asher gamalnu oto. - Yosef's brothers perceived that their father was dead, and they said, "Perhaps Yosef will nurse hatred against us and then he will surely repay us all the evil that we did him."- Các anh ông Giu-se thấy cha ḿnh đă chết th́ bảo nhau: "Không khéo Giu-se c̣n hận chúng ta và trả lại cho chúng ta tất cả điều ác chúng ta đă gây ra cho nó! "

V́ thế họ gửi người tới nói với Giuse :

16 Vayetzavu el-Yosef lemor avicha tzivah lifnei moto lemor. -So they instructed that Yosef be told, "Your father gave orders before his death, saying: -Họ sai người đến nói với ông: "Cha của chú trước khi chết đă truyền rằng:

17 Koh-tomru le-Yosef ana sa na pesha acheicha vechatatam ki-ra'ah gemalucha ve'atah sa na lefesha avdei Elokei avicha vayevk Yosef bedabram elav. -'Thus shall you say to Yosef: "O please, kindly forgive the spiteful deed of your brothers and their sin for they have done you evil"'; so now, please forgive the spiteful deed of the servants of your father's G-d." And Yosef wept when they spoke to him. - Các con hăy nói thế này với Giu-se: "Thôi! Xin con tha tội tha lỗi cho các anh con, v́ họ đă gây ra điều ác cho con." Bây giờ xin chú tha tội cho các kẻ làm tôi Thiên Chúa của cha chú! " Ông Giu-se khóc, khi họ nói với ông như thế.

Nhưng có thật vậy không ? Có thật là Giacóp đă nói với các anh của Giuse như thế không?

Trước hết chúng ta chẳng t́m được chổ nào trong Kinh Thánh Giacóp đă từng nhắn nhủ các anh như thế trước khi ông mất !

Hơn thế, khi đọc lại câu chuyện anh em bàn mưu giết Giuse, thuật tŕnh cho ta nhiều điểm tương đồng lư thú:

Trước hết họ “ vayir’u - thấy” Giuse từ xa, rồi “nói” với nhau, “vayomru- bàn” với nhau. Sau khi xong chuyện, họ ‘vayeshalchu- sai người, cho người” mang cái áo đẫm máu về cho Giacóp .

Stk 37: 18 Vayir'u oto merachok uveterem yikrav aleyhem vayitnaklu oto lahamito. - They saw him from a distance, and before he approached them they were plotting against him to kill him. -Họ thấy cậu từ xa, và trước khi cậu tới gần họ th́ họ lập mưu giết chết cậu.

Stk 37: 19 Vayomru ish el-achiv hineh ba'al-hachalomot halazeh ba. - One man said to another, "Here comes the dreamer. -Họ bảo nhau: "Thằng tướng chiêm bao đang đến kia!

Stk 37: 32 Vayeshalchu et-ktonet hapasim vayavi'u el-avihem vayomru zot matzanu haker-na haktonet binkha hi im-lo. - They sent the long, colorful coat and brought it to their father, and said, "We found this. Please identify it. Is it your son's coat or not?"- Họ gửi người mang cái áo chùng dài tay về cho cha họ và nói: "Chúng con đă thấy cái này. Xin cha nhận ra xem có phải là áo của con cha hay không."

Trước hết họ “ vayir’u - thấy” cha ḿnh Giacóp, đă chết , rồi “nói” với nhau, “vayomru- bàn” với nhau. Sau khi bàn xong chuyện, họ ‘vayeshalchu- sai người, cho người” chuyển thông tin cho Giuse.

Tội phạm ngày xưa diễn ra như thế, bây giờ câu chuyện cũng diễn biến tương tự:

Trước hết họ “ vayir’u - thấy” cha ḿnh Giacóp, đă chết , rồi “nói” với nhau, “vayomru- bàn” với nhau. Sau khi bàn xong chuyện, họ ‘vayeshalchu- sai người, cho người” chuyển thông tin cho Giuse .

Khi xét hai câu chuyện cách song song như thế, rơ ràng chúng ta thấy các anh chỉ bịa đặt câu chuyện ra mà thôi. Giuse biết bố Giacóp không hề truyền cho các anh nói như thế .

Lần nữa Giuse lại biết các anh có âm mưu .

Giuse phản ứng bằng cách ... khóc !

“Yosef bedabram elav. And Yosef wept when they spoke to him. Ông Giu-se khóc, khi họ nói với ông như thế.’ (Stk 50:17)

Đây là lần khóc thứ bẩy của ông. Và là lần cuối cùng !( Stk 50:17)

 

 

42-

Như chúng ta đă biết, Kinh Thánh ghi lại Giuse đă khóc bẩy lần (Stk 42:24, 43:30, 45:2, 14, 46:29, 50:1, 50:17).

Nhưng lần này khác nhưng lần trước .

Có những giọt nước mắt buồn thương khóc trên xác cha già Giacóp ( Stk 50:1).

Có những giọt nước mắt vui mừng khóc lúc trùng phùng trên vai Cha (Stk 46:29), hay lúc gặp Benjamin ( Stk 46:14). Lúc ấy Giuse gục đầu trên vai một ai đó (Stk 46:14,29; 50:1).

Nhưng lần thứ bảy này, nước mắt này đổ ra không v́ một ai. Giuse khóc hoàn toàn trong cô độc và vắng vẻ.

“Yosef bedabram elav. And Yosef wept when they spoke to him. Ông Giu-se khóc, khi họ nói với ông như thế.’ (Stk 50:17)

V́ thế, đây là những giọt nước mắt không b́nh thường. Lần này Giuse khóc không phải để than khóc ai qua đời hay khóc v́ vui mừng trùng phùng gặp lại ai.

Đây là những giọt nước mắt cô độc, như đă có lần Giuse khóc một ḿnh trong pḥng vắng, lúc chưa bày tỏ phận ḿnh cho anh em. Những giọt nước mắt ấy đă trộn lẫn, cả buồn, thương, lẫn uất hận tồn đọng từ những năm tháng tù đày, tủi nhục trong hầm tối: (Stk 45:2).

Ba lần khóc đầu tiên, (Stk 42:24, 43:30, 45:2) Giuse khóc trong bồn chồn lo lắng v́ khắc khoải giằng co giữa t́nh thương và tha thứ. Đó là những giọt nước mắt của câu chuyện Giuse và các anh em.

Ba lần khóc tiếp theo là những giọt nước mắt dành cho bố già Giacóp và người em Benjamin thân yêu. Đây là những giọt nước mắt vui mừng, khóc trong hoan lạc đoàn tụ gia đ́nh.

Những giọt châu này đền bù và làm cân bằng những giọt lệ thảm trước kia khóc khi gặp các anh.

Thế mà lần khóc thứ bảy này, Giuse lại khóc trong bi phẫn: Các anh của Giuse sợ ông, Họ nghĩ rằng ông sẽ trả thù và không dám trực diện gặp ông. Họ núp sau người sứ giả, và các tưởng tượng của họ.

Sau 17 năm chịu ơn ông và được ông cưu mang tại đất Ai Cập(Stk 47:28) - bằng khoảng thời gian thời niên thiếu ông sống chung với các anh trong gia đ́nh – và đủ lâu khiến các anh em đâm ra ghét ông (stk 37:2) – th́ ông không không thân mặt với họ được nữa. Ông lại trở thành “kẻ xa lạ” với họ như trước kia.

Vậy ra cuộc đời của Giuse gồm hai phần . Cả hai phần đời đều bi đát.

Cái chết của Giacóp làm bản lề nối hai phần ấy lại. Ngay sau khi Giacóp mất đi, Kinh Thánh kể lại câu chuyện Giuse khóc , và phần này kết thúc với câu

Stk 50:22 Vayeshev Yosef beMitzrayim hu uveit aviv vayechi Yosef me'ah va'eser shanim. -Yosef dwelt in Egypt - he and his father's household - and Yosef lived one hundred and ten years. -Ông Giu-se, ông và gia đ́nh cha ông ở bên Ai-cập. Ông Giu-se sống được một trăm mười tuổi.

Chi tiết này cho chúng ta thấy điều chi ?

Giuse sống đến 110 tuổi. Vậy các anh em của ông sống chung với ông và bố Giacóp được 17 năm. Sau khi bố mất, họ c̣n sống chung với Giuse thêm được 64 năm nữa, rồi Giuse mới qua đời.

Nếu 17 năm sống chung, có bố bên cạnh, mà các anh vẫn không yên tâm được rằng Giuse đă hoàn toàn tha thứ cho các anh , th́ 64 năm kế tiếp, cùng với những giọt nước mắt của Giuse đổ ra và cả lời đề nghị của các anh xin làm thân nô lệ, liệu có mang lại kết quả tích cực nào khiến tương quan “anh em như thế tay chân” thành đậm đà hơn không ?

Dường như t́nh h́nh không thay đổi là bao. Cho đến cuối đời Giuse vẫn không bằng Giacóp. Giuse vẫn không thành một tổ phụ. Ông vẫn bị các anh em xa cách. Và khi ông chết, dường như chẳng ai than khóc không (Stk 50:23-26). Kinh thánh chỉ ghi đơn giản rằng :

Stk 50:26 Vayamot Yosef ben-me'ah va'eser shanim vayachantu oto vayisem ba'aron beMitzrayim. - Yosef died at the age of one hundred and ten years; they embalmed him and he was placed in a coffin in Egypt. -Ông Giu-se qua đời, thọ một trăm mười tuổi. Người ta ướp xác ông và đặt ông vào một quan tài ở Ai-cập.

Không ai than khóc ông !

Tại sao Giuse lại hẩm hiu đến thế ? Cho đến cuối đời các anh em ông vẫn xa cách ông ?

 

 

43-

Dường như vai tṛ của Giuse phải thế. Đó vừa là thảm kịch vừa là vinh quang của ông.

Ông vừa là người bảo trợ vừa phải là người nuôi dưỡng các anh em ông. Để chu toàn hai vai tṛ này, ông cứ phải là ông hoàng AiCập, người thứ hai sau Pharaô.

Ngay từ khi tỏ ḿnh cho anh em, Giuse đă hứa sẽ là người bảo trợ chu cấp cho anh em (Stk 45:11) v́ lúc ấy c̣n những năm năm mất mùa nữa. Các anh ông và gia đ́nh đă phải vội vă dời cư xuống vùng Goshen, để gần gũi với Giuse và để có thể sống c̣n qua cơn đói kém (Stk 45:10-11).

Sau nạn đói, tuy cơn nguy khốn đă qua rồi, mà các anh dường như vẫn sống nhờ vào Giuse. Hơn thế nữa, khi bố Giacóp mất đi, sau khi đă trấn an anh em một lần nữa, Giuse vẫn tiếp tục chu cấp cho các anh em và gia đ́nh (Stk 50:21)

Như thế, rơ ràng con cái Israel chẳng bao giờ tự lực được về phương diện tài chánh, dù nạn đói qua đă lâu .

Kinh thánh lại c̣n cho ta một chi tiết về vai tṛ bảo trợ cần thiết của Giuse khi ghi rằng :

Nghĩa là Giuse sống cách biệt các anh em cả trên b́nh diện thể lư lẫn văn hóa. Thời gian càng qua, Giuse càng trở nên người bảo trợ và cung cấp thực phẩm cho gia đ́nh hơn là trở lại thành một thành viên trong gia đ́nh như xưa !

Xh 1: 8 Vayakom melech-chadash al-Mitzrayim asher lo-yada et-Yosef. - A new king arose over Egypt, who did not know of Yosef.- Thời ấy có một vua mới lên trị v́ nước Ai-cập, vua này không biết ông Giu-se.

9 Vayomer el-amo hineh am benei Yisrael rav ve'atzum mimenu. - He said to his people, "Behold! the people, the Children of Yisrael, are more numerous and stronger than we. -Vua nói với dân ḿnh: "Này đám dân con cái Ít-ra-en đông đúc và hùng mạnh hơn chúng ta.

10 Havah nitchakemah lo pen-yirbeh vehayah ki-tikrenah milchamah venosaf gam-hu al-sonenu venilcham-banu ve'alah min-ha'aretz. - Come, let us outsmart it lest it become numerous and it may be that if a war will occur, it, too, may join our enemies, and wage war against us and go up from the land." -Chúng ta hăy dùng những biện pháp khôn ngoan đối với dân đó, đừng để chúng nên đông đúc, kẻo khi có chiến tranh, chúng hùa với địch mà đánh lại chúng ta, rồi ra khỏi xứ."

11 Vayasimu alav sarey misim lema'an anoto besivlotam vayiven arey miskenot le-Par'oh et-Pitom ve'et-Ra'amses. - So they appointed taskmasters over it in order to afflict it with their burdens; it built storage cities for Pharaoh, Pitom and Ra'amses.- Người ta bèn đặt lên đầu lên cổ họ những viên đốc công, để hành hạ họ bằng những việc khổ sai; họ phải xây cho Pha-ra-ô các thành làm kho lương thực là Pi-thôm và Ram-xết.

Ngay sau khi Giuse vừa mất đi , th́ vị tân Pharaô lên ngôi. Kinh Thánh nói ông này “lo-yada et-Yosef – không biết ông Giuse.” . Ảnh hưởng bao bọc che chở của Giuse không c̣n. T́nh h́nh chính trị và xă hội của đám dân Do thái v́ thế bị thay đổi. Họ nhanh chóng trở thành nô lệ và t́nh h́nh càng ngày càng tồi tệ.

Nói tắt, Giuse đă từng là một ông hoàng Ai Cập có hơn chín năm trời trước khi gặp lại các anh em, và vẫn c̣n là ông hoàng 26 năm sau khi bố Giacóp chết đi. Khi Giacóp đăn măn phần, Giuse vẫn c̣n tiếp tục sống trong địa vị ông hoàng Ai Cập, tại thủ đô Ai Cập, trong cung Pharaô, c̣n các anh em ông sống tại b́nh nguyên Goshen. Nghĩa là Giuse sống cách biệt các anh em cả trên b́nh diện thể lư lẫn văn hóa.

Và thời gian càng qua, Giuse càng trở nên người bảo trợ và cung cấp thực phẩm cho gia đ́nh hơn là trở lại thành một thành viên trong gia đ́nh như xưa !

Xa cách huynh đệ và lạc lơng, xa gia đ́nh, mất văn hóa, mất gia phong, phải chăng đó chính là phần số của Giuse. Phần số cao cả như một sứ mạng, nhưng là một sứ mạng đầy bi kịch Giuse phải chấp nhận và chu toàn

Nhưng cách biệt thể lư và xa cách không gian chỉ là môt phần lư giải cho những giọt nước mắt của Giuse. Chính cái tương quan huynh đê - tương quan hay xung khắc ? – giữa Giuse và các anh em mới là lư do chính cho những giọt nước mắt vào cuối đời ông .

 

 

44-

Như chúng ta đă nói, Giuse đă khóc khi các anh sai sứ giả đến thuật lại lời – do các anh nguỵ tạo - của Giacóp thều thào trên giường chết, nhắn nhủ Giuse phải tha thứ cho các anh ( Stk 50:16-17).

Nhưng Giuse không sai sứ giả trả lời cho anh em.

Trở lại khảo sát kỹ hơn một chút về thuật tŕnh, chúng ta thấy có sự song song sóng đôi.

Hai lần gặp gỡ, tuy cách nhau 17 năm, mà sao xảy ra giống nhau quá chừng.

Khi không thấy Giuse sai người mang câu trả lời, các anh em sợ điều xấu nhất có thể xảy ra , nên họ đích thân đến gặp Giuse (Stk 50:18).

Giống như 17 năm trước, khi họ phác giác ra cái chén bạc trong bao lương thực của Benjamin, các anh sụp lạy trước mặt Giuse , và tự nguyện xin làm thân nô lệ cho Giuse, thi lần này họ đến gặp Giuse và sụp lạy ông (Stk 44:14 và 50:18).

Mười bẩy năm trước, Giuse khóc, mà không khóc trước mặt các anh (Stk 42:24 ; 43:30) th́ lần này cũng thế, ông khóc, nhưng không khóc trước mặt các anh (Stk 50:17-19).

Lần trước các anh tự nguyện làm thân nô lệ v́ mặc cảm tội lỗi bán Giuse (Stk 44:16), th́ lần này , họ cam ḷng làm nô lệ v́ chính cái tội cũ ấy (Stk 50:15).

Đă đến nước này, Giuse trả lời “ “ (Stk 50:19-21)

Stk 50:19 Vayomer alehem Yosef al-tira'u ki hatachat Elokim ani. - But Yosef said to them, "Fear not, for am I instead of G-d?- Ông Giu-se nói với họ: "Đừng sợ! Tôi đâu có thay quyền Thiên Chúa!

Stk 50:20 Ve'atem chashavtem alay ra'ah Elokim chashavah letovah lema'an asoh kayom hazeh lehachayot am-rav. -Although you intended me harm, G-d intended it for good: in order to accomplish - it is as clear as this day - that a vast people be kept alive.- Các anh đă định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt, để thực hiện điều xảy ra hôm nay, là cứu sống một dân đông đảo.

Stk 50:21 Ve'atah al-tira'u anochi achalkel etchem ve'et-tapchem vayenachem otam vayedaber al-libam. - So now, fear not - I will sustain you and your young ones." Thus he comforted them and spoke to their heart. -Bây giờ các anh đừng sợ, tôi sẽ cấp dưỡng cho các anh và con cái các anh." Ông an ủi và chuyện tṛ thân mật với họ.

Câu nói này lập lại ư tưởng câu ông nói mười bẩy năm trước :

Stk 45:5 Ve'atah al-te'atzevu ve'al-yichar be'eineichem ki-mechartem oti henah ki lemichyah shlachani Elokim lifneichem. -And now, be not distressed, nor reproach yourselves for having sold me here, for it was to be a provider that G-d sent me ahead of you.- Nhưng bây giờ, các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận v́ đă bán tôi sang đây: chính là để duy tŕ sự sống mà Thiên Chúa đă gửi tôi đi trước anh em.

Điều cay đắng của Giuse là, mặc dù ông đă nhấn mạnh “Thiên Chúa đă định” cho điều ác “thành điều tốt”, mặc dù ông đă tha thứ hoàn toàn cho các anh, và đă cấp dưỡng cho họ suốt mười mấy năm ṛng, vậy mà vẫn không có ǵ thay đổi . Các anh vẫn c̣n bị cái tội cũ dày ṿ. Các anh vẫn cứ tin rằng Giuse c̣n đang nuôi ư định trả thù, nên họ tự cảm thấy cần phải làm thân nô lệ.

Trước hoàn cảnh này, Giuse không biết sao hơn , ngoài việc ứa lệ, và lập lại những lời tha thứ đă từng nói xưa kia. Giuse không hề giữ ḷng thù hận. Với ông mọi chuyện đều là chương tŕnh của Thiên Chúa. Số phận ông là phải nuôi dưỡng gia đ́nh .

Và như thế đó mới chính là nỗi buồn ḷng, cái thảm kịch của đời ông. Ông thật t́nh đă thứ tha cho các anh, Nhưng các anh vẫn bị vấp ngă bởi nỗi xót xa tội cũ. Các anh không thể tin được rằng các anh đă được tha thứ! .

Nhưng tại sao các anh lại không tin được vào lời tha thứ của Giuse ? Ông đă lập đi lập lại rằng ông tha thứ, rằng điều ác anh em đă làm th́ chính Thiên Chúa đă xếp đặt như thế và đă chuyển thành điều tốt cho mọi người .

Bị ám ảnh bởi quá khứ, các anh bị tội cũ khống chế. Không thể vượt qua quá khứ các anh khó ở với Giuse. Vẫn lo sợ và nghi kỵ Giuse, chính các anh lại là cái thảm kịch của phần số Giuse.

Có lẽ điều khiến anh em bị khựng lại trong quá khứ chính là v́ Giuse đă tỏ ra là một người em quá công chính. Bị các anh bán làm nô lệ, sống 13 năm trong tủi nhục nơi ngục thất đất lạ quê người, vậy mà Giuse vẫn tha thứ cho anh em, không chút thù hận hay chua chát . Mà lại c̣n khẳng định đó là thánh ư Chúa! Ngài muốn thế để ông trở thành người bảo lănh và chu cấp nuôi sống các anh em thủ phạm sau này.

Chắc chắc là Giuse cũng có chút chua xót, có chút phiền ḷng, nhưng ông tha thứ hết. Chỉ để muốn trở lại thành người anh em giữa các anh ḿnh . Như xưa .

Có lẽ chính sự công chính ấy khiến các anh không thể hiểu được Giuse . Họ đă lấy bụng tiểu nhân đo ḷng quân tử.

 

 

 


Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 

Xem các bài viết khác trong Lớp Ngôn sứ , Khoá 15 GHHV Đà Lạt Việt Nam.